Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Hakuin Ekaku (1686 – 1768)

23 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10484)
2. Hakuin Ekaku (1686 – 1768)

BA THIỀN SƯ
Ikkyu Sojun - Hakuin Ekaku - Ryokan Taigu
Nguyên tác Anh ngữ: Three Zen Masters: Ikkyu, Hakuin, and Ryukan
Tác giả John Stevens - NXB Kodansha International in năm 1993 tại Nhật
Việt dịch: Cư Sĩ Nguyên Giác, 2003

HAKUIN EKAKU
(1686 – 1768)

blankKhông như trường hợp Ikkyu, nhiều chi tiết tự truyện đã được tìm thấy trong chính các tác phẩm của Hakuin, vì sư là một trong vài Thiền sư tự kể lại thời tuổi trẻcon đường tìm đạo khá chi tiết. Gia đình của Hakuin điều hành một lữ quán, và còn làm bưu tín viên của Hara, một ngôi làng nằm dưới chân Núi Fuji (Phú Sĩ) và một trạm bên đường trên Tokaido, xa lộ chạy từ Edo (Tokyo) tới Kyoto.

Ngay từ khi ra đời năm 1686, mẹ sư cảm thấy đứa con thứ năm của bà và là đứa con trai thứ ba của bà rất là đặc biệt. Bà kể lại cho sư, “Con sinh vào năm sửu, tháng sửu, ngày sửu, giờ sửu.” Sửu tức là trâu, là con vật linh thiêng của Tenjin (vị thần được sắc phong từ nhân vật Sugawara no Michizane, 845—903, vị bảo hộ cho văn chươnghọc thuật), và Hakuin trở thành kẻ suốt đời sùng mộ vị thần điềm lành này. Vì lý do nào đó, Hakuin không đi được cho tới năm hai tuổi, nhưng khi ba tuổi, cậu bé đã thuộc lòng tất cả các chữ trong tất cả các bài ru con và bài dân ca mà cậu đã nghe. Năm bốn tuổi, khi thăm bờ biển và thấy sóng xô đi vô tận, và mây trôi dạt đã làm cậu bé đột nhiên khóc – cậu trực giác được tánh vô thường của thế giới.

Cậu bé đã để phần nhiều thời thơ ấu nhiệt tình theo mẹ khi bà tới các ngôi chùa địa phương để nghe giảng pháp, và làm gia đình cậu ngạc nhiên khi lặp lại chính xác những gì cậu đã nghe. Một tu sĩ một lần tới thăm gia đình cậu, tiên tri những điều lớn lao cho cậu bé dị thường, và rồi để lại lời khuyên cho Hakuin:

(1) Đừng hoang phí thực phẩm; trộn một chút nước nóng với bất cứ gì còn [trong chén của cậu] và ăn hết;
(2) Luôn luôn tiểu tiện khi ngồi xổm;
(3) Hướng bắc là linh thiêng, nên đừng mạo phạm nó bằng việc tiểu tiện, đại tiện, hay ngồi mà lưng hay là duỗi chân về hướng đó. Và đừng bao giờ quên sáu năm Phật đã nhịn đói trong Hy Mã Lạp Sơn và chín năm Bồ Đề Đạt Ma ngồi trong hang tọa thiền. Hãy giữ gìn ba giới này, hãy học định tâm như Phật và Bồ Đề Đạt Ma, và ngươi sẽ được hưởng phước sống trường thọ.

Sau lần gặp vị tu sĩ dị nhân đó, Hakuin đã trung thành giữ các lời dạy đó suốt đời.

Khi mười tuổi, Hakuin và bà mẹ sùng đạo dự buổi thuyết pháp sinh động của một vị sư thuộc tông phái Nichiren (Nhật Liên Tông, lấy Kinh Pháp Hoa làm trọng tâm. LND) về các đau đớnđịa ngục. Ngay cả nhiều năm về sau, Hakuin cũng kể lại rằng những lời kinh khiếp đó đã làm đóng băng lá gan cậu bé với nỗi sợ hãi, và làm cậu run rẫy kinh hoàng nhiều ngày. Cậu lập tức ngưng đánh nhau với bạn hữu, và ngập tràn ân hận vì đã sát hại các côn trùng và vì đã nghịch phá những con thú nhỏ tới chết. Không lâu sau bài thuyết pháp rực lửa địa ngục đó, Hakuin tắm vơí mẹ cậu, người thích tắm hơi nước nóng. Các tấm ván rạn nứt, những tia lửa bắn ra, và tiếng nước sôi trào trên kim loại làm gợi nhớ tới địa ngục một cách mãnh liệt, tới nỗi cậu hét lên kinh sợ. Sau khi bình lặng lại, cậu thú nhận với mẹ rằng cậu sợ rớt vào lửa địa ngục. Bà khuyến khích cậu bé cầu nguyện Tenjin, vị thần hộ pháp của cậu, để xin bảo vệ. Sau đó trở đi, Hakuin đều thức dậy mỗi đêm vào giờ sửu (2 giờ sáng) để cầu nguyện thần Tenjin với nhang, hoa và kinh cầu.

Bất kể chuyên cần cầu nguyện như thế, Hakuin vẫn lo ngại là Tenjin có thể không bảo vệ được nếu thấy cậu trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó. Một lần, một trong các mũi tên chơi nghịch của cậu bay lạc hướng bia, và ghim vào một bức tranh giá trị đang treo trong phòng giưã nhà. Sau khi bị phạt về việc này, Hakuin lo ngại, “Nếu Tenjin không thể giúp mình trong chuyện nhỏ như thế, thì làm sao ngài bảo vệ mình khỏi bị tra tấn trong địa ngục?” Đêm đó, cậu nhắm mắt và nói, “Tenjin! Nếu ngài thực sự có năng lực đưa con ra khỏi địa ngục, xin làm cho khói cây nhang đi lên một đường thẳng. Nếu không, xin hãy làm khói bay xoay vòng.” Cậu mở mắt và thấy khói bay lên thẳng một đường. Nhắm mắt lại và tụng một bài kinh tạ ơn, rồi cậu mở mắt lần nữa thì thấy khói tản ra mọi hướng. Hoang mang, cậu mới quyết định thờ chung Tenjin với Quan âm, vị bồ tát của lòng đại từ đại bi nổi tiếng về công năng cứu độ.

Tuy nhiên, dù thờ chung cả Tenjin và Quan âm, Hakuin vẫn còn sợ bị đọa địa ngục đời đời. Trong một lễ hội nhà chùa, Hakuin xem một vở kịch búp-bê về các phép lạ của một nhà sư tông phái Nichiren, sư Nisshin (1407—88), người bước đi trong lửa hồng mà không bị phỏng và bị nhấn xuống nước mà không chết chìm. Hakuin mới suy nghĩ, “Đó là chìa khóa. Nếu ta rời bỏ thế gian và đi tu, mình chắc chắn sẽ được cứu.” Trong khi mẹ cậu chấp thuận, thì cha cậu cho là cậu còn quá non nớt để quyết định xuất gia, nên cậu bé tự tìm tòi học hỏi, trong vòng ba năm đã học thuộc lòng các bộ sách lớn Kinh Kim Cương, Collection of Zen Words and Phrases (Nhật: Kuzoshi; Việt: không rõ cuốn gì, nhưng đây là tuyển tập các thiền ngữ) và cả kinh điển Nho giáo.

Hakuin cũng ẩn mình vào núi, tách rời khỏi ồn àohỗn loạn của đời thường. Hakuin tạc tượng Quan âm từ một thân cây và để nhiều giờ đồng hồ tụng kinhtọa thiền trước ảnh tượng này. Một lần, một trận lụt cắt lìa Hakuin khỏi ngôi làng. Khi mực nước không hạ xuống sau hai ngày, chàng Hakuin mất kiên nhẫn mới cởi bỏ áo quần, cột thành bó và mang trên vai, rồi nhảy vào dòng nước đang cuồn cuộn, tay múa thanh kiếm nhỏ để xua đuổi bất kỳ ma quỷ nào có thể hiện ra. Sau khi về nhà an toàn, chàng mới nói với bố mẹ đang lo sợ, “Con không thể chờ lâu hơn – thời giờ rất quý giá, và con không thể mất một phút nào trong cuộc tìm đạo.”

Năm 1699, khi cậu 13 tuổi, bố mẹ cuối cùng đồng ý, và Hakuin thọ giới thành một tu sĩ Thiền môn bởi Tanrei (viên tịch 1701), trụ trì của chùa Shoin-ji, một ngôi chùa địa phương từng được hồi phục bởi một ông bác của Hakuin. Hakuin phát nguyện sẽ tu học cho tới khi đạt khả năng không bị tổn hại bởi lửa và không bị nhận chìm bởi nước.

Ngay lập tức sau khi thọ giới, Hakuin được gửi đi học với vị sư học giả Sokudo (viên tịch 1712) ở ngôi chùa gần đó, Daisho-ji. Nơi đây, Hakuin học Kinh Pháp Hoa, kinh mà chàng xem không hơn gì một tuyển tập truyện thần tiên và các ẩn dụ đơn giản. Không chịu thụ động chấp nhận bất kỳ học thuyết nào, Hakuin đưa câu hỏi lên Sokudo: “Con xa lìa phụ mẫu để học Phật. Kinh Pháp Hoa được xem là ‘Vua của các kinh Phật,’ nhưng ngoài giáo lý ‘Nhất Thừa’ [trong đó, tất cả pháp Phật đều được hòa hợp] kinh hầu hết chứa đựng những gì có thể gặp trong cổ điển Trung Hoa, sách nhạc, và ngay cả các bài ca kỹ nữ geisha. Vậy thì giá trị Phật Giáo chỗ nào?” Sokudo không có câu trả lời sẵn sàng, nhưng ngài ca ngợi khát vọng của cậu học trò muốn khám phá ra sự thực cho chính mình.

Năm 1703, chàng trai 17 tuổi quyết định đi hành hương như một unsui, “một nhà sư dạt theo mây và trôi với nước, trong cuộc lữ hành tìm Đạo.” Trước tiên, sư tới tu viện Zenso-ji, nơi sư nghe vị trụ trì một hôm kể về Yen-t’ou (Nhật: Ganto; Việt: Nham Đầu; các năm 828-87), một Thiền sư Trung Hoa nổi tiếng. Một lần, Nham Đầu và nhóm tăng sĩ của sư bị bọn cướp phục kích. Trong khi các sư khác kinh hoàng bỏ chạy, sư Nham Đầu lặng lẽ ngồi xuống theo tư thế thiền tọa. Khi ngài bị bọn cướp giết chết, tiếng thét của ngài vang nhiều dặm xa. Hakuin nói, “Nếu một nhà sư đạo hạnh tôn kính như thế lại chịu khổ đau như thế, thì cái phận nào để cho những kẻ như mình? Chắc chắn là không có gì vô dụng hơn là một nhà sư!” Nghi vấn đã ném Hakuin vào sự dao động dữ dội, và sư không thể ăn hay ngủ trong nhiều ngày. Cuối cùng, sư kết luận trong tuyệt vọng rằng sư trước sau gì cũng rớt vô địa ngục và không còn gì để lo ngại về số phận mình nữa. Từ đó, sư quá xấu hổ để trở về nhà trong thảm bại đáng khinh, sư quyết định ít nhất phải thành danh về mặt văn chương

Trong khi Hakuin tu học ở Zenso-ji, một thiếu nữ địa phương đã say mê chàng ngay sau khi tình cờ gặp sư trong làng. Bố mẹ cô mới đề nghị nhận chàng vào gia đình, và thúc giục sư xả giới thầy chùa để cưới con gái của họ. Hakuin thực sự bị lôi cuốn bởi cô này, nhưng sư chống lại cám dỗ đó, tự nhắc nở bằng các lời nguyện mà sư đã tuyên thệ rằng không bao giờ dao động trên đường tìm đạo. (Thiếu nữ này từ trần vài năm sau, và sau khi Hakuin xây ngôi chùa Ryutaku-ji, một tấm bia tưởng niệm cô được dựng trong chùa này.)

 Năm 1704, Hakuin nghe về một nhà sư tên Bao (1629-1711), người nổi tiếng là không ai ngang hàng về mặt thi ca. Sư Bao là trụ trì chùa Zuiun-ji, một ngôi chùa nhỏ tại Mino, miền Trung Honshu, và Hakuin tới đó với một nhóm 12 vị sư. Trong vòng vài tháng, tình hình nghèo nàn của chùa và kỷ luật gay gắt của sư Bao đã đánh bại mọi người, chỉ trừ Hakuin. Khi các vị sư sửa soạn bỏ đi, sư Bao tới nói với Hakuin, “Tốt lắm, họ đang bay ra khỏi nhà tù. Còn ngươi thì sao?” Hakuin nói với sư Bao rằng chàng sẽ không bao giờ chịu thua.

Một khi đơn độc với vị thầy nghiêm khắc này, Hakuin đạt tiến bộ mau chóng với thơ của chàng làm, nhưng lần nữa chàng lại bị tấn công bởi lòng tự nghi vấn: “Ngay cả nếu thơ của mình vượt qua thi hào Lý Bạch (701-62) hay Đỗ Phủ (712-70), thì cũng không giúp mình tí xíu nào khi mình gặp Diêm Vương!” Hakuin bước ra hàng hiên chùa, nơi sách trong chùa đang được phơi và cầu nguyện, “Chư Phật và chư thiên ơi! Hãy giúp con trong nỗ lực tìm đạo và chỉ ra đường nào con nên theo!” Chàng nhắm mắt và bốc đại lên một cuốn sách. Đó là cuốn Smashing Through the Zen Barrier (Zenkan Sakushin, nghĩa của nhan đề Anh Văn là “Phá Xuyên Cổng Nhà Thiền”). Sư mở sách thấy ngay truyện của nhà sư Trung Hoa Tz’u-ming (Jimyo, 987-1040). Khi sư Tz’u-ming cảm thấy buồn ngủ trong các thời tọa thiền suốt đêm của mình, sư mới lấy mũi khoan ghim vào đùi để tỉnh thức. Khi được hỏi vì sao tự xử nghiêm khắc như thế, sư mới nói, “Với rất mực tinh tấn, chư tổ mới giác ngộ. Nếu không thành tựutrong đời, mà chết đi vô ích thì thiệt là uổng phí. Đó là lý do vì sao ta tự đâm vào đùi.” Được sách tấn bởi câu chuyện này, Hakuin quyết tâm trì chí hơn bao giờ hết.

Trong khi Hakuin tu học ở chùa sư Bao, bà mẹ của Hakuin chết, nhưng chàng không thể về dự tang lễ mẹ. Năm 1705, tu sĩ 19 tuổi này rời chùa Zuiun-ji để nhập chúng của Nanzen (1662-1710) trong khóa an cư kiết hạ. Nơi đó Hakuin trở thành quen thuộc với và ngay lập tức thấy không ưa loại Thiền “Bình Thường” (tức là “Vô Sanh”), một loại Phật Giáo sơ sài, đi-theo-dòng; loại này tránh xa sự nương tựa vào bất kỳ hình thức tu tập theo quy luật hay kỷ luật nghiêm khắc nào.

Năm kế tiếp, Hakuin khám phá ra cuốn Hư Đường Ngữ Lục, ghi lời dạy của Thiền Sư Trung Hoa từng gợi hứng cho Ikkyu. Hakuin mới đi tới chùa Joko-ji để dự một loạt các bài giảng về cuốn này, giảng bởi sư trụ trì Banri (1650-1713). Xuyên qua các buổi thuyết pháp, chàng biết là có những vị sư khác từng đau đớn vì tu hoài không thấy tiến và như là điên dại, nhưng vẫn kiên trì để cuối cùng “niềm vui lớn theo sau nỗi đau lớn.”

Trong mùa hè 1706, Hakuin về hướng Nam để tu học tại chùa Shoshu-ji ở Shikoku, và sau đó được mời thăm lâu đài của vị lãnh chúa điạ phương. Nơi đây chàng được cho xem một bộ sưu tập các bức thư pháp, và chấn động bởi một kho tàng đặc biệt. Đó là tấm thư pháp của một Thiền Sư (hoặc là Daigu [Đại Ngu, 1584—1669] hoặc là Ungo [Vân Cư, 1582—1659], tùy theo các lời kể khác nhau) – mạnh mẽ, rực sáng, và lôi cuốn, nhưng hoàn toàn tự nhiên và không tự ý thức tí nào. Suy nghĩ rằng, “Nét bút này là kết quả của chứng ngộ chân thật; nó không có gì dính dáng tới kỹ thuật cả,” Hakuin mới trở về chùa và, hoàn toàn bất mãn với cái nỗ lực đỏm dáng của chính mình, đốt tất cả bút và các mẫu thư pháp của mình. Sư sẽ không cầm bút lên một cách nghiêm túc lại cho tới khi gần 60 tuổi.

Thay vào đó, Hakuin lao mình vào tu tập với nhiệt tâm được làm mới lại: “Ta sẽ như một khúc gỗ trôi toàn lực xuống một dòng sông, không để bị kẹt dọc ven bờ và mục nát mà cũng không dựa vào sự giúp đỡ nào của người hay chư thiên, nhưng là luôn luôn thẳng tiến cho tới khi vào đại dương!”

Hakuin mới miệt mài lo vượt rào cản lớn đầu tiên của Thiền, công án “Vô.” Trong khi sư tham công án này, Hakuin cảm thấy như dường mình đã rớt vào hang động đen ngòm. Vào năm 1707, khi nhà sư 21 tuổi này đang đi bộ trong một nơi thắng cảnh bên biển Inland Sea, những người đi cùng thúc giục chàng hân thưởng cảnh đẹp. Nhưng Hakuin không bận tâm gì, “Ta vẫn chưa đạt Đạo. Làm sao ta có thì giờ nào ngắm cảnh?” Nhưng khi họ tới chùa Kaisei-ji ở Nishinomiya, Hakuin sáng tác bài thơ lạc quan sau:

Dưới núi, một dòng sông trôi
Miên viễn không ngưng.
Nếu tâm Thiền được như thế
Thấy tự tánh mình không còn xa đâu.

Khi Hakuin nghe tin sư Bao ngã bệnh, chàng trở về chùa Zuiun-ji để chăm sóc thầy. Suốt ngày, Hakuin tu thiền trong hành động—lau chùi, làm vườn, nấu bếp, và chăm sóc vị thầy bệnh—và vào đêm, sư tu thiền trong vắng lặng, ngồi giờ này sang giờ kia tọa thiền. Trong các thời khóa thiền, chàng bị gây rối bởi các thị kiến: một số là các ma quỷ hung dữ, và các cảnh khác thì đưa chàng bay lên mây và bay khắp bốn biển. Trong vài tháng, sư Bao hồi phục và, sau khi vắng mặt bốn năm rưỡi, Hakuin mới về lại quận nhà Hara. Mặc dù chàng bị vây bủa bằng các câu hỏi từ thân nhân và bạn hữu về chuyến hành hương dài, chàng chỉ đáp ậm ừ thôi. Mọi người đồng ý rằng chàng đã thay đổi.

Gần cuối năm 1707, Núi Phú Sĩ phun lửa. Nham thạch phun lên trời, mặt đất lay động dữ dội, và tro núi lửa bay phủ khắp làng. Hakuin đang ở tại chùa Shoin-ji, và nhiều thân nhân tới để cứu chàng, chỉ để thấy là sư đang ngồi tọa thiền. Hakuin không chịu dao động: “Nếu ta chứng ngộ, ta sẽ được bảo vệ; nếu ta không, thì không mất mát gì nếu ta ra tro – ta phó thác mình cho đất trời vậy.” Hakuin thoát được thiên tai này bình an.

Năm 1708, Hakuin đi tới Echigo, một tỉnh dọc theo Biển Nhật Bản, để dự một chuỗi thuyết pháp về sách Dharma Eye of Men and Gods (Ninten Ganmoku, Pháp Nhãn Của Trời Người). Không hài lòng với sự hiểu biết cạn cợt của giảng sư về bản văn, và bất mãn với những gian nan thiền định của chính mình, Hakuin tự nhốt mình trong một điện thờ gần ngôi chùa, và bắt đầu nhập thất bảy ngày với nhịn đói và thiền tọa. Sư ghi lại rằng sư thấy mình đóng băng cứng trong một tảng băng dài vạn dặm. Giữa khóa thất, vào nửa đêm, sư nghe tiếng chuông ở nơi xa và cảm thấy “thân và tâm đều buông mất.” Sư thét lớn hết sức, “Nham Đầu [nhà sư bị bọn cướp giết] ở ngay đây, sống động bình an!” Lo sợ có ai trong khu xóm đang bị nạn như ngài Nham Đầu, các vị sư giựt mình chạy tới thì chỉ thấy Hakuin tràn đầy niềm vui.

Mặc dù Hakuin xem nhẹ các bài thuyết pháp, thường vẫn có hơn năm trăm người tới nghe Hakuin giảng. Một hôm, một vị sư trông có vẻ man dã cao hơn 6 feet tới và mang cây thiền trượng dài. Ai cũng sợ vị này, nhưng Hakuin đồng ý làm người hướng dẫn cho sư này. Tuy nhiên, khi các bài thuyết pháp bắt đầu, nhà sư khổng lồ tỏ lộ có sự hiểu biết sâu về các vấn đề đang thuyết. Đối với Hakuin, nhà sư này là hình ảnh của “một trận mưa tươi mát sau cơn nắng hạn dài,” và hai người để ra nhiều giờ nói chuyện thiền với nhau. Nhà sư này có tên là Kaku (1679—1730), đề nghị giới thiệu Hakuin với thầy sư là Shoju, một vị ẩn tu già, tính cộc lốc, đang sống trong vùng núi Ìyama (bây giờ là quận Nagano). Hakuin và Kaku rời bỏ các buổi thuyết pháp và tìm tới căn lều xiêu vẹo của Shoju.

Shoju (1642—1721) là môn đồ và là truyền nhân duy nhất của Bunan (1603—76), một thiền sư nghiêm khắc đã sống hầu hết cuộc đời của ngài trong cương vị cư sĩ. Bunan không cho các học trò thì giờ nghỉ ngơi nào, liên tục thúc giục họ:

Hãy chết trong khi sống,
Hãy hoàn toàn chết!
Rồi làm 
Những gì ngươi muốn
Và tất cả sẽ tốt lành.

Tới phiên Shoju cũng khét tiếng là tự nghiêm khắcmột lần sư để suốt cả tuần lễ ngồi thiền hàng đêm trong một nghĩa địa vây phủ bởi một đàn chó sói đói.

Shoju được biết nhiều nhất về chuyện “Đánh Bại Kiếm Sư.” Các kiếm sĩ vẫn thường tìm lời khuyên từ các thiền sư với hy vọng khám phá phương pháp hòa hài kỹ thuật và tinh thần. Một lần, một kiếm sĩ như thế tìm tới Shoju, và sư này lắng nghe lịch sự tới các lý thuyết của kiếm sĩ này và đôi khi lạc đề, trước khi đột ngột nhảy lên và đấm liên hồi vào người này không thương tiếc. Kinh nghiệm Thiền trong cung cách mãnh liệt và trực tiếp nhất, kiếm sĩ đó trực ngộ về nguyên lý tối hậu của nghệ thuật [kiếm đạo] của y.

Tin về pháp môn Thiền “không gì ngăn ngại” của Shoju đã gây xôn xao, và ngài được mời tới xem một buổi huấn luyện cho các kiếm sư. Các vị kiếm sư bày tỏ ngưỡng mộ về sự hiểu biết thâm sâu về Thiền của Shoju, nhưng nêu ngờ vực là, có thể nào, không ngạc nhiên gì, có ai đó đánh bại một kiếm sĩ giỏi bằng cách chỉ dựa vào tinh thần.

Shoju mới thách thức, “Hãy thử tấn công ta xem.” Đó là lời mời mà các kiếm sĩ chờ đợi, và họ nhảy xô vào Shoju. Tuy nhiên, không ai có thể đánh trúng sư, nhưng tất cả họ đều bị chiếc quạt của sư đập ít nhất là một phát vào đầu. Rất là khiêm tốn, họ mới hỏi sư về bí mật chiêu pháp.

“Nếu mắt ngươi thấy được chân tướng, và tâm ngươi không bị ngăn trở, thì không có gì mà ngươi không thắng được, kể cả một trận đấu kiếm,” theo lời Shoju giải thích cho họ. (Hakuin sẽ học nhiều từ Shoju, vì chàng đã biểu tỏ một tâm thức tương tự khi chạm trán bởi một võ sĩ đa nghi sau đó trong đời.)

Trong buổi phỏng vấn đầu với Shoju, Hakuin trình lên vị sư già một bài trau chuốt “thơ của chứng ngộ.” Không liếc mắt vào chút nào, Shoju dùng tay trái vò mảnh giấy bài thơ, thò tay phải đe dọa Hakuin, và đòi biết, “Ngoài chuyện lõm bõm học theo sách, ngươi đã thành tựu gì?”

“Nếu con có gì trình thầy, con đã đưa ra rồi!” Hakuin đáp.

Vị thầy mới hỏi sắc bén, “Vậy còn chữ Vô thì sao?”

“Không tay hay chân có thể chạm nó,” Hakuin đáp một cách tự tin.

Shoju đột ngột thò tay, véo lỗ mũi của Hakuin thật mạnh, và hét, “Đây là nơi để đặt tay và chân của ta!”

Lúng túng, Hakuin mới thấy rằng cái ngộ trước kia của mình chưa đầy đủ. Shoju mới trao cho Hakuin công án khác để tham cứu: “Thiền sư Nam Tuyền [748-834] chết rồi về đâu?”

Hakuin sau đó tới trình Shoku bài kệ trả lời, nhưng vị thầy hét lên, “Vọng tưởng, nằm mơ!” và đấm nhiều cú vào Hakuin tới nỗi chàng ngã gục ngoài hàng hiên.

Chàng Hakuin tuyệt vọng không giải nổi công án này hay bất kỳ công án khác mà Shoju trao cho. Hoàng toàn tuyệt vọng, Hakuin mới dùng chiến pháp quen thuộc khi bế tắc: chàng phát nguyện. “Nếu tôi không hiểu tận tường một trong các công án này trong vòng 7 ngày, tôi sẽ tự sát.”

Tuy nhiên, Shoju không bị ấn tượng tí nào, và cứ tiếp tục hành hạ người học trò hoang mang, người mà ngài gọi là “nhà sư khờ khạo rớt trong hang quỷ đen ngòm.”

Kinh hoảng, Hakuin mới hỏi, “Tại sao mình cứ nghe lão nhà quê này trong mái am xiêu vẹo này? Đất nước này đầy các vị thầy xuất sắc – hẳn là phải có ai tốt hơn cho mình chứ.”

“Tới luôn đi, và lùng sục thế giới cho ra một ông thầy tốt hơn,” Shoju giễu. “Ngươi sẽ cầm chắc là thấy sao mọc giữa trưa.”

Hoàn toàn hoang mang, khi Hakuin bước đi khất thực vào sáng hôm sau, lòng tràn ngập các vấn đề sinh tử. Khi đứng xuất thần trước cổng của một căn nhà, sư không để ý tới tiếng la “Đi chỗ khác đi! Chúng tôi không có gì để cúng!” từ bên trong. Sau đó, một bà lão sống nơi đây quá giận vì sư cứ đứng một chỗ nên bước ra và lấy chổi tre đánh vào đầu sư. Hakuin bị ngã xỉu, nhưng khi ngẩng dậy, các lời đáp cho tất cả công ánđau đớn lâu nay đã trở thành sáng tỏ. Hakuin nhảy chồm dậy và la hét vui mừng, làm ngạc nhiên các dân làng tới xem nhà sư đang quỳ lạy. “Bà già chắc là đã đánh cho thầy này mất trí rồi,” họ đồng ý. “Tốt hơn là hãy tránh xa nhà sư điên khùng này.” Nhiều năm sau, Hakuin kỷ niệm giây phút này trong một tấm tranh vẽ cây chổi tre với phụ đề, “Đây là cây chổi đã quét sạch các thứ giác ngộ rẻ tiền!”

Mặc dù nhà sư bình thường nghiêm khắc Shoju mỉm cười khi Hakuin kể lại các chuyển biến lớn trong ngày, Shoju không xác nhận chính thức gì về sự chứng ngộ của Hakuin, có lẽ bởi vì sư biết rằng Hakuin sẽ còn đạt tới những mức cao hơn. Đêm đó, mẹ của Hakuin xuất hiện nói với Hakuin trong mơ với tin vui rằng bà không còn lang thang trong cõi đọa lạc nữa. Công đức lớn từ nỗ lực và từ sự chứng ngộ của con bà đã chuyển tới bà, và bà bây giờ đang yên ổn trên cõi trời. (Việc “hồi hướng công đức” như thế là một yếu tố quan trọng của Phật Giáo Nhật Bản, và nhiều người trở thành sư hay ni cô là để mong cứu độ người thân quá cố.)

Mặc dù Hakuin đã ở với Shoju mới 8 tháng, sư bây giờ biết chắc là mình đã đúng đường. Chàng Hakuin 22 tuổi trở về chùa Shoin-ji vào cuối năm 1708 và không bao giờ gặp lại Shoju (thầy này viên tịch năm 1721), mặc dù Hakuin luôn luôn xem Shoju như vị “bổn sư” của mình. Bài kệ thị tịch của sư Shoju là:

Lời cuối của ta:
Chết mau thì khó nói.
Hãy nói lời không lời,
Nhưng đừng nói, đừng nói!

Sau khi ở chút xíu tại chùa Shoin-ji, Hakuin lại ra đi vào đầu năm 1709. Cứ mỗi lần sư nắm được cốt tủy của một trong cả ngàn công án mà sư đã học thuộc, sư lại nhảy múa và cười như điên dại, một thái độ làm người ta gọi sư là một “Thiền sư khùng.” Sau khi trải qua một loạt các chứng ngộ lớn và nhỏ, sự hào hứng thường trực đã làm Hakuin mất thăng bằng và sư ngả bệnh trầm trọng với điều mà sư gọi là “Thiền bệnh.” Các triệu chứng báo nguy này là:

Lên cơn sốt nóng bỏng và đầu như chẻ ra; phía dưới lưng cảm thấy như quấn trong băng; mắt chảy nước; tai nghe có tiếng o o u u; hoảng sợ khi thấy ánh nắng; ưu trầm lớn khi về đêm; niệm khởi lung tung vào ban ngày; ác mộng về đêm; lơ đãng; kiệt sức; ăn khó tiêu; và các cơn lạnh giá dữ dội.

May mắn, trong hai năm kế tiếp, Hakuin đã có thể tự chữa chứng bệnh đáng sợ này và tiếp tục tu tập.

Vào cuối năm 1711, Hakuin trở về chùa Daisho-ji để chăm sóc Sokudo, một trong những vị thầy cũ bấy giờ ngả bệnh. Cũng như trước, Hakuin để cả ngày chăm sóc thầy và ban đêm để toạ thiền. Năm kế tiếp, Hakuin được 26 tuổi, bắt đầu thuyết pháp trước công chúng tại chùa Shoin-ji. Khi Sokudo viên tịch vào mùa thu đó, Hakuin một lần nữa lại đi du phương. Trong một sự kiện điển hình của những ngày sư trên đường, Hakuin đột nhiên ngộ được ý nghĩa của công án, “Lá sen tròn hơn tấm gương tròn nhất; gai hạt dẻ nước nhọn hơn mũi khoan bén nhất.” Lúc đó trời đang mưa ào ạt, và nhà sư vui sướng ngả ra và lăn vào đám bùn mà cười khoái trá.

Một lần khác, Hakuin đang ngồi thiền ban đêm, thì tiếng động của tuyết rơi nhẹ đột nhiên làm sư hiểu công án, “Định lực của một bé gái vượt hơn định lực của vị sư trí tuệ nhất của Phật.” Sư làm bài thơ sau để ghi nhận lần chứng ngộ đó:

Nếu chỉ ta có thể chia sẻ nó:
Tiếng động mềm mại cuả tuyết
Rơi đêm khuya
Từ các cây
Ở ngôi chùa cổ này.

Năm 1713, Hakuin đi về phương nam để tìm gặp Kogetsu (1667—1751), nổi tiếngThiền sư hàng đầu bấy giờ, nhưng sư lại đi chệch ra và để một năm tu tập với các Thiền sư Tetsudo (1658—1730) và Egoku (1632—1721). Bất kể trước đó suýt chết vì Thiền bệnh, Hakuin tự nghiêm khắc với mình hơn bao giờ hết. Sư và một vị sư khác một lần nhập thất tọa thiền liên tục 7 ngày, ngồi đối mặt nhau với cây gậy ngắn đặt giữa hai sư. Nếu có sư nào lộ dấu buồn ngủ, thì vị sư kia phải lấy gậy gõ nhẹ vào giữa hai mắt để tỉnh dậy. Họ đã hoàn tất kỳ thất mà không dùng tới gậy này lần nào.

Năm 1714, Hakuin tu tập tại chùa Reisho-ji, và rồi để hai năm kế tiếp ẩn tu tại Núi Iwataki. Sư đã tiếp tục hình thức tu tập nghiêm khắc này quá sớm, và sức khỏe lại suy sụp lần nữa. Để hồi phục, sư sống một cách lặng lẽ trong một am thất giữa vùng núi xinh đẹp Iwataki, sống nhờ ăn cháo, và thiền tọa cả ngày và đêm. Giấc mơ đẹp vỡ tan năm 1716, khi một người tớ của phụ thântìm ra sư sau hai năm tìm kiếm. Người tớ này nói, “Cha của sư bệnh rồi, và chùa Shoin-ji trống rỗng và hoang tàn đổ nát. Chúng con muốn sư về nhà.”

Do vậy, vào tháng đầu của năm 1717, Hakuin, 31 tuổi, tự nhận vai tròtrụ trì chùa Shoin-ji, chỉ còn là cái vỏ bọc hoang phế. Hakuin bắt đầu tiến trình mệt nhọc xây lại ngôi chùa và biến nó thành trung tâm tu học. Cha của sư chết vào cuối năm đó.

Năm kế tiếp, Hakuin được vinh danh với lời mời làm sư thủ chúng trong một khóa thiền mùa đông tại chùa Myoshin-ji ở Kyoto, một trong những Thiền viện lớn nhất và quan trọng nhất tại Nhật Bản. Đây đã có thể là bước đầu tiên để nổi tiếng và phú quý như cương vị một Thiền sư ở thủ đô, nhưng sư trở về lại chùa Shoin-ji ngay khi khóa ba tháng kết thúc, quyết định để sống hết phần đời còn lại làm trụ trì ngôi chùa nhà quê nhỏ bé đó. Điều này được ám chỉ trong pháp hiệu “Hakuin,” mà sư sử dụng khoảng thời gian này (khi còn trẻ, sư được gọi là Iwajiro, và pháp danh khi mới vào tu của sư là Ekaku). Chữ “Hakuin” có nghĩa là “ẩn giấu trong màu trắng,” chỉ tới tình trạng ẩn dật trong mây và tuyết của Núi Phú Sĩ (nói cách khác, còn có nghĩa là một với Phật Tánh), bị lạc khi tu học ở Thung Lũng Bạch Hạc của chùa Shoin-ji, và hội nhập vào màu trắng của niết bàn, trong đó vạn pháp đều hòa bình an lạc.

Trong thập niên kế tiếp, một nhóm nhỏ các học tăngcư sĩ bắt đầu tìm tới chùa Shoin-ji để tu thiền theo hướng dẫn của Hakuin. Tiếng tăm của sư được vang dậy thêm sau một vụ sư bị tố cáo bởi một thiếu nữ địa phương là cha của đứa con hoang của cô. Hakuin không nói gì để tự vệ, và khi người cha giận dữ của cô gái đòi sư phải nuôi đứa nhỏ, Hakuin chỉ ẵm em bé về. Sư dịu dàng chăm sóc cho em bé mà không than phiền gì, thu xếp tìm một vú em, và ẵm theo khi đi khất thực, lặng lẽ chịu đựng sự khinh bỉ đổ dồn lên sư bởi các dân làng. Rôì thiếu nữ ân hậnthú nhận sự thực – một thanh niên hàng xóm là cha, chứ không phải Hakuin. Người cha kinh hoàng cuả thiếu nữ mới xin tha lỗi, nhưng Hakuin trả lời dịu dàng, “Đừng bận tâm gì chuyện đó,” và trao em bé lại, không bao giờ nhắc đến chuyện đó nữa.

Một đêm trong năm 1725, Hakuin có giấc mơ khác với mẹ, lần này bà mẹ trao cho con trai bộ y màu tím. Bộ y này có những chiếc kính trên cả hai tay áo, các kính này phản ánh các chiều kích bên trong và bên ngoài của đời sống với sự chiếu rọi rực rỡ trong khi lấp lánh với mặt biển lặng của niết bàn, như thế trao cho Hakuin chìa khóa đối với công án, “Người giác ngộ nhìn thấy Phật Tánh bằng chính đôi mắt của mình.”

Năm kế tiếp, Hakuin, 40 tuổi, đang nghiền ngẫm Kinh Pháp Hoa, một kinh mà sư xem phần lớn là vô dụng, thì một con dế gáy nhẹ nhàng. Hakuin đột nhiên hiểu được thông điệp ẩn tàng của kinh – “Ngoài tâm, không có Kinh Pháp Hoa; ngoài Kinh Pháp Hoa, không có tâm nào cả” – và bây giờ mới đồng ý rằng kinh này xứng đáng được gọi là “Vua của Các Kinh Phật.”

Các tiểu sử sớm nhất của Hakuin mô tả sự kiện này như bước chuyển biến của đời sư. Khát vọng giác ngộ đã chiếm nửa đầu sự nghiệp Hakuin là “hạt giống” của việc sư tu tập, nổi bật bởi sự gần ám ảnh bởi nan đề tự ngã – tránh né địa ngục, kinh nghiệm giác ngộ, giữ gìn sức khỏe thể chấttinh thần. Với sự trưởng thành của Hakuin, nửa đời sau của sư trong cương vị Thiền sư mới là “quả” – không nghĩ gì tới mình, mà cứ tận lực chăm sóc và hướng dẫn người khác.

Không như Ikkyu, người có nhiều học trò nhưng từ chối không nhận ai làm truyền nhân, hay là Ryokan, người không bao giờ giữ chức trụ trì chùa nào và đã viên tịch mà không một đệ tử, Hakuin là “Vị Thầy Chính“ của Thiền Tông Nhật Bản. Hàng trăm học tăngcư sĩ tu học dưới hướng dẫn của sư, và sư dường như đã chứng nhận, hay cách khác là bảo trợ, hơn 80 đệ tử trực tiếp của sư để dạy và quảng bá Thiền Tông kiểu Hakuin khắp nước. Có lẽ sư cũng đã trao ra nhiều văn bằng inka – cho các sư, ni cô, nam cư sĩnữ cư sĩ, và ngay cả cho một cặp vợ chồng – nhiều hơn bất kỳ vị Thiền sư nào trong lịch sử Nhật Bản. Tất cả các phái Lâm Tế lớn hiện nay [của Nhật] đều xuất xứ từ Hakuin và phần lớn vẫn theo kiểu dạy của sư.

Thiền kiểu Hakuin dựa vào cuộc tìm cầu lâu dài của sư và vào cá tính mãnh liệt của sư – “Thầy chúng ta di động như một con bò mộng và trừng mắt nhìn như một con cọp,” một trong các đệ tử của sư viết trong kính mộ. “Không bao giờ hài lòng với các tiểu ngộ,” Hakuin thúc giục học trò như thế. Sư đòi hỏi các học nhân phải chạm trán, đau đớn tìm cầu, và vượt qua cùng các rào cản lớn lao mà sư đã trực diện. Một thiền sinh chân thực cần đại nghi, sư tin như thế. “Nếu ai có nỗi nghi dầy đặc tới mười độ, thì chứng ngộ của người đó cũng như thế.”

Hakuin đòi hỏi các môn đệ phải vật lộn với các câu hỏi tối hậu bằng cách nhai nó, nuốt nó, và khạc nhổ ra công ánchính sư đã húc đầu vào, và phải giải quyết công án do chính sư tạo ra: “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?” Mục đích đơn độc của học Thiền, theo lời Hakuin, là kensho, “thấy tự tánh,” là trở thành Phật.

Hệt như Daito và Ikkyu, người mà sư rất mực ngưỡng mộ, Hakuin không mệt mỏi lên án những người tu pháp Thiền “Mặc Chiếu” và Thiền “Không Làm Gì Cả” (tức là, “Vô Sanh” hay “Bình Thường [Tâm]”). Mặc Chiếu là trọng tâm của một chi phái Thiền Tào Động, tránh né sử dụng công án để thiên về “ngồi như Đức Phật” và đồng hóa việc tọa thiền với chứng ngộ. Những vị biện hộ cho Thiền Mặc Chiếu nói rằng giác ngộ xảy ra một cách tự nhiên và chỉ một lần, và nói về “mười tám lần đại ngộvô số lần tiểu ngộ” thì không gì khác hơn niềm cảm xúc quá độ, không phải giác ngộ chân thật. Hakuin bên cạnh kinh nghiệm riêng của sư còn có hàng chục chuyện đốn ngộ nhiều lần như thế trong Thiền sử. Thêm nữa, sư đã thường xuyên thử tập Thiền Mặc Chiếu khi còn là một ông sư trẻ, nhưng chỉ tự thấy mình rơi vào ưu trầm và lãnh đạm liên tục.

Hakuin còn ác cảm hơn nữa với Thiền “Không Làm Gì Cả.” Dòng thiền này xuất sinh từ Bankei (1622—53), một vị sư trải qua khổ hạnh cực kỳ hệt như Hakuin và đã kinh nghiệm một sự chứng ngộ thâm sâu tương tự, nhưng lại dẫn tới một kết luận trái ngược: rằng tu tập dầy đặc như thế chỉ vô ích và cứ dẫn sư đi lạc. Các phương pháp giả tạo như tự buộc mình ngồi liên tục tọa thiền, tốn nhiều tháng để giải các công án vô nghĩa, và xông vào các tu viện để thách thức các thiền sư chỉ là trò phù phiếm, sư kết luận như thế. Tánh Phật đã có sẵn trong mỗi người, và bất động—thế nên gọi là vô sanh: “Không hề có một khoảnh khắc nào, dù thức hay ngủ, mà ngươi không là Phật,” Bankei dạy như thế, và do vậy không cần gì phải thúc giục xô đẩy học trò vào chỗ thấy tánh. Trong khi Bankei biểu lộ mức độ chứng ngộ cao, các học trò sư lại tin từng lời một, và Hakuin mới than phiền rằng các ngôi chùa trụ trì bởi các vị sư trường phái “Thiền Không Làm” chỉ là những người tu kiểu ngồi như cục gỗ, gật gù đầu và không thành tựu gì. Sư lên án họ đã rời bỏ Thiền, và làm tầm thường hóa các nỗ lực lớn của Phật và Bồ Đề Đạt Ma. Các vị sư như thế không hơn gì các tên trộm, Hakuin tố cáo, bòn rút các tín đồ mà không đền đáp gì. Thí dụ, Hakuin nói là vị tiền nhiệm tại chùa Shoin-ji đã áp dụng pháp môn Thiền Không Làm vào chính ngôi chùa, để mặc mái rỉ nước, tường hư đổ và sàn mục rã! Thiền kiểu Hakuin rồi được ưa chuộng hơn Thiền Không Làm Gì, một pháp môn đã biến dạng chỉ vài thế hệ sau khi Bankei viên tịch.

Phương châm của Hakuin là, “Thiền trong khi động thì một tỉ lần ưu thắng hơn thiền tĩnh tọa.” Shoju, thầy của Hakuin, một lần nói với sư: “Nếu ngươi có thể giữ tâm trên một đường phố đang sôi động đầy ắp bạo lực, trong một sân hỏa thiêu giữa cái chết và hủy diệt, và trong một rạp hát vây quanh bởi tiếng ồn ào và phân tán, thì và chỉ có khi đó, ngươi là người chân thực tu Thiền.”

Tương tự, Hakuin viết trong một bài:

Đừng tự đóng mình trong phòng để giữ vàng, ngươi hãy đi ra phố chia sẻ tài sản với người khác... Những gì sẽ xảy ra cho thế giới này nếu các tướng quân và bộ trưởng, các chiến sĩ, các thương gia, các nghệ nhân và các nông dân đều lẩn tránh trách nhiệm để và một nơi nào đó thực tập kiểu ngồi mù quáng và mặc chiếu trong ảo vọng của cuộc tránh né các khó khăn và trôi qua dễ dàng trong đời? Xã hội sẽ sụp đổ!

Sư dẫn ra các trường hợp cổ nhân đã hiển lộ Thiền của họ bằng cách vác đá gạch, cuốc đất, xách nước, chẻ củi, trồng rau, đo và làm, xoay cửi và đan dệt, học và dạy, trị nước và hộ dân.

Nhà sư trụ trì Trung Hoa Bá Trượng (Hoa: Pai-chang; Nhật: Hyakujo, 749—814) trên chín mươi tuổi vẫn ra đồng làm việc, sư Hakuin nêu lên, và khi các đệ tử ngài giấu cuốc xẻng để cho sư nghỉ ngơi, Bá Trượng mới không chịu ăn: “Không làm, không ăn!” Hakuin cũng nêu lên các trường hợp của nhiều nam nữ cư sĩ xuất sắc, những người sống ngoài đời thường, nhưng không bao giờ cách ly với Đạo. “Hãy biến mọi thứ trong đời ngươi thành công án,” Hakuin thúc giục các học trò như thế, cả học tăng lẫn hàng tại gia. “Hãy nghĩ về núi, sông, và đại địa như bục thiền, và vũ trụ như hang động riêng để ngươi ngồi thiền.” Cái trí tuệ đạt được bằng cách tập thiền giữa thế giới của khát dục là không lay động nổi, theo Hakuin dạy, “như một hoa sen không bao giờ có thể bị phá hủy.” Sư cũng nói, “Một người tu dũng mãnh, cư sử hệt như một chiến sĩ bị bao vây bởi kẻ thù từ mọi phía, có thể thành tựu giác ngộ trong khoảng khắc, nhưng những ai la cà thì phải mất ba a tăng kỳ kiếp mới tỉnh ngộ.”

Giáo pháp của Hakuin được tóm gọn trong bản văn nổi tiếng nhất của sư, Tọa Thiền Ca (Zazen wasan):

Chúng sinh nguyên thủy là Phật,
Như nước và băng.
Không có băng ngoài nước,
Không có Phật ngoài chúng sinh.
Nhưng chúng sinh không biết bản sự như thế
Và lại đi tìm kiếm nơi xa. Thật buồn!
Cứ y hệt như chết khát
Tại ngay giữa nguồn nước;
Hay con trai một phú gia
Lang thang như gã ăn mày lạc lối.
Chúng ta bị buộc vào cảnh giới luân hồi
Bởi vì si mê giữ chúng ta trong bóng tối.
Đi bộ trong bóng đêm,
Khi nào chúng ta sẽ thoát khỏi sinh và tử?
Thiền Tông của Đại Thừa
Vượt ra ngoài mọi so sánh.
Bố thí, trì giới, tất cả mọi công đức khác,
Tụng kinh, sám hối, tu tập, và
Tất cả mọi thiện pháp
Đều có cội nguồn trong Thiền.
Hãy ngồi chân thật trong thiền định chỉ một lần,
Và nó xóa đi các lớp vỏ của nghiệp dữ.
Không còn trong thung lũng địa ngục,
Tịnh Độ thì quá gần.
Hãy lắng nghe cung kính giáo pháp này
Chỉ một lần,
Hãy ngợi ca và hoan hỉ trong nó,
vô lượng thắng pháp sẽ là của ngươi.
Hãy tự hiến dâng mình
Thẳng đường tới chứng ngộ bản tánh;
Khi tự tánh vốn thật vô tự tánh,
Ngươi sẽ giải thoát khỏi cái huyên náo rỗng tuếch này.
Hãy mở cánh cổng của nhân và quả
đi thẳng không chần chờ.
Hãy lấy vô tướng làm tướng,
Hãy đi tới mà đừng dừng nghỉ.
Hãy lấy vô niệm làm niệm,
Hãy hát và nhảy múa với Phật Pháp.
Hãy mở cái vô tận của tịch tĩnh không ngăn ngại
Hiển lộ trước ánh sáng rực rỡ của trí tuệ viên mãn.
Vào giây phút này, chúng ta cần tìm gì?
Niết Bàntrước mắt ta.
Nơi này là Cõi Hoa Sen,
Thân này là thân của Phật.

Mặc dù Hakuin rất thô bạo trong các bài viết, tấn công các đối thủ thiền và coi thường các tông phái khác của Phật Giáo – “Thiền để cho người thượng căn, Tịnh Độ để cho các chú lùn” – thực sự, sư lại là một thiền sư dịu dàng và khéo léo dị thường, và là một Phật Tử đại lượng không bao giờ đẩy người khác ra vì niềm tin của họ và là người kết hợp các yếu tố khác của tất cả tôn giáo vào trong thuyết giảng của sư.

Kiến thức của sư uyên bác, và người ta nói rằng sư đã đọc toàn bộ Kinh Phật tới bảy lần. Sư đưa cho mỗi thiền sinh một công án để tham cứu, nhưng sư đưa ra tùy theo tông pháithiền sinh đó đang theo, nêu lên một câu hỏi lấy từ truyền thống thích nghi đó – Thiền, Thiên Thai, Chân Tông (Mật Tông), Tịnh Độ, Nhật Liên Tông, Lão Giáo, Khổng Giáo, Thần Đạo.

Đối với Hakuin, Thiền ngữ “Thấy Tánh, Thành Phật “ tương đương với “Nhất niệm, ba ngàn thế giới” của Thiên Thai, với “Mẫu tự bí mật A” của Chân Tông, với “Vãng sanh” của Tịnh Độ Tông, với “Diệu pháp” của Nhật Liên Tông, với “Đạo” của Lão Giáo, với “Chí Thiện” của Khổng Giáo, và với “Cõi trời cao” của Thần Đạo.

Nhiều lần sư Hakuin mở miệng chỉ trích các tông phái khác và các sư khác thực sự chỉ là đùa nghịch với thiện ý. Một người bạn của Hakuin là Tenkei (1648—1735), một thiền sư Tào Động. Một lần, trên một chuyến đi, Hakuin tới gần trú xứ của Tenkei và hỏi một người qua đường, “Có thằng cha nào tên Tenkei sống gần đây không?”

“Thưa thầy, có,” người đàn ông trả lời với chút nổi giận. “Vùng này, dân chúng thờ Thiền Sư Tenkei như một vị Phật sống.”

“Có chuyện vậy hả? Ờ thì lần sau, khi ngươi gặp ổng, nói với ổng là có ta nói ổng là một tên ngốc vô dụng!”

Người đàn ông chấn độngngôn ngữ như thế, nhưng Hakuin đã bỏ đi trước khi có thể bị buộc phải rút lời.

Người đàn ông hóa ra là một đệ tử hết lòng của Tenkei và trình lại chuyện đó với thầy mình. Tenkei bật cười nói, “Lão già Hakuin lại vào chợ nữa rồi. Nghe hệt như lão đang mạnh khỏe. Cảm ơn con về lời nhắn.”

Pháp Thiền Kiến Tánh quyết liệt làm-hay-là-chết của Hakuin được quân bình bởi giải thích của sư rằng tập thiền phải có cả những đột hứng của tràng cười sảng khoái, hạnh phúc; kiến tánh càng sâu, thì người sẽ càng thêm tràn ngập tiếng cười vỡ bụng. Sư cũng nói, “Hiểu được chuyện tiếu lâm thì có nhiều người; nhưng hiểu được tiếng cười chân thực thì chẳng mấy ai.” Như chúng ta sẽ thấy, yếu tố khôi hài cốt tủy này là chứng cớ rõ nhất trong các tranh hí họa Thiền của sư Hakuin.

Hakuin có thể hân thưởng chuyện khôi hài ngay cả khi sư bị đưa ra giễu. Một hôm, gia đình giàu nhất trong huyện mời Hakuin tới dự bữa tiệc chay. Hakuin, khoác trên người bộ áo tràng đen đơn giản và mang dép rơm, đi bộ tới căn dinh thự của họ, nhưng khi đã tới giờ ra về, gia chủ mới nài nỉ rằng sư nên để được kiệu về. Tuy nhiên, khi những người vác kiệu nhấc kiệu lên, Hakuin, người chưa từng đi kiểu xe sang trọng này bao giờ, đã té ngã ra đất, làm đám đông bật cười.
“Đủ rồi nhé,” Hakuin nói với một nụ cười. “Ta nên theo lời khuyên của chính mình—luôn luôn giữ chân trên mặt đất!”

Trong nhiều đệ tử của Hakuin còn có nhiều phụ nữ, một số trong đó đến từ khu phố kỹ nữ tại Hara, nhưng sư đối xử với các nữ đệ tử không khác gì với các nam cư sĩ hay các vị sư. Một trong những môn đệ đầu tiên của Hakuin là một thiếu nữ 15 tuổi tên gọi Satsu; cô đang gặp trở ngại kiếm chồng vì vẻ ngoài không đẹp, nên cha mẹ cô bảo cô cầu nguyện Quan Thế âm Bồ Tát để xin có người chồng thích hợp. Một hôm, cha cô kinh hoàng khi thấy cô đang ngồi trên một cuốn Kinh Quan Thế âm. (LND. Có lẽ tác giả John Stevens muốn nói tới Phổ Môn?)

Người cha giận dữ hét lên, “Sao con ngồi lên cuốn kinh linh thiêng đó?”

Cô Satsu nói lặng lẽ, “Có sao đâu. Nhà sư chùa Shoin-ji nói vạn pháp đều có Phật Tánh, nên đâu có gì dị biệt giữa bàn mông của con với bộ Kinh Phật?”

Hoàn toàn sửng sốt, người cha mới trình với Hakuin, và sư nói với nụ cười, “Con gái của ngươi khá sắc bén ha. Hãy cho nó bài thơ công án này và bảo nó là thơ từ ta gửi nó.”

Trong bóng tối của đêm,
Nếu ngươi có thể nghe tiếng
Của con chim quạ không khóc,
Thì tương lai vô sinh sẽ sáng tỏ
Và ngươi có thể hiểu tình thương của người cha.

Khi được đưa xem thơ này, cô Satsu không lộ ấn tượng gì.

“Có hay ho gì thơ này đâu? Hakuin không hơn con tí xíu nào!”

Khi cô Satsu sau đó tới gặp Hakuin, sư đón cô với công án: “Ngươi có nắm tất cả hư không?”

Đáp lại, cô bé Satsu lấy ngón tay vạch vòng tròn trên không.

“Đó mới nửa tấm hình thôi,” Hakuin trả lời với mắt trừng trừng nhìn.

“Trễ quá rồi. Con đã làm xong việc nắm giữ nó rồi!”

Cô Satsu quả là thứ thiệt, nắm đầy tay rồi. Trong một lần đối thoại, cô xin Hakuin giải thích một điểm khó hiểu. Ngay khi sư vừa bắt đầu nói, cô Satsu nói, “Cảm ơn thầy,” rồi bước đi để lại ông thầy há hốc mồm kinh ngạc.

Một lần, một nhà sư kiêu căng tìm cách trị cô Satsu: “Trong một đống rác, một tảng đá trắng bị vỡ ra; đó là nghĩa lý gì?”

Không do dự, cô Satsu đập bể tan chén trà của vị sư, và sư này phải rút lui khẩn cấp.

Cô Satsu chống lại các áp lực buộc cô lấy chồng, bởi vì cô muốn tọa thiền toàn thời gian, nhưng Hakuin nói với cô, “Con hiểu Thiền khá rồi, nhưng con cần đưa nó vào thực tập. Tốt nhất cho con là đi lấy chồng, làm theo sự cặp đôi tự nhiên giữa nam và nữ. Tánh và tướng, chứng ngộ và hành ngộ phải được hòa hài với các hiện thực của đời sống hàng ngày.” Dùng chữ khác, thì kết hôn, giao phối, và sinh con và nuôi con đều là các hình thức xuất sắc của thiền trong đời sống. 

Satsu nghe lời khuyên của thầy, nên kết hôn và có một gia đình đông đúc. Nhiều năm sau, sau khi mất một trong nhóm cháu yêu thương, bà Satsu không nguôi ngoai nổi. Một người hàng xóm thô bạo mới nói với bà, “Ta nghe nói là bà đã lãnh giấy chứng nhận giác ngộ do chính thầy Hakuin trao mà, sao bây giờ bà buồn hoài thôi?”

“Đồ ngốc!” Bà Satsu hét lại. “Nước mắt của ta là đài tưởng niệm tốt hơn là một trăm ông sư tụng kinh sầu thảm. Nước mắt này tưởng niệm tất cả những đứa trẻ chết trên đời này. Đó chính xác là điều ta cảm thấy ngay giây phút này!”

Ohashi, một đệ tử khác của Hakuin, đã giác ngộ ngay cả khi đang làm kỹ nữ. Là một thiếu nữ dễ thương, đầy tài năng, cô Ohashi tự đưa mình vào một nhà điếm ở Hara để nuôi gia đình, khi người cha kiếm sĩ samurai mất việc vì chủ tướng chết. Cô học Thiền với Hakuin, thầy khuyên cô hãy xem cuộc đời như công án tối hậu – sự giác ngộ thì có thể ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Mặc dù sợ hãi sấm sét, một hôm cô Ohashi tự ra ngồi nơi hàng hiên giữa lúc một trận bão dữ dội để tự mình bỏ tâm sợ hãi. Một tia chớp đánh vào nền đất trước mặt cô, làm cô ngất xỉu. Khi cô hồi tỉnh, cô cảm thấy như dường vũ trụ là của cô. Hakuin chứng nhận rằng cô đã Thấy Tánh, điều này cho thấy ngay cả một cô bán dâm cũng có thể giác ngộ. Ohashi rồi được một người khách giàu chuộc ra, và kết hôn với cô. Sau đó, với sự cho phép của chồng, cô xuất gia làm ni cô, và nổi tiếng về trí tuệtừ bi. Khi ni cô viên tịch, thay vì làm một bia mộ theo phong tục, người chồng và các bạn cô mới tạc tượng cô theo hình Quan Thế âm, vị Bồ Tát của lòng từ bi và đưa ảnh tượng này đặt vào chùa của Hakuin.

Hakuin rất hiểu nhân tính. Một lần, một tướng quân du hành và dừng nghỉ ở Hara, rồi say mê tuyệt vọng cô con gái của người chủ quán trọ. Bất kể lời thề thốt về tình yêu vĩnh cửu và sự giàu sang, cô gái vẫn không chịu rời bỏ cha mẹ già. Hakuin mới tạc tượng gỗ theo hình cô gái để tướng quân này giữ bên mình, hy vọng rằng cô một hôm sẽ chịu đi theo. (Bất hạnh, một thời gian ngắn sau đó, cô từ trần, và tướng quân này đành phải hài lòng với các kỷ niệm về thiếu nữ mà ông thương yêu.)

Nhưng một mặt khác, Hakuin lại giận dữ khi một kiếm sĩ cấp cao xuất hiện với “cô em gái nhỏ” của ông – nói cách khác, một cô tình nhân – đi kèm bên cạnh. Khi kiếm sĩ tới xin tham vấn Thiền, sư Hakuin la mắng ông nặng nề: “Tu Thiền đòi hỏi ngươi phải chân thật từ đỉnh đầu cho tới gót chân! Ngay cả lời nói dối nhỏ nhất cũng xóa đi nhiều năm tu tập.” Vị kiếm sĩ lập tức thấy sai lầm của mình và dẫn cô tình nhân tới lạy sư. Cả hai người sau đó đều trở nên các thiền sinh giỏi.

Các “bà già Thiền,” chữ gọi những bà cụ sắc bén ưa gây bối rối cho các vị sư huênh hoang, vẫn xuất hiện thường xuyên trong văn học Thiền, và Hakuin cũng đụng chạm vài bà già như thế. “Lão Bà San,” một bà cụ như thế, không thể kiên nhẫn để chờ thử sức Hakuin khi sư tới thăm thị trấn của bà. (LND. San đây là tên, không phải tiếp vĩ ngữ –san để chỉ sự kính trọng.) Trong khi phỏng vấn, Hakuin đưa một bàn tay lên cao, im lặng thách thức bà cụ nghe âm thanh của nó. Bà cụ hét lớn, “Lắng nghe ‘một bàn tay’ của Hakuin, đâu có hay bằng vỗ hai bàn tay và làm một số công việc thực sự.”

Hakuin hét lại, “Nếu ngươi có thể làm việc bằng cách vỗ hai bàn tay, thì không cần nghe tiếng vỗ của một bàn tay,” và sư chụp một mảnh giấy và vẽ lên đó một cây chổi tre. Sư chuyển cho Lão Bà San bảo viết phụ đề. Bà cụ viết:

Cái chổi này
Quét sạch hết
Tất cả những người giả danh ở Nhật –
Trước hết là
Hakuin vùng Hara!

Cuộc chạm trán này sau đó tự trở thành công án: “Ai thắng? Hakuin hay Lão Bà San?”

Rồi tới một bà cụ ở Hara nghe được Hakuin nói trong bài thuyết pháp, “Tâm ngươi là Tịnh Độ, thân ngươi là thân Phật A Di Đà.”

Câu này trở thành công án cho bà cụ, và một buổi sáng bà cụ trải qua kinh nghiệm thấy tánh trong khi dọn dẹp sau buổi điểm tâm. Bà cụ chạy vội tới chùa Shoin-ji và trình với Hakuin, “A Di Đà Phật đã bao trùm khắp thân con! Cả vũ trụ rực sáng! Kỳ diệu chân thực là bao!”

“Vô nghĩa!” Hakuin vặn lại. “Vậy có chiếu sáng lỗ đít ngươi không?”

Bà cụ bé nhỏ mới xô tới đánh nhà sư Hakuin khổng lồ và hét, “Vậy chứ thầy biết gì về giác ngộ?”

Rồi cả hai cười phá lên.

Một chuyện khác kể về một vị nam cư sĩ, tên Harushige, người mất đứa con trai trưởng vì bệnh, nên hoang phí gia sản thừa kế của ông vào rượu và đàn bà, và thất vọng với cuộc đời này. Một hôm, vị này tình cờ đọc cuốn sách gặp một câu mà Hakuin ưa trích dẫn: “Một người tu quyết liệt... có thể thành tựu giác ngộ trong chớp nhoáng, nhưng những người lười biếng sẽ cần tới ba a tăng kỳ kiếp mới tỉnh ngộ.” Vị sư sĩ này tự giam mình trong buồng tắm, thề là phải thành tựu giác ngộ hoặc là chết. Trong ngày thứ ba ngồi thiền liên tục, thân xác thì đau đớn và tâm thì đầy ảo giác, Harushige đột nhiên kinh nghiệm một bước nhảy. Hakuin xác nhận Harushige đã thấy tánh, và thường xuyên nhắc tới vị cư sĩ này như một người thành tựu đại sự bằng cách ném bỏ hết để vào công án Thiền. Hakuin tiếp tục hướng dẫn Harushige, người sau đó tu tỉnh siêng năng làm ăn nuôi gia đình, thành người bạn của dân nghèo, làm người xây đường và cầu, và là một cột trụ của tăng thân.

Một quả phụ trẻ đau đớn đã bị ám ảnh với việc tham công án tới nỗi bà để trọn thời giờ ra ngồi trong thiền đường của chùa Shoin-ji. May mắn, các hàng xóm của bà làm các bữa cơm cho con trai bà khi bà vắng nhà, nhưng khi bà về ghé thăm nhà chút xíu, thì bà nói với con trai, “Ngươi là ai?”

“Con là con trai của mẹ! Mẹ quên con sao?” người con đáp.

Ngay tới Hakuin cũng nghĩ là như thế là nhất tâm quá độ, bảo bà trình lời giải công án ngay, đừng chần chờ. Bà làm như thế, sư Hakuin chấp nhận, và vị nữ cư sĩ này tiếp tục cuộc sống bình thường hơn. (Một sư trụ trì, bạn của Hakuin, có một lần gặp phụ nữ này và ghi nhận, “Trong suốt những năm đời tôi, tôi chưa hề gặp ai miên mật tu Thiền như phụ nữ này.”)

Một hôm, Hakuin đang đi bộ trong sân chùa với một cư sĩ, người trước đó thắc mắc về ý nghĩa của chữ “chết,” nguyên đã giao cho cư sĩ này làm công án. Đề nghị ông này làm phương pháp khác, sư Hakuin mới đọc bài thơ:

Núi Tu Di,
Đỉnh Linh Thứu,
Sụp đổ;
Cõi trời vỡ
Tan thành các mảnh vụn!

“Hiểu không?” Hakuin hỏi học trò này. Vị nam cư sĩ, như dường đột nhiên thoát được gánh nặng lớn, nhặt lên một viên đá và ném lên cao. Hakuin mỉm cười chấp nhận.

Một lần, con trai người chủ tiệm cầm đồ tới gặp Hakuin và trình sư về hoàn cảnh mình: “Con muốn cha con tu học Phật pháp, nhưng cha nói là cha quá bận với sổ sách kế toán tới nổi không để ra được vài giây mà niệm một câu Phật hiệu [trì danh của Phật A Di Đà].”

Hakuin biết rằng người chủ tiệm cầm đồ là một tay keo kiết, và đó cũng là cớ để tránh né luôn chùa chiền. Sư bảo cậu con kia, “Nói với cha ngươi rằng ta sẽ mua lời niệm Phật của ổng – một xu cho niệm một câu Phật hiệu.”

Người chủ tiệm cầm đồ bủn xỉn mừng rỡ là ông có thể thực sự kiếm lời nhờ tôn giáo. Mỗi ngày, ông trình Hakuin một hóa đơn đòi tiền trả công niệm Phật, và thiền sư trả tiền thích đáng. Tuy nhiên, tới ngày thứ bảy của hợp đồng, người chủ tiệm cầm đồ miên mật trong niệm Phật tới nổi ông quên đếm. Từ đó ông hết lòng với việc niệm Phật và vẫn niệm mà không đòi tiền, và rồi trở thành một thí chủ rộng rãi cho ngôi chùa của Hakuin.

Có những lần, người ta thách thức Hakuin trước công chúng, hô to các công án trong khi sư đang thuyết pháp. Một lần, có người trong thính chúng đòi biết, “Sau khi chết, chúng ta biến mất hay tiếp tục tồn tại?” Hakuin đáp, “Bây giờ, ngươi đang biến mất hay tiếp tục tồn tại?”

Hakuin đưa một công án tương tự cho một vị sư già tới xin hướng dẫn: “Ngươi từ đâu tới khi sinh, ngươi sẽ về đâu khi chết?”

Vị sư già này mất tới một năm mới tới trình câu trả lời. Khi Hakuin lập lại công án, vị sư già đưa lên một ngón tay.

“Thế là chưa đủ tốt! Nói thêm ta nghe!” Hakuin đòi hỏi với cái nhìn trừng mắt.

Vị sư già lập lại, “Ngươi từ đâu tới khi sinh, ngươi sẽ về đâu khi chết?”

Lần này, Hakuin chấp nhận.

Một kiếm sĩ tới hỏi, “Trời là gì? Địa ngục là gì?”

“Chuyện gì vậy? Ngươi sợ địa ngục hả?” Hakuin mới nạt. “Một tên chết nhát rên rỉ như ngươi không đáng học giáo pháp này.”

Nổi giận vì lời xúc phạm của Hakuin, kiếm sĩ mới rút kiếm và rượt Hakuin chạy vào chánh điện. Oâng giận dữ vung kiếm vào thiền sư, người đột nhiên biến dạng vào bóng tối.

“Cơn giận này là địa ngục của ngươi,” Hakuin hét lên.

Kiếm sĩ trầm tỉnh lạixin lỗi vì lỡ nổi nóng.

“Đây là cõi trời vậy,” Hakuin nói với kiếm sĩ. (Bởi vì một kiếm sĩ samurai phải miên mật cảnh giác, luôn luôn trang phục tề chỉnh, và sẵn sàng mất mạng bất kỳ lúc nào, nên Hakuin một lần viết rằng một kiếm sĩ xuất sắc có thể thành tựu trong một tháng những gì mà một nhà sư bình thường thành tựu trong một năm.)

Bởi vì Hara là một trạm thư quan trọng trên Xa Lộ Tokaido, các quan tỉnh đi những chuyến bắt buộc hai lần mỗi năm về Edo thường ghé nơi đó, và nhiều người trong số họ trở thành học trò của Hakuin. Hakuin thường mời các tướng quân những chiếc bánh hạt kê đơn giản mà các nông dân tặng sư, và nếu một tướng quân nhích mũi lên vì thức ăn quê mùa như thế, Hakuin sẽ gay gắt đưa ra bài giảng về đức hạnh của nếp sống bình dịthức ăn đơn giản.

Một lần, vị tướng quân giàu nhất miền Nam Nhật Bản ngừng chân ở Hara và than phiền về chứng đau bụng với sư Hakuin. “Ta có thể chữa trị nó,” Hakuin nói bảo đảm thế. “Đừng ăn điểm tâm ngày mai, mà tới thẳng đây.”

Tướng quân tới thật sớm sáng hôm sau, và Hakuin nói với ông, “Thuốc chữa này là bí mật, nên ngươi phải theo lời dạy của ta một cách chính xác. Ngươi có thể uống trà này, nhưng ngươi phải ở trong phòng này cho tới khi ta quay lại.”

Hakuin để vị quan ở lại một mình. Tới trưa, tướng quân đói bi đát. Khoảng ba giờ chiều, Hakuin vào phòng với một cái chén nhỏ.

“Xin lỗi nha,” Hakuin xin lỗi. “Nó lâu hơn là ta dự liệu để làm thuốc này. Đây thuốc đây.”

“Cái gì thế này?” tướng quân hỏi, cầm chén lên.

“Cháo lúa mì và chút cơm và hai quả dưa chua ngâm với củ cải,” Hakuin nói. Vị quan này chưa bao giờ thấy món ăn đó trước giờ, nhưng vì đói nên ăn thấy là ngon.

Hakuin nói, “Ta hy vọng ngươi đã chữa trị xong. Khi nào mùa màng thua kém, các nông dân trong lãnh địa của ngươi sẽ thấy đói như ngươi đã thấy đói. Đừng bao giờ quên cảm giác đói khi họ tới xin ngươi giúp. Cháo và dưa là những gì họ ăn, và nó thì tốt cho ngươi hơn là thức ăn sang trọng mà ngươi nhồi nhét đầy bụng.”

Hakuin không bao giờ mệt mỏi khi nhắc nhở từng vị tướng quân tới thăm ông rằng các nông dân là kho tàng của đất nước, và họ xứng đáng được đối xử tử tế. Trong các lá thư của sư, bài viết và tranh vẽ, sư chỉ dạy cho các tướng quân hãy luôn luôn làm phước thiện, hãy sống thanh đạm và nhu hòa – “hãy đối xử người ta với lòng tử tế và gốc rễ của đất nước sẽ mọc lên tươi tốt; nhưng khi hành hạ dân, thì đất nước sẽ trơ trụi liền.”

Thiền sư này thực hành những gì thầy giảng dạy. Hakuin sống đơn giản như một nông dân. Trong suốt những năm đầu thiếu thốn khi trụ trì chùa Shoin-ji, món cháo của Hakuin vẫn thường rớt vào những con sâu giòi, bởi vì chùa chỉ có những bánh đậu hũ đã hư mà nông dân bỏ đi. Một lần, một tướng quân giàu có đề nghị cung cấp cho Hakuin mọi thứ mà sư cần tới. “Được rồi, ta làm vỡ một trong những cái tô trong bếp sáng nay, và ta sẽ mang ơn nếu có cái thay thế,” Hakuin nói thế với người kia. Khi tướng quân này về lại lãnh địa ở Bizen, một huyện nổi tiếng về nghề sành sứ, ông mới ra lệnh làm nhiều chiếc tô đẹp cho ngôi chùa của Hakuin. Hakuin trưng bày một trong những chiếc tô đẹp đó bằng cách treo ngược đầu trên một cành cây thông trong vườn chùa. Cái tô này bây giờ vẫn còn nơi đó, treo cao lơ lửng.

Khi điều kiện khá hơn ở Shoin-ji, Hakuin mới trữ lương thực và ngũ cốc ở chùa đề phòng nạn đói. Sư cũng trồng hàng trăm cây dọc bờ sông đề ngừa nạn lụt, vất vả thử nghiệm hoài cho tới khi sư kiếm ra đúng loại hạt bắt rễ tốt nhất. (Hakuin có vẻ như là một nhà thực vật sắc bén, bởi vì sư đặt tên nhiều bài viết của sư với tên của các loại cỏ dại -- “Cỏ Ngỗng,” “Cây Gai Ngựa,” “Quả Dâu Rắn,” “Cây Trường Xuân Dại” – và nhiều tấm tranh của sư có vẽ các cây cỏ lạ.)

Một ngày mùa đông lạnh giá, một tướng quân thăm chùa Shoin-ji, và Hakuin cho đem chút rượu sake hâm nóng ra mời. Trong khi họ nói chuyện, Hakuin ghi nhận người mang mũi giáo của vị quan đang run rẩy nơi túp nhà ở cổng. “Sao ngươi không cho lính gác của ngươi một chén sake nóng này? Kẻ tội nghiệp kia đang lạnh cóng tới chết đó.” Lần sau, khi tướng quân đó và đoàn tùy tùng tới Hara, người lính gác kia, bây giờ là một kiếm sĩ đủ phẩm phục, vào tìm để cảm ơn Hakuin. “Trong lãnh địa chúng con, nếu vị tướng quân trao tặng người lính một chén sake, thì người kia được thăng lên cấp kiếm sĩ [một phong tục mà Hakuin biết quá rõ]. Con sẽ suốt đời mang ơn thầy.”

Hakuin cảnh giác các tướng quân đừng mê đắm nhục dục và thói quen tốn kém của việc kiếm nhiều thê thiếp. Sư chỉ trích thói thường lãng phí các khoản tiền để tìm các kỹ nữ từ Kyoto về phục vụ, các cô này chẳng bao lâu lại bị bỏ rơi hay đổi lấy các cô khác, và bày tỏ phẫn nộ rằng có tới 1/3 ngân sách lãnh địa chỉ để tìm mua và duy trì một đàn thê thiếp.

Hai trong các môn đệ hàng đầu của Hakuin là Torei (1721—92) và Suio (1717—89). Torei ra đời trong một gia đình thương buôn, và khi còn bé đã có tính nghiêm túc và chín chắn, và không chịu làm tổn thương tới ngay cả loài chí rận. Cậu là một thần đồng kiểu như Hakuin, và khi lên năm tuổi, vị thiền sư nổi tiếng Kogetsu ở tại nhà của cậu. Cậu bé rất thích cách xử thế dịu dàng của Kogetsu tới nỗi cậu quyết định lúc đó rằng cậu muốn học theo như thế. Ba mẹ cậu làm mọi cách để thuyết cậu, nhưng Torei cuối cùng cũng được ba mẹ cho phép xuất gia làm chú tiểu Thiền Tông vào năm chín tuổi. Cậu học với Kogetsu tại Kyushu vài năm, và rồi, khi 22 tuổi, bắt đầu một thời kỳ tu học gian nan dưới trướng Hakuin, người mà sư đã gặp trước đó ở Kyoto. Tuy nhiên, sư ngả bệnh trầm trọng, có lẽ với “Thiền bệnh,” và cứ mấp mé bên bờ sự chết; khi hồi phục lại, sư trình lên Hakuin những gì sư đạt ngộ từ kinh nghiệm này và chút xíu sau đó thì được trao văn bằng inka.

Torei làm việc như cánh tay mặt của Hakuin trong nhiều năm, và trở thành người nối pháp chính yếu. Sư giữ chức trụ trì ở hai ngôi chùa mà Hakuin sáng lập nên, chùa Muryo-ji năm 1752 (nơi không thoát nổi các cuộc đàn áp Phật giáo thời thế kỷ 19) và chùa Ryutaku-ji năm 1760 (nơi đã phát triển tới bây giờ, thành một trung tâm dạy Thiền quốc tế). Chính Torei là người kết tập cuốn tiểu sử đầu tiên về Hakuin, và chính sư là người đã hệ thống hóa sắp xếp các công án cho Thiền Tông kiểu Hakuin. Torei cũng nghiêm khắc, tỉ mỉ và kiên trì như thầy mình, và cũng gần như một học giả. Sư hiến mình cho việc hòa hài Ba Đại Giáo Pháp và tuyên bố, “Thần Đạo là cội rễ, Khổng Giaó là cành và lá, và Phật Giaó là hoa và trái ngọt.”

Ở một mặt khác, Suio lại mang phong cách phóng khoáng, không có thể nào khác hơn nữa so với Torei (hay Hakuin). Không ai biết thực sự Suio xuất thân từ đâu—có lời đồn rằng Suio là đứa con hoang của một tướng quân và một kỹ nữ. Ngay cả sau khi trở thành học trò của Hakuin vào năm ba mươi tuổi, Suio vẫn vui hưởng đàn bà và men rượu sake. Suio không dính dáng gì tới toạ thiền hay lễ nghi bái sám, và chỉ tới chùa Shoin-ji để nghe sư Hakuin giảng pháp. Hễ bài giảng của Hakuin kết thúc xong, Suio lại trở về túp lều nhỏ của mình, không bận tâm gì tới việc để thầy mình khảo vấn. Thoảng khi, Hakuin lại gửi các thị giả theo dõi xem Suio, nhưng rồi cũng vô ích. Mặc dù kiểu Suio không ưa đời sống trong chùa và phong cách gạt bỏ toàn bộ giới luật, Hakuin vẫn đánh giá cao phẩm cách Thiền của Suio, và đã bổ nhiệm Suio làm người kế nhiệm ở chùa Shoin-ji, khi mà sư lui về vào năm 80 tuổi. Hai thầy trò có một lúc sứt mẽ, điều này làm Hakuin đau đớn sâu sắc, nhưng rồi Suio lại trở về làm trụ trì chùa Shoin-ji và ở bên Hakuin khi Hakuin viên tịch. Về sau, Suio được chôn kế bên thầy mình. Nhà sư mãnh liệt Hakuin hẳn là phải có một quả tim rất độ lượng để yêu thương người đệ tử Suio rất mực bướng bĩnh. Và Suio một cách trung thành đã giữ thói nhà Hakuin khi dùng các bức tranh tuyệt diệu để quảng bá thông điệp Thiền. Trong suốt đời mình, Suio đã bảo hầu hết học trò qua tham học với Torei, nhà sư trụ trì của Ryutaku-ji.

Một cách hứng thú, có một công án về Suio và Torei mà đôi khi vẫn được dùng trong khi tham học bên Thiền Lâm Tế. Suio nói với Torei, “Dạo này, ai cũng cứ lảm nhảm với nhau về ‘Nghe tiếng vỗ của một bàn tay.’ Nhưng sư huynh có nghĩ là họ thực sự nghe?” Công án là: “Torei đã trả lời ra sao?”

Gasan (1727—97), người học tăng cuối cùng của Hakuin, tới với Hakuin khi vị thầy đã vào lứa tuổi tám mươi rồi. Sư này là tay cứng đầu, đã học với hơn ba mươi thiền sư; sư này viết rằng sư không bị khiếp đảm bởi uy danh của Hakuin chút xíu nào, mà cũng không bị uy hiếp bởi tình hình Hakuin đã có hơn tám trăm thiền sinh. “Ta đã thách thức thầy ba lần, và ba lần thầy đều đánh bại ta. Ta thật kinh hoàng.” Gasan là thầy của Inzan (1754—1817) và Takuju (1760—1833), từ những vị này mà tất cả các trường phái Thiền Lâm Tế [Nhật Bản] chính yếu bây giờ xuất sinh.

Mặc dù nó chưa bao giờảnh hưởng từ dòng phái Hakuin, cũng cần nói về dòng Thiền xuất sinh từ Kogetsu. Nhiều học tăng của Hakuin (kể cả Torei) đã khởi sự tu học theo Kogetsu, rồi mới tới chùa Shoin-ji sau khi sư Kogetsu về hưu, nên có rất nhiều ảnh hưởng tương giao giữa hai phong cách – thí dụ, như Ryosan (1706—86) là người đầu tiên được Hakuin trao tặng văn bằng inka, sau đó lại quay về với Kogetsu, và được may mắn hưởng lợi từ trí tuệ của hai vị thầy.

Kogetsu ra đời năm 1667, tính ra lớn hơn Hakuin tới 19 tuổi. Xuất gia học Thiền từ năm 10 tuổi, nhưng vị sư trụ trì đầu tiên mà cậu theo hầu lại có tính nghiện rượu, thế nên chú sư nhỏ bận rộn chăm sóc cho thầy, mà không hy vọng gì học từ kinh điển. Một đêm, sau khi dìu người thầy say rượu vào giường, Kogetsu gặp một người cùi đang khép nép sau chùa. Kogetsu nghe rằng người tội nghiệp này một thời từng là hiệu trưởng của một viện giaó dục chính trong lãnh địa, nhưng đã mất chức khi bị bệnh này. Kogetsu mới dựng nơi trú thân cho người cùi và mang ba bữa ăn một ngày để đổi lấy bài học.

Kogetsu học hoaì để trở thành một học giả Thiền Tông hàng đầu bấy giờ, và sư cũng bỏ ra nhiều năm du phương tham học với gần như tất cả Thiền sư lúc đó (kể cả sư Bankei). Y hệt như Hakuin, sư từ chối lời mời giữ chức cao trong các tu viện ở Kyoto, và để năm mươi năm cuối đời sư ở nơi xa xôi Kyushu, tu học và giảng dạy. Truyền thống Thiền kiểu Kogetsu thì dịu dàng hơn, vắng lặng hơn, và thanh nhã hơn Thiền kiểu Hakuin. Sengai (1750—1837), đối thủ duy nhất của Hakuin ở vai trò họa sĩ Thiền, nằm trong dòng Thiền Kogetsu, đã làm cho truyền thống Thiền này sẽ sống vĩnh viễn trong các nét vẽ tuyệt vời trong tranh của sư.

Tu Thiền theo kiểu Hakuin đòi hỏi sức chịu đựng lớn, và “thể lực Thiền” là một yếu tố quan trọng trong lời dạy của sư. Trích dẫn các y kinh Trung Quốc, Hakuin dạy cho các môn đệ:

Chìa khóa để nuôi dưỡng đời sống là làm cho thân khỏe mạnh. Bí mật của việc làm cho thân khỏe mạnh nằm trong việc tập trung tinh thần. Khi tinh thần được tập trung, thì khí lực phát triển. Khi khí lực phát triển, thì tiên dược hình thành. Khi tiên dược hình thành, thân thể trở nên vững vàng. Khi thân vững vàng, tinh thần được toàn hảo... Tiên dược, hay là “hơi thở sự sống,” được hình thành và tập trung ở đan điền, một điểm phía dưới rốn chừng 1 tấc Tây. Khi nó phát triển, vùng này trở nên tròn và đong đưa, một kho chứa khí lực và sức khỏe.

Hakuin theo phương pháp này, và nói rằng sư ở tuổi bảy mươi lại có sinh lực gấp mười lần hồi tuổi ba mươi. Không hề mệt mỏi, có thể ngồi tọa thiền suốt ngày, tụng kinh từ sáng tới tối, và nói hay viết trong nhiều giờ đồng hồ. (LND. Ghi nhận: Thiền Hakuin không chỉ tọa thiền, mà còn tụng kinh, và làm mọi phận sự khác.)

Dù vậy, nhiều học trò của sư ngả bệnh, một số bị kiểu “Thiền bệnh” một thời từng làm Hakuin thê thảm. Cậu thanh niên Hakuin thấy rõ đã từng bị trầm cảm, và bệnh đó bây giờ sẽ được chẩn đoánsuy sụp tinh thần. Phương pháp mà Hakuin đưa ra để chữa trị đó được gọi là naikan (nội quán). Hakuin mô tả naikan trong sách sư viết nhan đề Evening Chat on a Boat (Yasen Kanna; Việt: Nói Chuyện Trong Đêm Trên Thuyền), và rồi sau đó pháp trị liệu naikan đã được áp dụng bởi các nhà tâm lý học ở cả Nhật Bản và Phương Tây. Mặc dù người ta nói Hakuin học pháp naikan từ một nhà ẩn tu lớn tuổi tên gọi Hakuyu, các cuộc nghiên cứu hiện đại cho thấy rằng sư đã tổng hợp các phương pháp trong cuốn Nói Chuyện Trong Đêm Trên Thuyền từ nhiều nguồn, và từ kinh nghiệm riêng của sư và các cuộc thử nghiệm chữa trị tâm lý.

Để chữa căn bệnh đáng sợ đó, Hakuin cho toa thuốc (bên cạnh phương thuốc tối thượng thừa “nhìn thấy tự tánhtrở thành Phật”) chữa trị như sau:

Hãy tưởng tượng một khối hình như trứng vịt trên đỉnh đầu ngươi; khối này là chất kem ngon nhất, ngọt ngào nhất. Hãy để nó tan chảy dần dần xuống thân thể ngươi, ngấm vào đầy tất cả lỗ chân lông, cuốn trôi đi tất cả bệnh tật đau đớn khi chảy tràn xuống các lòng bàn chân của ngươi. Khi chất kem này xoay vòng trở ngược lên thân thể, các cơ phận nội tạng được thanh lọc, làn da chiếu sáng rực, và sự quân bình của thân và tâm được hồi phục.

Hakuin cũng khuyến khích sử dụng chính “bệnh” làm một công án. “Trước tiên, đem bệnh của ngươi ra trực diện với cái chết và giải quyết nan đề căn bản đó; thứ nhì, hãy dựa vào hơi thở để nuôi dưỡng sinh mạng ngươi; thứ ba, xem xét về cách ngươi sẽ xử thế ra sao nếu ngươi hồi phục và được cho sống thêm thời gian nữa.”
Bên cạnh kỹ thuật giữ gìn sức khỏe tinh thần như thế, Hakuin đưa ra một hệ thống thực dụng về xoa bóp để giữ gìn sức khỏe:

(1) Dùng ngón tay cái để xoa các lòng bàn tay.
(2) Gài các ngón của hai tay vào nhau và kéo giãn ra.
(3) Xoa bóp hai bàn tay vào nhau.
(4) Xoa bóp các ngón tay cái.
(5) Xoa bóp các đường gân của từng ngón tay.
(6) Kéo các ngón tay ra.
(7) Giãn hai cánh tay ra và đưa lên cao.
(8) Xoa bóp hai má.
(9) Xoa bóp lỗ mũi phía bên trái và phải.
(10) Xoa bóp trán từ bên này sang bên kia.
(11) Xoa bóp dưới lông mày.
(12) Xoa bóp hai tai theo hướng xuống dưới.
(13) Kéo các tai giãn ra nhẹ nhàng.
(14) Đưa nhón trỏ vào tai và nhẹ nhàng vỗ một lần.
(15) Xoa bóp hai bên thái dương.
(16) Lấy hai tay ôm đầu và nghiêng đầu tận cùng ra sau.
(17) Nghiêng đầu qua trái và phải.
(18) Xoắn thân người ra một hướng, và rồi sang hướng kia, ba lần như thế.
(19) Chín lần lạy toàn thân.
(20) Hai tay nắm vào nhau và đưa cao quá đầu, rồi hạ thấp xuống.
(21) Xoay các vai.
(22) Dùng nắm tay đập nhẹ vào hai đầu gối.
(23) Dùng nắm tay đập nhẹ vào phần thân trên cơ thể.

Bất kể sự quan tâm chu đáo như thế về sức khỏe thể lựctâm lực cho các môn đệ, nhiều vị sư đã từ trần trong khi tu học ở chùa Shoin-ji – gần 70 bia mộ xếp hàng dài sau nấm mồ của Hakuin.

Vào thời của Ikkyu, thư pháp và họa pháp đã trở thành phương tiện giảng dạy chính yếu của Thiền Tông. Nhưng chính Hakuin mới là người tận dụng nghệ thuật Thiền Tông như là “các nét cọ của giác ngộ” tới tròn đầy. Như đã nói ở trên, sau khi xem một tác phẩm thư pháp Thiền, cậu thanh niên Hakuin đã đốt sạch các cây cọ của cậu trong khi tự trách: “Cách duy nhất để có nét cọ thâm sâu như thế là phải hoàn thiện tâm mình.” Chỉ tới khi gần 60 tuổi, khi sư đã thành thục thiền định trong đời sống, Hakuin mới bắt đầu vẽ nghiêm túc trở lại.

Mặc dù thấy rõ bẩm sinh tài năng, người ta vẫn chưa rõ Hakuin học các kỹ thuật dùng cọ như thế từ đâu. Nhiều phần là sư đã học một cách không chính thức với Suio, người họa sĩ xuất sắc, và có lẽ đã được hướng dẫn chút đỉnh từ Ike no Taiga, người từng có khi là học trò của sư và là một trong các họa sĩ lớn của thời đó. Trong ba thập niên cuối đời, Hakuin đã vẽ rất nhiều họa phẩm trong nhiều đề tài, từ các phong cảnh nhiều màu sắc, với nhiều nhân vật và nhiều chủ đề, cho tới vẽ các tấm hía họa thô sơ. Bên cạnh các chủ đề Thiền Tông truyền thống được vẽ trong nét bút có cá tính nổi bật, tươi mới đáng ngạc nhiên, Hakuin cũng vẽ với cảm hứng từ các tông phái khác của Phật Giáo, Khổng Giáo, Thần Đạo, Lão Giáo, tôn giáo dân gian, và từ đời sống thường ngày (thường đưa khuôn mặt của chính sư và các Phật tử của sư vào tranh). Thư pháp của sư cũng bao trùm nhiều hơn các lời dạy khó hiểu của Phật và chư Tổ, mang âm vận ru trẻ em, các dân ca được ưa chuộng, thơ khôi hài, và cả các bài ca dâm ô từ các xóm kỹ nữ. Các tác phẩm nghệ thuật của Hakuin là “các tấm tranh giải thoát chúng sinh,” như một trong các dấu ấn của sư khắc. Chúng là các bài giảng bằng hình ảnh có sức ảnh hưởng lớn hơn một bài thuyết pháp dài, hay một bài chú giải về một bản văn khó hiểu. Tất cả các môn đệPhật tử của Hakuin có thể liên hệ trực tiếp tới nghệ thuật của thầy mình, điều có một ảnh hưởng tức khắc và lâu dài trên người xem.

Trong một nghĩa, thì tác phẩm của Hakuin có tính “vô nghệ thuật,” hệt như Thiền Tông là “vô ngôn.” Tác phẩm của sư vẽ không nhằm cho đẹp hay trang trí. Thực sự, Hakuin không bao giờ sửa các sai lầm hay các chỗ sơ sót trong tranh thư pháp của sư, và nếu giấy có bị rơi mực lên hay vết chân mèo bước vào, thì lại càng tốt hơn! Trên những tấm lớn, Hakuin thường làm đường viền trước, nhưng thay vì xóa viền đi, sư lại vẽ chồng lên, tạo ra một loại hiệu ứng ba chiều.

Thư pháp của Hakuin được dân chúng tin tưởng là có năng lực siêu hình, và các tác phẩm của sư được sưu tầm rộng rãi. Sư viết, “Thay vì treo những tấm hình màu mè trong nhà ngươi, hãy trưng bày các tấm tranh Thiền pháp trong phòng ngươi; hãy gìn giữ truyền thống này với lòng thờ kính và ngươi sẽ được giải thoát khỏi đau khổ.” Tới bây giờ, nhiều tiệm bán cổ vật tại Kyoto có ít nhất một tác phẩm của Hakuin trưng bày trong tiệm nhằm bảo vệ khỏi bị hỏa hoạn. Hakuin đi lại nhiều trong tuổi sáu mươi và bảy mươi, và khi sư tới thăm một nhà riêng, sư vẫn thường để lại một hay hai tác phẩm Thiền này như một đền trả. Nếu nơi sư vào trọ là dinh thự của một tướng quân, Hakuin có thể gọi đem giấy mực tới và vẽ ngay tại chỗ vào liền một tấm màn cuốn hay là cánh cửa giấy.

Hakuin thích vẽ biếm họa các nhà sư nửa mùa. Hakuin thường xuyên chế giễu Yoshida Kenko (1283—1350), một nhà văn và là tác giả cuốn Essays in Idleness (Tsurezure-gusa), mô tả vị này như một con khỉ dại khờ tìm cách chụp bóng trăng dưới nước, hay là viết các dòng mở đầu của cuốn sách đó trên một mảnh giấy. Thiền Tông của Yoshida, theo tấm tranh cho thấy, chỉ là giả mạo. Các thiền sư chân thật không sống trong cảnh hưu dưỡng thoải mái, vui chơi lạng qua lại giữa nghệ thuật và tôn giáo. Họ ở trong thế giới thật, thường trực thử nghiệm phẩm chất sự giác ngộ của họ. Đó là lý do vì sao Hakuin vẽ các tấm tranh mô tả Bố Đại Thiền Sư (Hotei), “vị Phật cười,” như là người chủ tiệm với dòng chữ kế bên: “Các chủ tiệm cũng phải nghe tiếng vỗ của một bàn tay, nếu không thì buôn bán sẽ ế ẩm!”

Để trưng bày trong nhà họ, những người giàu có thể có một tấm thư pháp lớn mang chữ “Đức” khổng lồ với các dòng chữ khuyên răn kế bên:

Nếu ngươi trữ tiền cho kẻ kế thừa, chắc chắn chúng sẽ hoang phí; nếu ngươi trữ sách cho chúng, chúng nhiều phần sẽ không đọc một chữ. Hãy lặng lẽ gom góp công đức—một di sản như thế sẽ bền vững lâu dài.

Các thương gia đối xử gắt gao với nhân viên sẽ nhận bài giảng thư pháp này từ Hakuin:

“THƯƠNG CẢM”
Họ cũng là các con của ngươi,
Các nhân viên của ngươi;
Hãy nghĩ về họ
Như ngươi nghĩ
Về các đứa con yêu thương của ngươi.

Các đệ tử đang tu học gian nan sẽ nhận tấm thư pháp ấm lòng:

“KIÊN TÂM”
Một phẩm cách lớn hơn
Bất kỳ giới luật nào
Hay công đức nào:
Sự kiên tâm làm
Con người vĩ đại.

Hakuin thường xuyên vẽ chữ “Chết” và thêm các dòng chú thích kế bên như:

Thanh niên!
Nếu ngươi không muốn chết,
Thì hãy chết bây giờ; nếu ngươi chết một lần,
Ngươi sẽ không chết lần nữa!

Bất kỳ ai thấy
Xuyên qua sự chết
Đều thành quả Thánh
Không Già, Không Chết.

Cái chết, động lực lớn
Của chư Tổ thời xưa
căn bản của kiếp người.

Có khi, Hakuin viết lên một công án như “Cái gì là Tánh của thấy, nghe, học và biết?” và bảo đệ tử treo trong phòng người này và hãy tham cứu về nó buổi sáng và buổi tối, cho tới khi ý nghĩa sáng tỏ. Một công án được sư ưa chuộng vẽ chữ là câu của Nham Đầu “Nếu ngươi tán tâm, ngươi chỉ như thây ma,” có nghĩa là, nếu tâm ngươi không toàn lực trong việc đang làm, thì hành vi của ngươi là cái chết.

Các ảnh bán thân khổng lồ Bồ Đề Đạt Ma – một vài tấm cao hơn 6 feet (1.83 mét) – là dấu ấn độc đáo của Hakuin. Các tấm vẽ Bồ Đề Đạt Ma, thực sự là chân dung tự họa của sư, thường ký tự với Thiền ngữ kiểu Hakuin: “Thấy Tánh, Thành Phật!” Các câu viết được ưa chuộng khác là: “Mắt ta luôn dòm ngươi [cho nên hãy gấp rút tỉnh ngộ]!” và “Bất cứ ngươi ngó chỗ nào [ngươi không thể thoát mắt nhìn của ta]!” Hakuin cũng có thể vẽ ra các tranh ảnh dịu dàng của Quan âm, cho thấy sư tự đồng hóa với nguyên lý nữ cũng như nam.

Hakuin ngưỡng mộ Ikkyu (sư còn vẽ một tấm tranh, ghi cảnh Ikkyu mang cái đầu lâu quanh phố xá Kyoto trong ngày Tết Nguyên Đán), nhưng nếp sống riêng của sư thì nghiêm túc hơn nhiều, và có vẻ rằng sư chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ trong suốt sự nghiệp Thiền sư của mình. Tuy nhiên, sư dạy cụ thể rằng tình dục, nếu vận dụng chính đáng, là một hình thức giá trị của thiền trong đời sống. Sư đưa ra công án đầy khó khăn “Nhà sư và thiếu nữ” cho tất cả các đệ tử sư, và vẽ nhiều tấm tranh chủ đề sex cho các đệ tử cư sĩ. Một số tranh chỉ là tấm thư pháp một nét duy nhất, tượng trưng mẫu tự ichi, “một,” mang hình dương vật khổng lồ với dòng chữ kế bên như “Vạn pháp trở về một, vậy một quy về đâu?” hay “Ngay cả trong trận gió dữ dội nhất, cái này vẫn bất động!” Tấm mang chủ đề sex ưa chuộng của Hakuin là một tấm tranh vẽ bonseki, một cảnh đá xếp thu nhỏ, thực sự chỉ là hình một dương vật cương cứng. Trên các tấm tranh vẽ Núi Phú Sĩ – một biểu tượng truyền thống về sự kết hợp tình dục – Hakuin viết bài tình ca này: “Ô, nàng Phú Sĩ xinh đẹp ơi, hãy vén tấm màn mây của nàng và cho ta thấy làn da tuyết trắng của nàng.” Và nhân vật nữ trong nhiều tấm tranh của Hakuin là Otafuku, cô gái điếm thô xấu vùng quê mùa hẻo lánh nhưng lại có quả tim vàng, cô tượng trưng cho tình yêu trong sạchtâm từ thanh tịnh của Quan âm.

Hakuin sống trong tình trạng nửa phần về hưu trong ba năm cuối đời sư, và các tác phẩm sáng tạo trong thời kỳ này mang tính trong sáng, rõ ràng và mãnh liệt dị thường – những hiển lộ sinh động của thị kiến thâm sâu của một Thiền sư chân thật. Học giới Tây PhươngĐông Phương bây giờ ngày càng nhìn nhận rằng họa pháp và thư pháp của Hakuin cũng quan trọng đối với lịch sử văn hóa thế giới cũng như hội họa của Rembrandt. Hàng chục tác phẩm thượng hạng của Hakuin hiện đang nằm trong các bộ sưu tập Hoa Kỳ và âu Châu, và các cuộc triển lãm các tác phẩm Hakuin đã thu hút, gợi hứng và chỉ dạy cho người xem khắp thế giới. (Hakuin cũng là một điêu khắc gia thành tựu và đã khắc nhiều tác phẩm đẹp, trong đó, như người ta nói, có tượng của chính sư đặt ngồi trong chùa Shoin-ji.)

Trong năm cuối đời mình, vị sư già đã tới một ngôi chùa để thuyết pháp. Khi tới nơi, sư đột nhiên ngã khụy xuống, bị cơn gió lạnh buốt đánh gục. Một phụ nữ trung niên mới hỏi xem bà có thể làm gì cho sư, và Hakuin trả lời, “Hãy sưởi ấm ta với thân ngươi.” Cởi áo ra, bà ôm Hakuin, sư bấy giờ nằm ngủ nhiều giờ trong vòng tay bà, toát mồ hôi của cơn bệnh và hồi sức lại.

Tuy nhiên, đoạn kết sắp tới, và vào mùa đông năm 1768, một bác sĩ chẩn đoán cho vị sư đang xuống sức. Trong khi ông bắt mạch của Hakuin, bác sĩ nói với nhà sư, “Mọi chuyện có vẻ như tốt cả.” Hakuin mới càu nhàu, “Có một số bác sĩ. Hắn không thể thấy là trong ba ngày nữa, ta sẽ ra đi.”

Tấm thư pháp cuối cùng của Hakuin là bản tuyên ngôn đời sư: một chữ “Trung” (Anh: midst; Nhật: chu; Việt: ở giữa, ở trong, trong khi, trong lúc...) khổng lồ, với các chú thích kế bên, “Thiền TRONG hành động thì một tỉ lần ưu thắng hơn là thiền trong tĩnh lặng.” Vào rạng sáng ngày thứ 11 của tháng thứ 12, Hakuin tỉnh dậy từ giấc ngủ bình an, hét lên một tiếng dữ dội, lăn người qua bên phải, và viên tịch.

Sau khi hỏa thiêu, tro của Hakuin – được chia ra cho các chùa Shoin-ji, Ryutaku-ji và Muryo-ji – được nói là có xá lợi màu sáng dịu như san hô và có hương trầm thơm ngát.

(Lời Người Dịch: Sư Hakuin, cũng hệt như sư Đại Huệ của Trung Hoa, khi đề cao pháp thiền công án, đã nặng lời chỉ trích Mặc Chiếu Thiền. Hakuin nói là nói cho môn đệ và những vị có cơ duyên, không phải nói cho tất cả. Nên thấy, chúng sinh nhiều căn cơ nên nhà Phật cũng nhiều pháp môn. Mặc Chiếu đã giúp nhiều căn cơ ngộ đạo, và dẫn tới chung hiệu quả như thiền công án, tuy không quyết liệt nhưng lại là cánh cửa lớn đón nhận nhiều người – riêng tại Hoa Kỳ, pháp Mặc Chiếu của Tào Động Nhật Bản được quảng bá rộng hơn các pháp khác, phần lớn vì tính thư giãn và không phân biệt tôn giáo. Nhưng nguy cơ của người không hiểu Mặc Chiếu là có thể ngồi cảm thấy an vui mà cứ tưởng là xong rồi, bấy giờ lấy cái thư giãn cho là tối diệu của Thiền, thì sẽ lạc lối khó thoát. Người tu tốt nhất là nên gieo nhân duyên với tất cả các pháp, đừng phân biệt, vì càng nhiều nhân duyên càng khó đi lạc. Hãy lạy Phật, tụng kinh, sám hối... cả vào chỗ chuyên biệt và sùng tín như Mật Tông, Tịnh Độ Tông; và rồi tu Thiền Tông thì nên nhập thất theo đủ các dòng Lâm Tế, Tào Động và nên nhập cả vài thất Thiền Minh Sát của Nam Tông. Sau đó nên đọc thật nhiều kinh luật luận vì đọc, cũng như mọi hành vi khác, cũng là một pháp tu, để mang ơn Phật Pháp Tăng, để biết đối trị các tâm bất thiện, và tự biết làm lợi cho người khác.

Câu hỏi nữa, vì sao sư Hakuin lại vẽ nhiều về các cô gái nhà quê hành nghề bán thân kia? Các cô tự thấy bất tịnh, nên không dám bước vào chùa, thì vô lượng kiếp về sau bao giờ mới thoát nổi? Sư tiếp cận các cô là phải, và khi cần thì với lòng thanh tịnh đã bước vào xóm lầu xanh để dạy Thiền.) 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25459)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37747)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14059)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19916)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9409)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14205)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35344)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10560)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19531)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23059)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13267)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10640)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20040)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10496)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9851)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14746)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17486)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17453)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13037)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 30946)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25480)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13876)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17378)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10866)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12167)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10360)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12140)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11631)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9528)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12224)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8370)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9854)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9664)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11884)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14249)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9813)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11109)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8214)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10881)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 13912)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9817)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12886)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 22862)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23720)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12430)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15272)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17596)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14884)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16412)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15859)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17371)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11493)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11535)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17657)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10638)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10437)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11209)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10941)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36271)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8864)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9542)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34541)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17109)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10124)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10353)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12103)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13490)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14507)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9059)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24591)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10224)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15779)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15404)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14402)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12911)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18196)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9492)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18368)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18432)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18876)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18647)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11724)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13236)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47860)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 10983)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13435)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 12922)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 10951)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12427)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 10973)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31639)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11581)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant