NHỮNG
YOGA
TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ Nguyên
tác:
The Tibetan Yogas of Dream and Sleep Nhà
Xuất
Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998 Việt
dịch:
Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000
PHẦN
NĂM: SỰ
THỰC HÀNH YOGA GIẤC NGỦ
3.
Thực Hành Giấc Ngủ
Bốn
thời
thực hành giấc ngủ được làm trong những thời kỳ
thức trong đêm, như thực hànhgiấc mộng. Tuy nhiên trong yoga
giấc ngủ tất cả bốn thời là cùng một cái như nhau.
Hãy
nằm theo thế sư tử, như đã giải thích trong chương về
thực hànhgiấc mộng: đàn ông bên phải, đàn bà bên trái.
Hãy quán tưởng bốn cánh hoa sen xanh trong trung tâm tim. Ở
trong trung tâm là dakini Salgye Du Dalma, được quán tưởng trong
tinh túy của ngài như là một khối cầu bằng ánh sáng thanh
tịnhrực rỡ và trong sáng, một tiglé trong suốt như pha lê
toàn hảo. Tiglé trong sáng và không màu sắc, phản chiếu màu
xanh của những cánh hoa và trở thành một màu xanh trắng rực
rỡ. Hãy hòa lẫn sự hiện diện của bạn trọn vẹn với
tiglé sáng rỡ cho đến mức bạn trở thành ánh sáng xanh sáng
rỡ.
Mỗi
một cánh hoa xanh là một tiglé, với tiglé trung tâm là năm
tiglé. Ở trước là một tiglé vàng, tượng trưng phương đông.
Bên trái bạn, phương bắc, là tiglé lục. Đằng sau là tiglé
đỏ của phương tây. Và bên phải là tiglé xanh của phương
nam (xem hình vẽ trang 156). Những tiglé tượng trưng cho bốn
dakini được quán tưởng trong tinh túy sáng rỡ của các vị,
ánh sáng có màu sắc. Chớ quán tưởng những hình tướng
của các vị khác hơn là những khối cầu của quang minh. Bốn
tiglé giống như một đoàn tùy tùng của Salgye Du Dalma. Hãy
phát triển cảm thức rằng bạn được sự che chở của những
dakini bao quanh; hãy cố gắngcảm thấy thực sự sự hiện
diệntừ ái này cho đến khi bạn được an toàn và thư giãn.
Hãy
cầu nguyện đến dakini, cầu mong bạn có giấc ngủ của tịnh
quang hơn là những giấc mộng hay giấc ngủ của vô minh. Làm
cho lời cầu nguyện của bạn mạnh mẽ và đầy sùng mộ,
và cầu nguyện trở đi trở lại. Lời cầu nguyện sẽ giúp
làm mạnh sùng mộ và ý định. Không quá nhấn mạnh đâu
khi cho rằng ý định mạnh mẽ là nền tảng của thực hành.
Phát triển sùng mộ sẽ giúp làm cho ý định được nhất
tâm và uy lực đủ để xuyên thủng những đám mây của vô
minh chúng che đậyquang minh của tịnh quang.
ĐI
VÀO GIẤC NGỦ
Dù
kinh nghiệm ngủ là liên tục, nó được chia thành năm giai
đoạn như một giúp đỡ để đem tỉnh giác vào tiến trình.
Trong bản dưới đây, cột bên trái liệt kê một sự mất
nối kết tiệm tiến khỏi những giác quan và những đối
tượng của giác quancho đến khi có một “vắng bặt cái
nhìn thấy” toàn diện, nó có nghĩa là một sự vắng mặthoàn toànkinh nghiệmgiác quan.
Bình
thường, nhân cách dựa vàothế giới của những giác quan.
Vì thế giới này biến mất trong giấc ngủ, cái nâng đỡ
cho ý thức sụp đổ và kết quả là “rơi vào giấc ngủ”,
đó có nghĩa là chúng ta trở nên vô thức. Yoga giấc ngủ
dùng những tiglé để nâng đỡý thức khi sự tiếp xúc với
thế giới bên ngoài đã bị mất. Tương ứng với sự tan
biến tiệm tiến của kinh nghiệmgiác quan, hành giả nối
kết theo thứ tự với năm tiglé, cho đến khi, với thế giớihoàn toàn biến mất, chủ thể tan biến vào quang minhthanh
tịnhbất nhị của tịnh quang. Chuyển động từ một tiglé
qua một tiglé khác cần phải êm nhẹ, thông trơn càng nhiều
càng tốt để phù hợp với chuyển động liên tục và không
ngắt quãng đến giấc ngủ.
a.
Sau khi bạn nằm trong thế thích hợp, kinh nghiệmgiác quan
vẫn đầy đủ : bạn thấy bằng mắt, bạn nghe, bạn cảm
thấy cái giường... Đây là lúc của cái nhìn thấy. Cái ngã
quy ước được nâng đỡ bởi kinh nghiệmgiác quan. Hãy bắt
đầu chuyển hướng sự nâng đỡ này đến ý thứcthanh tịnh
mà những tiglé đại diện. Bước thứ nhất là hòa tan sự
tỉnh giác của bạn với tiglé đằng trước, một ánh sáng
đẹp đẽ, ấm áp, màu vàng trong đó tâm thứcý niệm có
thể bắt đầu tan vào.
b.
Khi hai mắt nhắm lại, sự tiếp xúc với thế giớigiác quan
bắt đầu giảm sút. Đây là điểm thứ hai, cái nhìn thấy
giảm bớt. Vì sự nâng đỡ bên ngoài đã mất, hãy hướng
tỉnh giác đến tiglé lục bên trái. Hãy để cho nhân cách
bắt đầu tan biến khi kinh nghiệmgiác quan giảm.
c.
Vì kinh nghiệmgiác quan trở nên bị chặn im hơn, hãy hướng
tỉnh giác đến tiglé đỏ. Tiến trình vào giấc ngủ thì
quen thuộc – sự êm dịu và mờ nhòa của những giác quan,
sự mất dần những cảm giác. Thông thường khi những nâng
đỡ bên ngoài mất đi, bạn mất đi chính bạn, nhưng giờ
đây bạn đang học cách hiện hữu mà không có bất kỳ cái
nâng đỡ nào.
d.
Khi kinh nghiệmgiác quan hầu như tắt mất, hãy hướng tỉnh
giác vào tiglé màu xanh bên phải. Đây là thời kỳ khi mọi
kinh nghiệmgiác quan ngừng dứt. Tất cả các giác quan rất
thanh tĩnh và không có bất cứ tiếp xúc nào với thế giới
bên ngoài.
e.
Cuối cùng, vì thân thểhoàn toànđi vào giấc ngủ và mọi
tiếp xúc với những giác quan đã mất đi, tỉnh giáchoàn
toàn trộn lẫn với tiglé trung tâm màu xanh trắng. Tới điểm
này, nếu bạn thành công, tiglé sẽ không thực sự là một
đối tượng của tỉnh giác; bạn sẽ không quán tưởng một
ánh sáng xanh cũng không xác định kinh nghiệm bằng vị trí.
Hơn nữa, bạn sẽ là chính bản thân tịnh quang ; bạn an trụ
trong đó suốt giấc ngủ.
NHỮNG
GIAI ĐOẠN DỪNG TẮT CỦA GIÁC QUAN
Kinh
nghiệmgiác quan
Tiglé
.
Màu
Hướng
Vị
trí
a.
Cái nhìn thấy b.
Cái
nhìn thấy giảm c.
Cái
nhìn thấy giảm nhiều d.
Cái
nhìn thấy dừng tắt e.
Cái
nhìn thấy vắng mặt
Vàng Lục Đỏ Xanh Xanh
trắng
Đông Bắc Tây Nam Trung
tâm
Trước Trái Sau Phải Trung
tâm
Hãy
ghi nhận rằng năm giai đoạn này không ám chỉ đến những
hình tướngxuất hiện của tâm thức bên trong, mà là đến
sự dừng tắt theo thứ lớp của kinh nghiệmgiác quan. Bình
thường người ngủ đi qua tiến trình này một cách vô thức; với sự thực hành này tiến trình này xảy ra trong tỉnh
giác. Những bước trong tiến trình không cần phải phân định
ranh giới một cách rõ ràng. Khi các thức rút khỏi các giác
quan, hãy để cho tỉnh giácdi chuyển êm băng qua những tiglé
cho đến khi chỉ còn là tánh tỉnh giácbất nhị – tịnh
quang của tiglé trung tâm. Chính khi thân thể xoáy chìm vào
giấc ngủ thì bạn xoáy chìm vào tịnh quang. Hơn là dựa vào
những quyết địnhý niệm để di chuyển từ một tiglé này
sang một tiglé khác, và hơn là cố gắng làm cho tiến trình
xảy ra, hãy cho phépý định khai mở tiến trình trong trải
nghiệm.
Nếu
bạn hoàn toànthức dậy ở giữa sự thực hành, hãy bắt
đầu trở lại. Bạn không cần phải quá cứng ngắc với
hình thức của sự thực hành. Tiến trình xảy ra nhanh hay
chậm không thành vấn đề. Đối với một số người rơi
vào giấc ngủ thì nhẹ nhàng; những người khác rơi vào
giấc ngủ vài giây sau khi đầu họ chạm xuống gối. Cả
hai đều đi qua một chuyển di như nhau. Một cái kim may hầu
như tức khắc xuyên qua một xấp năm thứ vải mỏng nhưng
cũng còn năm khoảnh khắc để nó xuyên qua từng thứ. Chớ
có phân tích quá đáng về những giai đoạn nào là cái gì
hay phân chia rạch ròi tiến trình thành năm. Sự quán tưởng
chỉ là một nâng đỡ cho tỉnh giác lúc ban đầu. Tinh túy
của sự thực hành phải được hiểu và áp dụng hơn là
chìm mất trong những chi tiết.
Theo
kinh nghiệm riêng của tôi, tôi thấy sự thực hành cũng hiệu
quả khi những tiglé được đi vào theo chiều ngược lại.
Lúc đó bạn quán tưởng tiglé vàng trước mặt, tượng trưng
cho đất; tiglé xanh bên phải, tượng trưng cho nước; tiglé
đỏ đằng sau, tượng trưng lửa; tiglé lục bên trái, tượng
trưng không khí; và cuối cùng tiglé xanh trắng ở trung tâm,
tượng trưngkhông gian. Trình tự này tương đương với trình
tự mà những nguyên tố tan biến khi chết. Bạn có thể thí
nghiệm để xác định trình tự nào tốt nhất cho bạn.
Như
trong thực hànhgiấc mộng, tốt nhất là thức dậy ba lần
trong đêm, cách khoảng độ hai giờ một lần. Khi kinh nghiệm
được phát triển, bạn có thể dùng những lúc tỉnh dậytự nhiên trong đêm hơn là ba thời kỳtỉnh dậy theo chương
trình. Hãy lập lại cùng một thực hành trong mỗi thời thức
dậy. Mỗi lúc bạn thức dậy, hãy khảo sát kinh nghiệm về
giấc ngủ từ đó bạn thức dậy: Bạn có mất tỉnh giác
và như thế giấc ngủ của vô minh ? Bạn có mộng, đánh mất
mình trong giấc ngủ sanh tử? Hay bạn ở trong tịnh quang,
an trụ trong tánh giác thanh tịnh bất nhị?
4
Chuẩn Bị cho Ban Đêm
Người
trung
bình không biết những nguyên lý của thiền định, mang
những căng thẳng, phiền não, tư tưởng và những rối rắm
mê mờ của ban ngày vào ban đêm. Đối với một người như
vậy, không có thực hành hay thời gianđặc biệt nào được
đặt riêng ra để xử lý ban ngày hay làm bình lặng trước
khi vào giấc ngủ. Với họ giấc ngủ đến giữa sự phóng
dật, và những tiêu cực được được giữ trong tâm thức
suốt đêm. Khi cơn mộng khởi sanh từ những tiêu cực này,
không có sự vững vàng ổn định trong hiện diệntỉnh thức
và cá nhân bị cuốn theo những hình ảnh và mê lầm của
thế giới mộng. Thân thểcăng thẳng bởi lo âu hay nặng
nề bởi buồn rầu, và khí trong thân thì thô và không trơn
tru khi tâm thức phóng đi đây đó. Giấc ngủ bị nhiễu loạn,
những giấc mơ đầy căng thẳng hay chỉ là một sự trốn
thoátthích thú, và người ngủ khi thức dậy thì mệt mỏi
và không được ngơi nghỉ vào buổi sáng hôm sau, thường
tiếp tục ban ngày trong một trạng tháitiêu cực.
Ngay
cả với người không thực hành những yoga giấc mộng hay
giấc ngủ, vẫn cólợi lạc khi chuẩn bị cho giấc ngủ,
xem nó là nghiêm túc. Tịnh hóa tâm thức đến mức tốt nhất
trước khi ngủ, cũng như trước lúc thiền định, làm phát
sanh nhiều sự hiện diện hơn và những phẩm tính tích cực.
Hơn là để cho những xúc tình tiêu cựcmang đi lúc ban đêm,
hãy dùng bất cứ phương tiện thiện xảo nào bạn có để
giải thoát bạn khỏi những xúc tình đó. Nếu bạn biết
làm thế nào để cho xúc tình tựgiải thoát, tan biến vào
tánh không, thì hãy làm thế. Nếu bạn biết làm thế nào
để chuyển hóa nó hay tạo nên cái đối trị với nó, hãy
dùng hiểu biết đó. Hãy cố gắng nối kết với vị lama,
yidam, và dakini ; hãy cầu nguyện đến chư Phật và những
thần bổn tôn ; hãy phát khởi lòng bi. Hãy làm điều gì bạn
có thể làm để gỡ thoát cho bạn căng thẳng trong thân thể
và những thái độtiêu cực trong tâm thức. Thoát khỏi sự
quấy nhiễu, với một tâm thức nhẹ tênh và thoải mái, bạn
sẽ kinh nghiệm một giấc ngủ yên nghỉ hơn và phục hồi
sức khỏe hơn. Dù cho không thể làm phần sau của những thực
hành, sự thực hành này là một cái gì tích cực mà ai cũng
có thể hòa trộn vào cuộc sống hàng ngày.
Ở
trên là vài chuẩn bị tổng quát cho ban đêm, nhưng chớ tự
giới hạn trong những cái ấy. Điểm quan trọng là tỉnh thức
với cái mà bạn đang làm với tâm thức bạn và nó ảnh hưởng
bạn thế nào, và dùng sự hiểu biết của bạn để làm bình
an chính bạn, trở nên hiện diện, và mở ra những khả tính
của ban đêm.
CHÍN
HƠI THỞ TỊNH HÓA
Có
lẽ bạn đã ghi nhận sự căng thẳng nhiều biết bao được
mang vào trong thân thể và sự căng thẳngảnh hưởng đến
hơi thở như thế nào. Khi có ai mà chúng ta đang có nhiều
rắc rối với họ đi vào phòng, thân thể co siết và hơi
thở trở nên ngắn hơn và gắt hơn. Khi chúng ta sợ, hơi thở
thành nhanh và cạn. Khi buồn, hơi thở thường sâu và điểm
thêm những tiếng thở dài. Và nếu người nào chúng ta thích
và chăm lo đi vào phòng, thân thể thư giãn và hơi thở rỗng
rang và thoải mái.
Hơn
là chờ đợi kinh nghiệm để thay đổi hơi thở, chúng ta
có thể chủ động thay đổi hơi thở để thay đổi kinh nghiệm
của chúng ta. Chín hơi thở của sự tịnh hóa là một thực
hành ngắn để làm sạch và tịnh hóa những kinh mạch và
để thư giãn tâm thức và thân thể. Hình vẽ những kinh mạch
có thể tìm ở trang 69.
Ngồi
xếp chân trong thế thiền định. Đặt hai tay dưới bụng,
tay trái trên tay phải. Hơi cúi đầu một chút cho cổ thẳng.
Hãy
quán tưởng ba kinh mạch năng lực trong thân bạn. Kinh mạch
trung ương màu xanh và đứng thẳng qua trung tâm của thân ;
nó cỡ bằng một cây mía, và hơi rộng ra từ tim đến chỗ
mở ra của nó nơi đỉnh đầu. Hai kinh mạch hai bên đường
kính bằng cây bút chì và nối với kinh mạch trung ương ở
chót đáy của nó, khoảng bốn inch dưới rốn. Chúng đi thẳng
qua thân ở hai bên kinh mạch trung ương, cong lại dưới xương
sọ, đi qua sau mắt và mở ra nơi lỗ mũi. Nơi người đàn
bà kinh mạch phải màu đỏ và kinh mạch trái màu trắng. Nơi
người đàn ông kinh mạch phải màu trắng và kinh mạch trái
màu đỏ.
Ba
hơi thở đầu
Đàn
ông : Đưa bàn tay phải lên với ngón tay cái đè gốc ngón
tay đeo nhẫn. Bịt lỗ mũi phải với ngón tay đeo nhẫn, hít
vào ánh sáng màu lục qua lỗ mũi trái. Rồi bịt lỗ mũi trái
với ngón tay đeo nhẫn tay phải, thở ra hết qua lỗ mũi phải.
Lập lại như vậy ba lần hơi thở vào và ra.
Đàn
bà : Đưa bàn trái lên với ngón cái đè gốc ngón tay đeo
nhẫn. Bịt lỗ mũi trái với ngón tay đeo nhẫn, hít vào ánh
sáng màu lục qua lỗ mũi phải. Rồi bịt lỗ mũi phải với
ngón tay đeo nhẫn, thở ra hết qua lỗ mũi trái. Lập lại
như vậy ba lần hơi thở vào và ra.
Với
mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng mọi chướng ngạiliên
hệ với năng lực nam bị trục khỏi kinh mạch màu trắng
trong hình dạng không khí màu xanh nhạt. Những cái này gồm
những đau yếu thuộc khí cũng như những chướng ngại và
che chướng liên hệ với quá khứ.
Ba
hơi thở thứ hai
Đàn
ông và đàn bà : Đổi tay và lỗ mũi và lập lại ba lần
hơi thở vào và ra. Với mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng
mọi chướng ngạiliên hệ với năng lực nữ bị trục khỏi
kinh mạch màu đỏ trong hình dạng không khí màu hồng nhạt.
Những cái này gồm những đau yếu thuộc mật cũng như những
chướng ngại và che chướng liên hệ với tương lai.
Ba
hơi thở thứ ba
Đàn
ông và đàn bà : Đặt bàn tay trái trên bàn tay phải dưới
bụng, bàn tay ngửa lên. Hít vào ánh sáng màu lục có tính
cách chữa lành qua cả hai lỗ mũi. Hãy quán tưởng nó đi
xuống theo hai kinh mạch hai bên đến chỗ nối kết với kinh
mạch chính, khoảng bề rộng bốn ngón tay dưới rốn. Với
hơi thở ra, hãy quán tưởngnăng lựcđi lên theo kinh mạch
trung ương và ra đỉnh đầu. Hoàn thành ba hơi thở vào và
ra. Với mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng tất cả mọi
thế lực làm cho đau yếu liên hệ với những ma quỷ đối
nghịch bị trục khỏi đỉnh đầu trong hình dạng khói màu
đen. Những cái ấy gồm những đau yếu thuộc chất niêm dịch.
Cũng như những chướng ngại và che chướng liên hệ với
hiện tại.
GURU
YOGA
Guru
yoga là một thực hànhchính yếu trong mọi trường phái Phật
giáo Tây Tạng và đạo Bošn. Điều này chứng tỏ trong kinh
tantra, và Đại Toàn Thiện. Nó phát triển sự nối kết trong
lòng với vị thầy. Bằng cách liên tục làm mạnh lòng sùng
mộ, chúng ta đến chỗ sùng mộ thuần túy, không lay chuyển,
căn cứ thần lực của sự thực hành. Tinh túy của guru yoga
là hòa lẫn tâm của hành giả với tâm của đạo sư.
Đạo
sưchân thật là gì ? Đó là bản tánh nền tảng, vô tướng
của tâm, tánh giác bổn nguyên nền tảng của mọi sự, nhưng
vì chúng ta sống trong nhị nguyên, sẽ ích lợi cho chúng taquán tưởng cái ấy trong một hình tướng. Làm như vậy là
sử dụng một cách thiện xảo những nhị nguyên của tâm
thứcý niệm để làm mạnh thêm lòng sùng mộ và giúp chúng
ta nhắm đến thực hành và sự phát sanh những phẩm tính
tích cực.
Trong
truyền thống Bošn, chúng tôithường dùng hoặc Tapihritsa như
là đạo sư, hoặc Phật Shenla Odker*, ngài đại diện sự hợp
nhất của tất cả chư đạo sư. Nếu bạn đã là một hành
giả, bạn có thể có một bổn tôn khác để quán tưởng,
như Guru Rinpoche hay một yidam hay dakini. Trong khi điều quan trọng
là làm việc với một dòng phái mà bạn có một mối liên
kết, bạn cần hiểu rằng đạo sư bạn đang quán tưởng
là hiện thân của tất cả các đạo sư bạn đã liên kết,
tất cả các vị thầy đã theo học, tất cả các bổn tôn
bạn đã có những cam kết. Đạo sư trong guru yoga không chỉ
là một cá nhân, mà là tinh túy của giác ngộ, tánh giác bổn
nguyên nó là bản tánhchân thật của bạn.
Đạo
sư cũng là vị thầy mà bạn nhận những giáo lý từ ngài.
Trong truyền thốngTây Tạng, chúng ta nói rằng đạo sư
Tapihritsa
còn
quan
trọng hơn đức Phật. Vì sao ? Bởi vì đạo sư là sứ
giả trực tiếp của những giáo lý, người đem trí huệ của
Phật đến cho đệ tử. Không có đạo sưchúng ta không tìm
racon đường của chúng ta đến với Phật. Thế nên chúng
ta cần cảm thấy sùng mộ với đạo sư như đối với Phật
nếu thình lình Phật xuất hiệntrước mặtchúng ta.
Guru
yoga không chỉ là phát sinh một cảm giác nào đó đối với
một hình ảnh được quán tưởng. Nó được làm để tìm
thấy tâm nền tảng trong chính bạn, tâm đó là nhất như
với tâm nền tảng của tất cả các vị thầy của bạn,
và của tất cả chư Phật và những bậc chứng ngộ đã từng
sống ở đời. Khi bạn hòa nhập với vị guru, bạn hòa nhập
với thật tánh nguyên sơ của bạn, nó là người hướng dẫn
và đạo sư đích thực. Nhưng điều này không nên là một
thực hànhtrừu tượng. Khi bạn làm guru yoga, hãy cố gắngcảm thấy lòng sùng mộ mãnh liệt đến độ tóc gáy dựng
đứng, nước mắt bắt đầu rơi trên mặt bạn, và lòng bạn
mở ra và tràn đầy tình thương mến lớn lao. Hãy để bạn
hòa lẫn hợp nhất với tâm của guru, chính là Phật tánhgiác ngộ của bạn. Đây là cách thực hành guru yoga.
Thực
hành
Sau
chín hơi thở, vẫn ngồi trong tư thế thiền định, hãy quán
tưởngđạo sư ở trên và trước mặt bạn. Đó không phải
là một bức tranh bằng phẳng, hai chiều – hãy để cho một
hiện thể thực sự hiện hữu ở đó, với ba chiều, làm
bằng ánh sáng, trong sạch, và với một sự hiện diện mạnh
mẽ tác độngcảm giác trong thân thể, năng lực, và tâm
thức của bạn. Hãy phát sanh sùng mộ mạnh mẽ và suy nghĩ
về sự trao tặng vĩ đại những giáo lý và cơ hội tốt
đẹp lớn lao bạn đang hưởng khi liên kết với chúng. Dâng
lên một lời cầu nguyệnchân thành, cầu xin những tiêu cực
và che ám của bạn được dẹp bỏ, những phẩm tính tích
cực của bạn được phát triển, và bạn hoàn thành được
yoga giấc mộng.
Bấy
giờ hãy tưởng tượng nhận những ban phước từ đạo sư
trong hình thức những ánh sáng ba màu tuôn chảy từ ba cửa
trí huệ của ngài – cửa thân, cửa ngữ, cửa tâm – vào
ba cửa của bạn. Những ánh sáng được chuyển vào theo trình
tự sau : Ánh sáng trắng tuôn chảy từ luân xa đỉnh đầu
của đạo sư vào luân xa đỉnh đầu của bạn, tịnh hóa
và làm thư giãn toàn thân thể bạn và phương diện thể xác
của bạn. Rồi ánh sáng đỏ từ luân xa cổ họng của đạo
sư chảy vào luân xa cổ họng của bạn, tịnh hóa và làm
thư giãn phương diệnnăng lực của bạn. Cuối cùng, ánh
sáng xanh từ luân xa tim của đạo sư chảy vào luân xa tim
của bạn, tịnh hóa và làm thư giãn tâm thức bạn.
Khi
những ánh sáng vào thân thể bạn, hãy cảm thấy chúng. Hãy
để thân thể, năng lực và tâm thức của bạn thư giãn,
tràn ngập trong ánh sáng trí huệ. Hãy dùng tưởng tượng
của bạn để làm cho sự ban phước thành ra có thực trong
kinh nghiệmtrọn vẹn của bạn, trong thân thể và năng lực
của bạn cũng như trong những hình ảnh trong tâm thức bạn.
Sau
khi nhận sự ban phướcgia bị, hãy tưởng tượng đạo sư
tan vào trong ánh sáng, ánh sáng này đi vào tim bạn và ở lại
đó như tinh túy sâu xa nhất của bạn. Hãy tưởng tượng
rằng bạn tan biến trong ánh sáng ấy, và an trụ trong tánh
tỉnh giácthanh tịnh, rigpa.
Còn
có những giáo huấn tỉ mỉ về guru yoga gồm trong những lễ
lạy, dâng cúng, ấn, thần chú và những quán tưởngphức
tạp nữa, nhưng tinh túy của sự thực hành là hòa trộn tâm
thức bạn với tâm thức của đạo sư, nó chính là tánh giác
thanh tịnh, bất nhị. Guru yoga có thể được làm bất kỳ
lúc nào trong ngày ; càng nhiều càng tốt. Nhiều đạo sư nói
rằng trong tất cả mọi thực hành, guru yoga là cái quan trọng
nhất. Nó ban cho sự ban phước của dòng truyền và có thể
mở ra và làm mềm dịu tấm lòng và làm bình lặng tâm thứchoang dã. Hoàn thànhtrọn vẹn guru yoga là hoàn thànhcon đường.
CHE
CHỞ
Đi
ngủ hơi giống với chết, một hành trìnhmột mình vào cái
không biết. Thông thường chúng ta không lo lắng về giấc
ngủ bởi vì chúng ta quen với nó, nhưng hãy nghĩ về điều
mà giấc ngủ kéo theo. Chúng ta tự mất mình trong một sự
trống không trong một khoảng thời gian, cho đến khi chúng
ta khởi lên lại trong một giấc mộng. Khi chúng tanằm mộng,
chúng ta có thể có một bản sắc khác và một thân thể khác.
Chúng ta có thể ở trong một nơi chốn xa lạ, với những
người chúng ta không biết, dấn thân vào những hoạt động
rối rắm có vẻ rất nguy hiểm.
Chỉ
ngủ trong một nơi chốn không quen thuộc có thể tạo ra lo
âu. Nơi chốn có thể hoàn toànan ninh và tiện nghi, nhưng
chúng ta không ngủ như ở nhà trong môi trường quen thuộc.
Có thể năng lực chỗ ấy xấu. Hay có thể chỉ sự không
an ninhcủa riêngchúng ta làm rộn chúng ta, và ngay cả trong
những chỗ quen thuộcchúng ta cũng cảm thấylo âu khi chờ
giấc ngủ đến, hay lo sợ bởi cái chúng tanằm mộng. Khi
vào giấc ngủ với sự lo âu, những giấc mộng của chúng
ta trộn lẫn với sợ hãi và căng thẳng, giấc ngủ kém yên
và, và sự thực hành khó làm hơn. Thế nên là một ý tốt
khi tạo ra một cảm thức được che chở trước khi chúng
ta ngủ và chuyển hóa nơi chốn ngủ của chúng ta thành một
không gianthiêng liêng.
Điều
này được làm bằng cách tưởng tượng những dakini bảo
vệ khắp chung quanh chỗ ngủ. Hãy tưởng tượng những dakini
như những nữ thầnđẹp đẽ, những người nữ giác ngộ,
màu lục và đày đủ năng lựcche chở. Họ ở gần khi bạn
ngủ và suốt cả đêm, như những người mẹ trông chừng
cho con họ, hay những người bảo vệ bao quanh một ông vua
hay hay bà hoàng hậu. Hãy tưởng tượng họ ở khắp nơi,
giữ gìn những cửa lớn và cửa sổ, ngồi cạnh bạn trên
giường, đi dạo trong vườn hay sân... cho đến khi bạn hoàn
toàncảm thấy được che chở.
Lại
nữa, sự thực hành này thì hơn việc chỉ cố gắngquán
tưởng điều gì : hãy thấy những dakini với tâm thức bạn
nhưng cũng dùng sự tưởng tượng của bạn để cảm thấy
sự hiện diện của họ. Tạo ra một môi trường thiêng liêng,
che chở theo cách này là làm bình yên, thư giãn và xúc tiến
giấc ngủ yên nghỉ. Một nhà thần bí sống như vầy : thấy
điều thần bí, thay đổi môi trường với tâm thức, và cho
phép những hành động, thậm chí những hành động tưởng
tượng, có ý nghĩa.
Bạn
có thể nâng thêm cảm thức an bình trong môi trường bằng
cách để những vật có tính chấtthiêng liêng trong phòng
ngủ : những hình ảnhan bình, đáng yêu, những biểu tượngtôn giáo và thiêng liêng, và những vật khác hướng tâm thức
bạn đến con đường.
Tantra
Mẹ nói cho chúng ta rằng khi chúng ta chuẩn bị cho giấc ngủ
chúng ta cần duy trì sự tỉnh giác về những nguyên nhân của
giấc mộng, đối tượng để tập trung vào, những vị bảo
vệ và về chính chúng ta. Giữ những cái ấy trong sự tỉnh
giác, không phải như nhiều cái, mà như một môi trường đơn
nhất, và điều này sẽ có một hiệu lực lớn lao trong giấc
mộng và giấc ngủ.
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trịcon người.
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đìnhPhật giáo thì tự động theo cha mẹđi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhận và tuyên bốĐại lễPhật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội ĐồngLiên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chất và tâm thần...
Các nhà y học chính thống và bảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháptrị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vi và lối sống...
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phậttọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộthành Phật.
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệmtu tậpbản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệmbản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môngiải thoát và giác ngộ.
Vô NiệmViên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyếtthoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyếtgiải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vàominh tâmkiến tánh.
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
Chúng tamay mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư khôngpháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
Tại sao công phuniệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâmBồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sốngtâm linh.
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp mônTịnh độ chuyên lòng niệm PhậtA Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báotrang nghiêmthù thắng.
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữhiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đườngniệm PhậtDi Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
Phật pháp là chân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thậtthông đạt tường tận rồi thì hoan hỉ mà bố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộ mà chúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức PhậtVô Lượng QuangA Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
Vãng sanhnhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanhtrong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánhDi Đà, duy tâm Tịnh độ.
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giớitâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
Pháp mônTịnh độ là một pháp mônthích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắcNiết bàn ngay trong một đời.
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp mônTịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinh ở cõi Ta bà mà ban chopháp môntối thắng này.
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
Kinh Dược SưLưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinhtu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏikhổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dânchăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm raChân lýtối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
Là pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinhTây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
Phật giáoBắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đíchtiến tu. Dù là tu sĩxuất gia hay cư sĩtại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
Sau khi thành đạo, Đức PhậtThích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
Pháp mônTịnh độtheo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Đại Tập là một pháp mônthù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biếnrộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụngthực hành và đã chứng nghiệm sư an lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Cachứng đạotối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháphành trì đưa đến chứng ngộ.
Thiền sưNghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự do và thuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấnquý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.