Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Giai đoạn trau dồi thiện tâm

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8897)
1. Giai đoạn trau dồi thiện tâm

CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
Tịnh Sĩ biên soạn


CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG

Tất cả các pháp đều do tâm biến hiện ra. Ta bà hay Phật cảnh đều do tâm mà thành, chúng sinh hay Phật đều từ tâm mà có,… Tâm vốn không, chư Phật và chúng sinh cũng không. Tâm là huyễn, Phật và chúng sinh cũng huyễn. Một là huyễn thì tất cả đều huyễn, một là không thì tất cả đều không. Không mà huyễn, huyễn mà không, ấy là tướng thật của vạn pháp.

Ta bà hay Tịnh độ đều chẳng ngoài tâm. Cả hai đều là không, cả hai đều là huyễn, là huyễn mà không, là không mà huyễn. Tất cả đều đồng nhất là giả tướng của huyễn. Tất cả đều vô biệt ở đường thể không. Thế nên Ta bà không thì Tịnh độ cũng không, Ta bà huyễn thì Tịnh độ cũng huyễn; nghĩa là xét thể tánh thì tất cả đều không, nhìn ở giả tướng thì tất cả đều huyễn hữu, và khởi huyễn hữu tâm thì huyễn hữu sinh huyễn hữu Ta bà hay Tịnh độ.

Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh luôn luôn khởi tâm và bởi tâm đó mà có ra các cảnh giới. Tâm địa ngục thành cõi địa ngục, tâm con người xây dựng thế giới loài người, tâm Phật kiến tạo cõi Phật.

Nếu thấy được con người là không thì thấy chư Phật cũng không. Còn đã bảo loài người hiện có thì phải nhận cõi Phật cũng có, tức là có thế giới con người thì có cảnh giới Phật, có Phật A Di Đà, có Tịnh độ Tây phương.

con người, có chư Phật, có cõi người, có cõi Phật, có trầm luân, có giải thoát, có vãng sinhthành Phật, …

chúng sinh giác ngộ muốn trở về với sự sáng suốt chân thật, thành tựu Bồ đề, chứng Chánh Đẳng Giác, chúng ta không thể không đi theo con đường của chư Phật, rèn luyện tâm hồn bằng sự thực hành tu tập.

Trong các đường lối pháp môn tu thành Phật, pháp môn niệm Phậtcon đường thẳng tắt nhất, và trong các phương pháp niệm Phật giải thoát, phương pháp trì niệm hồng danh A Di Đà Phật cầu sinh Tây phương Cực lạc là dễ dàng nhất. Với pháp môn này, hành giả chỉ cần có niềm tin vững chắc, thành thật nguyện sinh Tây phươngthường xuyên trì niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, thực hành chuyên cầnthuần thục, hành giả sẽ vãng sinh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà khi mãn báo thân người. An trú trong cảnh giới thuần tịnh, giải thoát này, mỗi vị đã được sinh về sẽ khai phát sự giác ngộ, chứng bất thối chuyểncuối cùng thành Phật. Tùy trình độ tâm linh của mỗi vị, sự khai phát ấy có nhanh chậm khác nhau.

Đó là đường lối của pháp môn thẳng tắt dễ dàng niệm hồng danh A Di Đà Phật. Tuy nhiên, trên phương diện thực hành, hành giả cần phải biết rõ cách thức ứng dụng tu tập, có vậy sự dụng công phu tu tập mới thu được kết quả tốt đẹp, bằng chẳng thấu suốt cách dụng công thì sự thực hành phải gặp nhiều chướng ngại, tốn nhiều công sức và kết quả không như ý nguyện.

Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian. Như vậy, muốn về Tây phương Cực lạc, hành giả cần phảitâm thanh tịnh giải thoát, thuần thiện ly thế gian.

Tâm thanh tịnh hay tâm thuần thiện trong sạch là tâm dứt bặt mọi phiền não ác nghiệp nhiễm ô. Tâm giải thoát hay tâm ly thế giantâm không còn vương mang ái dục phàm phu thế tục.

Tóm lại, muốn chắc chắn vào được cảnh giới Tây phương Tịnh độ, hành giả phải rèn luyện thành thục tâm mình đến chỗ thánh thiện không còn ái dục nhiễm ô.

Để được như thế về thực hành, hành giả cần tu tập theo trình tự ba giai đoạn:

1. Giai đoạn trau dồi thiện tâm
2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
3. Giai đoạn chuyên tu niệm Phật, thành tựu niệm Phật tam muội.

I. Giai đoạn trau dồi thiện tâm

Giai đoạn này cũng là giai đoạn gột rửa tâm hồn, vì ở giai đoạn này, hành giả dùng mọi phương tiện để giải trừ tất cả tập khí xấu ác của bao đời trước (kiếp trước) giúp tâm trở nên trong sạch hiền thiện, đảm bảo không sa vào ác đạo.

Cũng gọi là giai đoạn nuôi dưỡng đức hạnh. Hành giả song song với việc xả ác, luôn luôn rèn luyện, dưỡng nuôi tất cả các phẩm hạnh thanh cao, các đức tính quý báo để chuẩn bị cho việc tu tập giải thoát, đảm bảo đường tu không bị chướng ngại.

Đây là giai đoạn rất quan trọng, là căn bản của mọi sư tu hành giống như nền móng của căn nhà, nếu không trải qua một sự tu tập thuần thục vững chắc ở giai đoạn này, thì mọi sự tu tập giải thoát nào khác đều bị thất bại.

Không gột rửa tâm trở nên hiền thiện, cứ để mầm ác ẩn tàng trong tâm thức thì khó tránh khỏi lạc vào tà đạo. Một khi đủ duyên, ý ác sinh khởi, nó sẽ biến mọi Phật sự thành ma sự, phá hoại tất cả các công đức lành.

Nếu không rèn luyện đức hạnh, cứ để các thói quen xấu như dễ xao động, dễ thối lui, thiếu nhẫn nhục, thiếu khiêm tốn, hòa hợp,… thì khó tránh sự gẫy đổ và các chướng ngại trên đường tu tập khiến không thành tựu kết quả.

Bởi chúng ta từ vô thỉ đến nay đã huân tập vô số chủng tử bất thiện, chúng luôn luôn ẩn tàng trong tâm, mỗi khi đủ duyên, chúng sẽ khởi dậy, giống như các hạt giống cỏ dại trong nền đất lặng lẽ, khi đủ điều kiện nước, ánh sáng,… liền tự mọc mầm.

Những chủng tử bất thiện như tham lam, ích kỷ, gian xảo, sân hận, thù hiềm, ganh ghét, đố kỵ, phá hoại, đam mê, điên đảo, ngã mạn, khinh người, không nhận lỗi, chê thiện, vui ác,… chúng là nguyên nhân gây ra các tội lỗi, lôi kéo chúng sinh vào ba đường ác, chúng liên kết với nhau khiến hành giả bỏ mất đạo tâm.

Như tu hành còn tham danh tất thường khoe khoang, gặp người hơn mình thì ghen tỵ, dèm chê, tìm cách hại danh dự người,… tâm hồn cứ loanh quanh vấn đề danh dự. Mọi việc làm đều do tâm cầu danh sai sử, trở thành bè đảng của ma, dù có làm việc thiện cũng là ma sự. Khi bị trái ý tổn hại đến danh dự mình thì trở nên sân hận, hiềm thù. Điều ác còn chưa đoạn được thì mong gì thành tựu giải thoát.

Hoặc tu đạo mà ôm lòng ngã mạn, tự cao tự đại, xét lỗi người, đối trên bất kính, nhìn xuống khinh thường, chẳng học hỏi người, chẳng sửa lỗi mình. Như vậy tâm hồn chỉ chứa đựng đầy thứ xấu xa tội lỗi, khó vươn tới chỗ thanh cao đạo đức. Há có thể giải thoát sinh tử?

Bên cạnh những chủng tử bất thiện ấy, con người chúng ta còn có rất nhiều thói quen không tốt như thiếu bền chí, thiếu cam nhẫn, không tri túc, lười biếng, ỷ lại, đa ngôn, hấp tấp, không tự tin, không chú tâm, không chuyên nhất, hí luận, trạo cử, cố chấp, hơn thua, sợ hãi,… Trong đời sống tu hành không ai tránh khỏi những khó khăn do nghiệp chướng hoặc ngoại cảnh đưa đến, đồng thời công phu giải thoát cũng đòi hỏi hành giả phải có một nhân cách hoàn hảo. Nếu còn những thói quen không tốt thì trên đường tu tập, hành giả khó vượt qua chướng duyên, khó đạt đến chỗ giải thoát trọn vẹn. Do đó, bước vào con đường giải thoát, muốn có sự vững chắc và nhẹ tiến, trước tiên hành giả phải thanh lọc tâm mình, rèn trau đức hạnh. Đây chính là chỗ nói: “Muốn tu tiên đạo trước tu nhân đạo”, hoặc “Nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hỷ” ấy vậy.

Tu dưỡng thiện tâm, hành giả phải thông suốt nhân quả nghiệp báo, biết rõ ràng tất cả đều do duyên sinh, phân biệt thế nào là thiện ác ngay trong mỗi điều giới luật nhỏ nhặt và phải thấy tầm quan trọng của nó.

Hành giả phải thường xuyên tìm xét lỗi mình, ở mỗi hành động, lời nóiý nghĩ do mình khởi ra, đều phải thành thật nhận biết tính chất thiện ác, hay dở, lợi hại, đúng sai của nó. Thấy ác, sai dở thì lập tức xả bỏ; thấy thiện, đúng hay thì cố gắng hành thêm. Bởi có thấy được lỗi của mình thì mới lo tu sửa, càng thấy mình nhiều lỗi lầm khuyết điểm, tâm càng thêm hỗ thẹn, càng tinh tấn rèn luyện học hỏi tu tập. Hành giả chỉ nên chú ý lỗi mình, không nên tìm xét lỗi người, không nghĩ xấu về người, … Vì xét lỗi người, nghĩ xấu về người sẽ làm tâm hành giả chất chứa thêm nhiều điều bất thiện. Trong mọi việc sai trái, phải thấy có lỗi mình trong đó.

Song song với việc xét lỗi mình, hành giả phải chú ý điều hay của người, tìm học các gương sáng, các đức tính quý giá của những bậc tiền bối, của chư thánh hiền và của tất cả chư Phật. Luôn luôn chiêm nghiệm tưởng nhớ công đức, đạo hạnh của các Ngài, để các đức tính quý báo ấy thâm nhập mạnh mẽ trong tâm thức, làm tiêu hoại những chủng tử nhiễm ô đã huân tập từ vô thỉ.

Do đó, ở giai đoạn này, hành giả có thể tập tu: đọc kinh, sám hối, lễ Phật, niệm Phật, suy tư, đọc sách, làm phước thiện,…

Đối với tất cả các việc thiện, hành giả phải sốt sắng vui vẻ thực hành, tùy theo khả năng mà làm, không nên vì lười biếng mà bỏ qua. Dù là việc nhỏ nhặt cũng không được coi thường, sẵn sàng xả thân cho các việc thiện ấy. Tâm say mê với việc lợi mình lợi người, có như thế những chủng tử xấu ác mới không còn dịp sinh khởi. Hành giả phải làm với tâm niệm trưởng dưỡng thiện cănlợi ích chúng sinh, không nên làm vì lợi ích cá nhân, thỏa mãn tính hiếu thắng cầu danh dự và tình cảm. Được như vậy, việc hành thiện mới không bị chướng ngại khi gặp khó khăn, mới không phát sinh phiền não khi gặp điều trái ý và không trở thành ma sự khi mình được lợi. Tùy theo nghiệp chướng của người và của mình mà làm thiện cho phù hợp, nhằm đoạn trừ ác nghiệp. Tham xẻn thì thường bố thí buông xả, khuyên người thí xả, tưởng niệm nhân quả phước điền vị tha; nghiệp sân độc thì nói lời lành, gần người hiền đức, tập nhu hòa, tưởng niệm từ bi, nhẫn nhục; nghiệp si mê tà kiến thì lo đọc kinh, nghe pháp, khuyên người học chánh pháp, bố thí kinh điển, cung kính bậc trí tuệ,…

Tóm lại, làm thiện theo nhân duyên như tùy bệnh cho thuốc, bệnh gì thuốc nấy sao cho người mình trở nên thiện lành.

Mỗi một cảnh duyên thuận nghịch nào đưa đến, hành giả cần nên nghĩ tưởng “đó là do nghiệp quả của mình chiêu cảm và theo nghiệp mà thay đổi”. Hành giả không trốn tránh, không say đắm, bình thản đón nhận. Thường hay quán sát nhân quả của mình trong mọi hình thức sinh hoạt hằng ngày, hành giả sẽ giữ được sự an bình, tự chủsáng suốt khi đối diện với gió đời vui buồn, vinh nhục … Giai đoạn này, hành giả không được để tâm ngừng nghỉ mà phải thường xuyên vận dụng nó, nhờ nó quán xét suy tư sự thật của cuộc đời theo ánh sáng chân lý, khiến tâm thức thấm nhuần đạo pháp.

Điều nên chú ý là khi thấy mình có nhiều lỗi lầm khó sửa đổi cũng không được bi quan buồn chán. Hãy nghĩ rằng “chúng sinh ai cũng có lỗi, nghiệp chướng nào cũng khó trừ, chỉ cần cố gắng, tất cả đều có ngày cùng tận, tánh xấu có lúc phải hết”.

Ngay thấy mình có các lỗi lầm, hành giả phải suy xét nguyên do sinh ra lỗi ấy, sự lợi hại của nó và xả bỏ nó. Biết rõ các lỗi lầm như thế, hành giả sẽ dễ dàng dứt khoát đoạn trừ, đoạn trừ ngay tận gốc của nó. Hành giả không nên sợ hãi đối mặt với tính xấu của mình, dù nó đê tiện cũng nhắm ngay nó mà quan sát phân tích cho thấu đáo, sau đó mới dứt khoát quên đi để rèn luyện đức tính ngược lại nó. Vì khi thấu triệt rồi, không cần nghĩ đến nó nữa, cứ tưởng niệm pháp thiện thường xuyên thì các nghiệp ác ấy sẽ dần dần tiêu mất.

Ví dụ thấy mình còn sân hận, biết rõ là mình chấp ngã, tham danh, cố chấp sự tướng… Thấy sự lợi hại của việc sân hậnthỏa mãn bản ngã, phá tiêu thiện tâm công đức, khổ mình, khổ người, chiêu cảm ác báo… Nhận biết nếu đoạn dứt được sân hận thì tâm hồn luôn an lạc, thiện tâm tăng trưởng, thiện nghiệp phước thiện tăng mãn, đưa đến giải thoát sinh tử… Quan sát thường xuyên như thế, nghiệp sân sẽ bị mất gốc, hành giả trở nên an tâm, không còn theo đuổi niệm sân hận. Bấy giờ hành giả cứ chuyên tâm niệm tưởng đức từ bi của chư Phật thánh hiền, hoặc nguyện cầu chúng sinh đều sống từ bi. Không nhớ nghĩ đến chuyện sân hận của mình nữa, nhưng mỗi khi vừa muốn sân thì phải trực nhận liền, rồi phát tâm từ bi thông cảm khiến nó tiêu tan. Đối trị nghiệp tham đắm, ích kỷ, ngã mạn, cố chấp…cũng phải quan sát và khéo léo tu tập như thế. Được như vậy mới gọi là lấy gươm trí tuệ đoạn trừ nghiệp chướng hay biến phiền não thành Bồ đề vậy.

Rèn luyện tánh hạnh tốt, hành giả phải thực hiện ngay nơi việc mình làm hằng ngày, dù là việc nhỏ nhặt cũng phải làm trong ý thức tu tập.

Như rèn luyện “bền chí” thì ngay nơi các việc làm, dù đơn giản hay khó khăn, lớn hay nhỏ phải thực hành chu đáo tới nơi tới chốn. Ví dụ: xách nước vào lu, xách đến khi đầy lu mới thôi; quét sân thì quét giáp sân mới nghỉ mà không bỏ dở nửa chừng. Việc khó khăn lớn nhỏ đều bền chí tới cùng như vậy. Ngay nơi việc nhỏ nhặt tập luyện được, lâu ngày sẽ thành thói quen. Về sau này gặp việc khó khăn quan trọng mới có thể kiên tâm đến đích.

Xả trừ thói quen hấp tấp loạn động, rèn hạnh từ tốn thung dung cũng ngay nơi sinh hoạt hằng ngày, không gián đoạnthời khắc nào. Đi đứng nằm ngồi, nói năng làm việc, nhất nhất đều thong thả cẩn thận.

Rèn luyện nhẫn nhục, tinh tấn, hỷ xả, hòa hợp, tự chủ, chuyên tâmcũng thế.

Tóm lại, hành giả phải coi tất cả các hoạt động thường ngày là môi trường rèn trau đức hạnh của mình. Mọi lời nói, cử chỉ đều cần phải chú tâm luyện tập cho được tốt đẹp, ý nghĩa là tu trong mọi lúc, mọi nơi.

Hành giả cũng thường nên khởi các lời nguyện cầu để trưởng dưỡng thiện tâm đến chỗ hoàn mỹ. Như nguyện tất cả chúng sinh đều được an lành, nguyện tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, nguyện tất cả chúng sinh đều sống hỷ xả, từ bi, nguyện tất cả chúng sinh đều được giải thoát… hoặc khởi các lời nguyện như các vị Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm thường phát nguyện như thế. Những chủng tử lành thấm sâu nơi tâm thức hành giả sẽ tôi luyện tâm hồn thuần tịnh cao thượng, tràn đầy từ bi, dứt bặt ác nghiệp, giống như ly tách có mùi hôi, nay đựng đầy một thứ rất thơm tho ngon ngọt, ly tách liền trở nên thơm tốt vậy.

Giai đoạn này chú trọng việc tu thiện, chỉ lo bồi dưỡng thiện tâm, không quan tâm đến sự phan duyên động niệm hay đoạn tuyệt ái dục, do đó, hành giả còn nhiều ý niệm ái dục và thiếu định tâm. Tuy vậy, hành giả không nên lo sợ, cứ phát khởi tâm lành cho đến khi tâm tràn đầy từ bi, không còn ác nghiệp phiền nãothành tựu các đức hạnh cần yếu cho việc tu tập giải thoát, có điều là tránh các duyên làm tâm ái dục thêm mạnh, hoặc các duyên làm tâm khó định tỉnh để giữ gìn đạo tâm mà thôi.

Khi nào hành giả nhận thấy tâm mình đã đạt được sự hài hòa, đối với các cảnh thuận nghịch đều giữ được sự trong sạch không phiền não ác niệm và các đức tánh khiêm tốn, bền chí, nhẫn nhục, giản dị, hòa hợp, chuyên tâm, cần mẫn, trang nghiêm, kham khổ, cầu tiến, rộng lượng, từ ái, vị tha, bình tĩnh, hỷ xả, tự tin, tự chủ, chú tâm, chuộng thiện, tàm quý, tri túc, an bần, chân thật, lạc quan, thanh tịnh, xả ác, ẩn đức, kính nhân, trọng đạo… đều đã được rèn luyện vững chắc, bây giờ có thể xem như thành tựu giai đoạn tu dưỡng thiện tâm này. Hành giả đã đủ khả năng đi vào con đường giải thoát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19329)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18436)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15889)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29692)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25371)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21528)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17740)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20728)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26222)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33185)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51945)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22759)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23323)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39495)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21706)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22284)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6762)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22626)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69633)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43865)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22948)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34871)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43948)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42766)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44267)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24791)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24260)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39067)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39053)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17162)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17910)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19170)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24110)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19500)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20322)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18229)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18889)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18866)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17406)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19225)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30667)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19103)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20412)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19432)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19663)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29656)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17758)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19308)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19786)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58623)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24331)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23398)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39652)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26604)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40632)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22794)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22812)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21496)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18528)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22507)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21005)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19126)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20841)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20243)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30444)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20100)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17367)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16502)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16770)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14879)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14764)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22744)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15965)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16124)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15167)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25938)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17084)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15678)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19659)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17583)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14601)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14645)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19029)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15020)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32915)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17351)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19011)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21698)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22850)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16535)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16374)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16363)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22832)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12587)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29357)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27558)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25761)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18369)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant