Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II- Ý nghĩamục đích

24 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11445)
II- Ý nghĩa và mục đích

THIỀN TRONG ÐỜI THƯỜNG
 Thích Thông Huệ

Chương 6
KHỐI NGHI VÀ THUẬT KHAI TÂM

II- Ý NGHĨA VÀ MỤC ÐÍCH:

 1-Từ đa niệm đưa về nhất niệm:

Trạng thái của tâm thức như một dòng thác, như vượn chuyền cành, không lúc nào dừng nghỉ; lại còn bị kích thích bởi trí nhớ, sự tưởng tượng và hoạt động một cách thầm kín, nên con người luôn bị quay cuồng trong đa niệm. Cả những khi lạy Phật tụng kinh, tuy miệng đọc thân lạy mà nhiều lúc ta vẫn nghĩ lan man chuyện nầy chuyện khác. Chính do tâm lăng xăng suy nghĩ mà tạo nghiệp thiện ác, động cơ của guồng máy luân hồi.

Tuy nhiên, con người cũng có khả năng tập trung vào một vấn đề, một nghi vấn. Khi ấy, những việc khác bị gác qua một bên. Các nhà nghiên cứu, khi toàn tâm toàn ý suy nghĩ về một đề tài khoa học, thường quên hết chuyện xung quanh. Ðây là nguyên nhân của sự đãng trí, tạo ra nhiều giai thoại. Chính nhờ sự tập trung nên trí óc sáng ra, con người có thể tự mình giải quyết vấn đề, như ánh sáng mặt trời đi qua thấu kính hội tụ có thể đốt cháy mảnh giấy để dưới thấu kính. Có điều, vì do tập khí và vì không có công phu tập luyện, nên con người chỉ chuyên chú trong một thời gian nào đó, rồi vọng niệm cũng trở lại lẫy lừng.

Nhà Phật có nhiều phương pháp giúp tâm hành giả từ đa niệm trở về nhất niệm. Người tu Tịnh Ðộ niệm Lục tự Di-Ðà, Mật tông dạy trì chú, Thiền Nguyên thuỷ có Tứ Niệm Xứ, Thiền Phát triển có Lục diệu pháp môn... Những phương tiện ấy đều nhằm đưa hành giả đạt định. Pháp tham công án của Thiền tông cũng vậy. Có thể vị thầy cho ta một công án, hoặc ta tự chọn một vấn đề khó hiểu trong kinh sách, thường là những nghi vấn trọng đại, như công án “Vô” của Ngài Triệu Châu hay “Tiếng vỗ một bàn tay” của Ngài Bạch Ẩn, hoặc các câu hỏi “Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang ?”, “Ðại ý Phật pháp là gì?”... Khi đến tham vấn, thường vị thầy không giải thích mà còn dùng nhiều thủ thuật vun bồi mối nghi thêm lớn mạnh, khiến ý thức không còn chỗ bám víu, bặt đường lý luận suy tư. Một Thiền sư dạy: “Vọng tưởng khởi lên, làm nó lặng đi; vọmg tưởng lặng, làm nó không khởi lên nữa. Ðược vậy thì chẳng nhọc công mười năm hành khước”. Ở đây, hành giả không loại trừ vọng tưởng bằng cách đè nén, vì muốn trừ dẹp vọng, sẽ có niệm hướng đến chỗ không vọng tức sa vào sở đắc, lại là một loại vọng tưởng vi tế. Hơn nữa, nếu sợ động và ưa thích trạng thái bất động, hành giả vẫn còn ý niệm phân biệt hai bên. Hành giả phải ôm mối nghi trong thao thức triền miên, một bề chuyên tâm vào mối nghi thì vọng tưởng tự nhiên lặng. Nhờ kề cận bên thầy, vị thầy có cách giúp môn đệ công phu một cách dũng mãnhvững chãi. Mối nghi dần dần ung đúc thành khối, nghi niệm trở thành nghi tình, nghi đoàn, tức từ đa niệm trở về nhất niệm.

Một điều quan trọng khi tham công án, hành giả không phải để tâm suy luận lý giải, tìm hiểu ý nghĩa của công án, vì đó là hành vi của ý thức. Ví như đối với công án Vô, hành giả không suy nghĩ “Vô là không, không là Tánh Không chứ chẳng phải không ngơ”..., vì như thế một lúc sau sẽ sa vào mớ bòng bong của ý niệm. Hành giả phải đề khởi “Vô” như thế nào để nó gắn chặt, đóng chặt vào tâm, không một phút giây ngừng nghỉ, không một kẻ hở cho niệm khác len vào. Một Thiền sư đã ví người tham công án giống như rơi xuống giếng sâu, chỉ nghĩ một việc duy nhất là làm cách nào ra khỏi giếng. Thiền sư Viên Ngộ trước tác Bích Nham Lục với văn chương siêu xuất, biện biệt tuyệt luân; nhưng người sau chỉ đọc tụng ngôn cú, bàn huyền nói diệu, nên Ngài Ðại Huệ mang những bản khắc gỗ đốt hết, chấm dứt lưu truyền tác phẩm nầy đến 200 năm. Cả hai vị Thiền sư đều có tâm lão bà, vì người mà giảng giải, cũng vì người mà đốt bỏ.

Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc bắt đầu tham công án Vô năm 22 tuổi. Suốt ba năm trường, Ngài vật lộn với chữ Vô, quên hết mọi chuyện xung quanh. Ngài đã diễn tả quá trình công phu của mình, từ lúc bắt đầu được trao công án đến khi thành khối nghi : “Tôi tham chữ Vô cả ngày lẫn đêm, không giây phút nào xao lãng, chỉ chăm lo sao cho được thanh tịnh và kết mối nghi thành khối. Năm được 24 tuổi, một mình tôi vật lộn trong đau đớn, quên cả ăn ngủ. Bỗng nhiên, tôi nhận thấy một cảm giác trong suốt cực độ như đang bị đóng băng, chết cứng trong một cánh đồng giá rét trải rộng cả ngàn cây số. Tôi không thể tiến, cũng không thể lùi. Tôi như người mất hết trí khôn, không còn gì hiện hữu trong tôi ngoài Vô. Tôi biết trong tôi đã kết thành khối nghi”.

Những trạng huống thay đổi của tâm thức như trên có thể chứng minh bằng quan điểm triết học. Bình thường, con người không tự chủ được đối với ý niệm vì chịu sự chi phối của hai yếu tố: Một là kích thích của cảm quan đối với trần cảnh bên ngoài, nhà Phật gọi là năm căn tiếp xúc với năm trần phát sinh năm thức; hai là hoạt động của tiềm thức, pháp trần khởi dậy tạo nên dòng chảy liên tục của vọng niệm. Khi tâm chuyên chú vào một đề mục, hai yếu tố kích thích trên không thể chi phối được. Trước tiên, hành giả không bị dính mắc theo sắc thinh hương vị xúc; sau đó, hạt giống có sẵn trong tiềm thức không có điều kiện khởi hiện hành. Khi công phu thuần thục, hành giả thoát khỏi sự chi phối của tiềm thức. Ðây là lúc mà Ngài Bạch Ẩn bảo rằng cảm thấy mình “trong suốt như bị đóng băng”.

 2- Bùng vỡ khối nghi :

Một hình ảnh linh động diễn tả người ôm khối nghi, như cảnh một con chó thấy chảo mỡ sôi thật hấp dẫn; chó muốn liếm nhưng sợ phỏng, mà bỏ đi thì tiếc, nên cứ quanh quẩn bên chảo mỡ mà không biết làm cách nào. Tình trạng bế tắc nầy là triền miên; khối nghi cứ đeo đẳng không rời khiến hành giả quên ăn bỏ ngủ. Vị thầy biết rõ tình trạng ấy của môn đệ, nhưng không can thiệp vào khi chưa đến thời kỳ. Lúc đủ nhân duyên, vị thầy dùng một thủ thuật đặc biệt, hoặc nhờ một ngoại duyên nào đó, tự nhiên khối nghi bùng vỡ, hành giả đại ngộ.

Sự bùng vỡ khối nghi là thời điểm cuối cùng của quá trình tìm lại con người thật của chính mình. Thời điểm này xảy ra thật đột ngột, không có dấu hiệu gì báo trước, biểu hiện mỗi người mỗi vẻ, cơ hội không ai giống ai, thời gian cũng khác nhau tùy trường hợp. Thiền sư Linh VânQuốc sư Huệ Trung mất 30 năm. Thiền sư Bạch Ẩn mất 3 năm .... Cũng có những người ôm khối nghi suốt đời, đến lúc chết cũng chưa tìm ra lời giải đáp. Ðó là những trường hợp rất đáng tiếc mà vị thầy cũng không thể làm gì để giúp môn đệ. Vì sao có sự khác nhau đó? – Theo Philip Kapleau, một môn sinh của Thiền sư Suzuki và được lão sư Yasutani ấn chứng, sự giác ngộ nhanh hay chậm là do chính tự thân của hành giả. So với các pháp tu khác, tham công án đưa đến giác ngộ nhanh hơn, nhưng còn tùy nghiệp lực, tùy sự khát ngưỡng được giải thoát cấp bách hay không, và tùy công phu tham cứu miên mật nhiều hay ít. Cho nên, tự lực là chủ yếu, tha lựctrợ duyên. Tha lực đóng vai trò một tia lửa điện khởi phát phản ứng hoá học, một cái ấn trên nút khởi động máy. Không có tia lửa, phản ứng không xảy ra; không có cái ấn nút, máy không vận hành. Nhưng những sự chuyển động ấy không phải chỉ nhờ tia lửa hay cái ấn nút, mà chủ yếu do đủ yêu cầu về lượng và chất của những thành phần trong phản ứng, do máy móc đã hoàn bị và sẵn sàng hoạt động. Cũng vậy, sự thao thức trăn trở, sự dấn thân đến tột độ, sự toàn tâm toàn ý sống chết với khối nghi làm vắng bặt mọi vọng niệm, là công việc của bản thân hành giả. Sự giúp đỡ của Tôn sư, như cố ý kích thích khối nghi ngày càng mãnh liệt để kết thành khối nghi (nếu môn đệ không tự mình làm được), hoặc tạo cơ hội thúc đẩy quá trình công phu sớm đến đỉnh cuối, hay đập một phát dứt điểm khi thời cơ chín muồi... là tha lực cần thiết đối với hành giả. Do đó, trong Thiền công án, cả tự lựctha lực đều quan trọng không thể thiếu, song hành giả phải nhận định yếu tố chính và phụ để khỏi lầm lẫn khi dụng công.

Ðịnh Thượng tọa hỏi Tổ Lâm Tế: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Câu hỏi nầy là một vấn đề trọng đại của người tu. Thượng tọa cũng đã ôm ấp nghi vấn từ lâu, có thể cũng tham vấn nhiều nơi nhưng chưa tìm ra giải đáp. Tổ Lâm Tế nghe hỏi, lặng thinh bước xuống toà, nắm cổ áo Thượng tọa, tát một cái thật mạnh. Thượng tọa Ðịnh kinh ngạc đứng sững. Một vị tăng đứng kế bên vụt bảo: “Ðịnh Thượng tọa sao không lễ Hòa thượng đi!”. Thượng tọa sắp cúi xuống lạy, tức khắc bừng ngộ.

Ðây là một câu chuyệntác động rất mạnh đến những hành giả tu Thiền. Tổ Lâm Tế là một vị Thiền sư rất kỳ đặc, cơ phong cao vút, người thường không thể lường nổi. Ngày trước, Tổ cũng ba lần ăn gậy của sư phụ Hoàng Bá chính vì câu hỏi nầy, đã từng đau khổ tột cùng vì ôm khối nghi: “Hỏi như vậy có lỗi hay không lỗi?”. Nay nghe Thượng tọa Ðịnh hỏi lại câu ấy, Tổ bằng tâm lão bà như Tôn sư khi xưa, tát Thượng tọa một cái nẩy đom đóm mắt. Uy lực của các Thiền sư rất lớn, nên dù làm gì, học nhơn cũng không dám phản ứng. Thượng tọa Ðịnh bị bất ngờ, mọi vọng niệm đều dứt bặt. Cơ duyên đã chín muồi, nên khi cúi xuống lạy liền hoát nhiên đại ngộ.

Tổ Qui Sơn một hôm gởi cho Ngài Ngưỡng Sơn tấm gương. Ngài Ngưỡng Sơn thượng đường bảo đại chúng: “Các vị hãy nói, đây là gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn? Nếu của Qui Sơn, sao ở trong tay ta? Nếu của ta, sao nhờ Qui Sơn gởi đến mới có? Ai nói được thì không đập nát”. Toàn chúng đều không đáp được. Ngài liền đập nát tấm gương.

Tấm gương ở đây trở thành một bài pháp siêu tuyệt. Trả lời gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn đều bị lỗi. Môn đệ lúng túng vì không thể đáp, như thế là đã khởi mối nghi. Ngài đập nát tấm gương làm khối nghi càng lớn. Tấm gương là thực tại hiện tiền, nhận ra thì vượt thoát rào cản nhị biên, vượt thoát cái bẫy của Thiền sư. Thủ thuật khai tâm của các Ngài nhằm chấm dứt mọi lý giải biện luận, nhằm đập chết con khỉ ý thức, dồn môn sinh vào chỗ bế tắc và tự mình tìm chỗ thoát thân, trực nhận tánh giác sẵn đủ. Công án Chích thủ diệu thanh ( tiếng vỗ một bàn tay) của Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc nhằm giúp học nhơn phản tỉnh trở về con người biết nghe luôn luôn hiện diện. Có tiếng hay không tiếng là duyên bên ngoài, còn cái thường biết mới là chân thật.

Thượng tọa Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ muốn giành lại y bát. Ngài đã có công phu trước đó, đã từng trăn trở làm sao tìm được bộ mặt thật xưa nay, nên khi thấy y bát để trên tảng đá mà không ôm lên được, Ngài đổi lòng cầu y bát thành tâm cầu đạo. Lục Tổ bảo Ngài đứng im giây lát, sau đó hạ một câu: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?” Ngài liền đại ngộ. Thời gian tu trước, Ngài đem tâm bỏ ác cầu thiện, bỏ vọng cầu chơn theo tinh thần phất bụi trừ dơ của Ngài Thần Tú. Thật ra, chơn và vọng cũng chỉ là sự phân biệt tương đối của ý thức, cũng đều cùng một tâm; vọng sanh từ tâm và diệt cũng không ra khỏi tâm. Lục Tổ dạy Ngài siêu vượt thiêïn ác tức vượt khỏi ý niệm phân biệt hai bên; làm sao nhận ra bản tâm bất diệt nơi vọng tâm sanh diệt, ấy là tu có chánh kiến. Các vị Thiền sư sử dụng các thủ thuật khác nhau tùy đương cơ, như thầy thuốc giỏi tùy bệnh cho thuốc, và khác với lối dạy của Pháp sư. Pháp sư thường giản trạch Phật pháp một cách biện chứng, rõ ràng khúc chiết; còn Thiền sư thường dùng lối dạy nửa vời khó hiểu, nhưng giúp môn đệ mau khai ngộ, và khi ngộ rồi thì không thể nào quên. Tuy vậy, trong thời đại khoa học hiện nay, mỗi vấn đề đều phải được trình bày minh bạchhợp lý, nếu dạy đồ chúng theo cách xưa e khó thuyết phục người nghe. Ngài Trường Sa Cảnh Sầm ngày xưa còn bảo: “Nếu lúc nào ta cũng nói tột lý Thiền, thì sân chùa nầy mọc đầy cỏ dại”, vì chẳng còn môn đệ nào quét đất Già-lam. Vì thế, các ngài phải kết hợp Thiền và Giáo, trừ một số người có căn cơ đặc biệt hoặc thích hợp với Thiền công án thì các Ngài có cách dạy riêng, nhằm khơi dậy tiềm năng vô tận vượt khỏi tri kiến lập tri, là trực giác Bát-Nhã sẵn đủ nơi mỗi người.

Sau đây là tự thuật của Ngài Bạch-Ẩn lúc vượt thoát nhị biên đối đãi giữa ta-người, sanh-tử, tất cả đều được bao trùm trong ánh giác: “Một buổi chiều nọ, tôi bỗng nghe từ xa vọng đến tiếng chuông chùa, giống tiếng ầm của một tảng băng hay một ngọn tháp ngọc rơi xuống. Tôi chợt nhận ra, mình là vị tiền bối Nham Ðầu. Dù đã xa xưa rồi, Ngài vẫn chẳng có gì thay đổi. Khối nghi vỡ tan tành. Tôi la lớn: Thật là vi diệu! Không còn sanh tử để thoát ra, không còn giác ngộ để tìm kiếm. Tất cả 1700 công án từ trước đến nay, không cần tham nữa!”. Khi trực giác phóng xuất, hành giả thâm nhập vào cảnh giới tuyệt đối, nhận ra con người thật, là giải quyết xong vấn nạn của đời mình. Ðến đây rồi, mới thấy con người thật ấy luôn luôn hiện hữu, có lúc nào vắng thiếu; chỉ vì quên mất gia tài đồ sộ nên chúng ta mới làm kẻ bần cùng. Tâm trạng của một người nghèo khổ mạt hạng bỗng dưng lạc vào cung điện nguy nga tráng lệ, hay vào một kho tàng đồ sộ đầy ngọc ngà châu báu; lại biết tất cả những thứ quý giá đẹp đẽ ấy đều là của mình, mặc tình cho mình sử dụng, tâm trạng ấy liệu có thể diễn tả được bằng lời?

 

II- NỘI DUNG THIỀN TẬP

 1- Lộ trình tâm linh:

Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu khôngkiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.

Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệmbước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền nãotâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Ðây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đôï từ thấp đến cao(5). 

Chánh niệmcông phumọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sángchuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.

Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánhtrở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.

 2- Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiềncông phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Ðây là một điều lầm lẫn lớn lao. Ðức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiềncứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ. 

Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.

Tọa thiềncông phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phutính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Ðơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Ðến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Ði trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Ði thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.

Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.

Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.

Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giảikinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nóitỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.

Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.

Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận địnhvấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Ðó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.

Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.

Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộcsai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng tamâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiếntư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diệnbao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi ngườichịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.

Thiền sư Vạn Hạnhbài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suybố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Ðời sống của ta sẽ có ý nghĩathọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.

Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đìnhxã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.

 3- Một vài ngộ nhận trong công phu:

* Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Ðây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Ðây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.

* Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.

* Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Ðây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.

* Ðức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Ðấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Ðây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21692)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20390)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22276)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18736)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26971)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18676)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19906)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38035)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20103)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28271)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46275)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15402)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65602)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13709)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18595)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15521)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14554)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18696)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12606)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17630)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25435)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38676)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17674)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11217)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18575)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17383)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13186)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13297)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17512)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24277)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12348)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13788)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12971)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12875)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14144)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14606)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21075)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22581)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29957)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13851)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18216)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17034)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12606)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30704)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14609)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12979)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12726)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12494)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13045)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16297)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15174)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23818)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16158)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28959)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20267)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15544)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37204)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45002)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36851)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant