Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương II: Xác định vị trí cõi Cực Lạc

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10720)
Chương II: Xác định vị trí cõi Cực Lạc

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương II
Xác định vị trí cõi Cực Lạc

Cõi Phật cùng khắp, không có Đông Tây, nhưng vì tiếp độ nhiều hạng căn cơ, nên mới hiển bày đây kia. Do đó, luận về vị trí của cõi tịnh thì Nhất thừa, Tam thừa trình bày không đồng. Theo Nhất thừa thì Cực Lạc Tịnh độ thuộc về Hoa Tạng Thế Giới Hải. Vì sao? Bởi vì cõi Thập Phật[13] viên dung không thể trình bày. Chỗ thấy của Phổ Hiền Nhân phần[14] là vô hạn. Nếu theo Tam thừa thì Tây Phương Tịnh độ phân thành bốn cõi: 

- Cõi Pháp Tánh
- Cõi Thật Báo
- Cõi Thọ Dụng
- Cõi Biến Hóa.

Cõi Pháp Tánh và Thật Báo thì thuần một vị an lạc, cùng khắp pháp giới, cõi khác chẳng thể sánh bằng. Cõi Thọ Dụng và cõi Biến Hóa thì đáp lại nguyện, ứng theo cảm, tùy theo tâm ưa thích của căn cơ chúng sinh mà chỉ ra các phương sở. Cho nên, trong kinh Tiểu Vô Lượng Thọ chép: “Ở phương Tây cách đây hơn mười vạn ức cõi Phậtthế giới tên là Cực Lạc”. Nay đem chỗ tịnh và bất tịnh của thế giới kia, lược nêu ra bốn đôi đối đãi để trình bày thứ hạng. Đó là: nhân và quả, hoàn toàn và không hoàn toàn, thuần và tạp, chánh định và phi chánh định.

1. Nhân và quả

Chỗ trụ của Bồ-tát ở giai vị Kim cương trở về trước gọi là Quả báo độ, không gọi là Tịnh độ vì chưa lìa được quả khổ nạn, chỉ có chỗ của Phật mới được gọi là Tịnh độ, vì tất cả hoạn nạn, nhiễm ô đã diệt sạch. Căn cứ theo nghĩa này, kinh Nhân Vương nói: “Tam Hiền Thập Thánh[15] trụ ở quả Báo độ, chỉ có Phật mới ở Tịnh độ. Tất cả chúng sinh tạm thời trụ ở quả Báo độ, Bồ-tát giai vị Kim cương[16] mới ở Tịnh độ”.
2. Hoàn toàn và không hoàn toàn

Chỗ trụ của Bồ-tát từ Địa thứ tám trở lên được gọi là Tịnh độ, vì hoàn toàn vượt ra khỏi ba cõi, đầy đủ bốn nghĩa hoàn toàn. Tất cả trụ xứ của Bồ-tát từ Địa thứ bảy trở về trước chưa được gọi là Tịnh độ vì chưa hoàn toàn vượt ra ba cõi, hoặc chỉ nương vào nguyện lực vượt ra ba cõi. Không đầy đủ bốn nghĩa hoàn toàn là: hoàn toàn an lạc, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn không có tai nạn, hoàn toàn tự tại. Khi Bồ-tát từ Địa thứ bảy trở về trước xuất quán thì có lúc sinh khởi tâm Vô ký báo[17], bốn hoặc của Mạt-na[18] có lúc hiện hành, bấy giờ hoàn toàn không thanh tịnh, chẳng phải hoàn toàn không có hoạn nạn, còn Địa thứ tám trở lên thì không như thế. Căn cứ theo nghĩa này mà luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Pháp xuất xuất thế là do công năng của pháp thiện thế gian sinh ra”.

Giải thích: Nhị thừa thì gọi là xuất thế, từ Địa thứ tám trở lên cho đến quả vị Phật gọi là xuất xuất thế. Pháp xuất thế đối trị với pháp thế gian; còn pháp xuất xuất thế thì đối trị pháp xuất thế. Lấy bốn duyên[19] làm tướng, từ công đức thiện xuất xuất thế sinh khởi cõi tịnh này, chứ không phải từ nhân Tập đế.
3. Thuần và tạp

Chỗ ở của hàng Nhị thừaphàm phu không được gọi là thế giới thanh tịnh, chỉ có chỗ ở của Bồ-tát Thập địa mới được gọi là thế giới thanh tịnh; cõi kia chẳng phải thuần thanh tịnh, cõi này mới thuần thanh tịnh. Căn cứ theo nghĩa này, luận Du-già nói: “Thế giới thì có vô lượng, nhưng chia làm hai loại: đó là thanh tịnhbất tịnh. Trong thế giới thanh tịnh hoàn toàn không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng không có cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, chúng Bồ-tát trụ trong đó, cho nên gọi là thế giới thanh tịnh. Bồ-tát Địa thứ ba, do nguyện lực mà thọ sinh ở cõi đó, nơi ấy hoàn toàn không có hàng Dị sinh[20], kể cả Thanh văn, Độc giác. Nếu là Bồ-tát mới được sinh vào”.

Giải thích: Địa thứ ba này vốn là Hoan hỷ địa, vì căn cứ theo bảy địa, nên Địa thứ ba này là Tịnh thắng ý lạc địa. Bảy địa là do gom 13 địa mà thành.

4. Chánh định và Phi chánh định

Nơi sinh về của ba nhóm chúng sinh là cõi uế; còn nơi chỉ có Chánh định tụ cư trụ mới gọi là Tịnh độ. Trong đó cũng có cả bốn quả Thanh văn và bốn nghi phàm phu, chỉ khôngTà định tụBất định tụ mà thôi. 

Nói về Chánh định tụ, tất cả chúng sinh gom thành ba nhóm. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Những chúng sinh sinh vào cõi Cực Lạc đều được trụ vào Chánh định tụ”. Vì sao? Vì trong cõi Phật kia, không có các loại Tà định tụBất định tụ. Tướng của ba tụ như thế nào? Nếu nói chung thì Nhất-xiển-đề là thuộc Tà định tụ, hàng Nhị thừa Đảnh vị trở lên và Bồ-tát sơ phát tâm trụ trở lên được cho là Chánh định tụ. Nếu đã thú nhập[21] mà chưa đạt được địa vị ấy là Bất định tụ, nhưng chắc chắn không thoái lui, không đoạn thiện căn. Như thế gọi là Chánh định tụ.

Theo luận Du-già thì Chánh định có hai: một là Bản tánh chánh định, hai là Tập thành chánh định. Trong năm chủng tánh[22] thì người thuộc chủng tánh Bồ-tát không tạo Ngũ nghịch[23] và không đoạn mất thiện căn, gọi là Bản tánh chánh định tụ. Hàng chủng tánh Nhị thừaBất định tánh có thể tạo tội Ngũ nghịch và đoạn mất thiện căn, khi đoạn mất thiện căn thì gọi là Tà định tụ. Những người này sau khi nối lại thiện căn, nhưng chưa thú nhập là Bất định tụ. Khi đã thú nhập rồi thì có ba phẩm loại: hạng Thượng căn vốn có mà thú nhập tức là Chánh định. Hạng trung căn đến Noãn vị và hạng hạ căn đến Đảnh vị đều là Chánh định, còn lại đều thuộc về Bất định. Như thế, người thuộc Bất định chủng tánh thú nhập thẳng Đại thừa, tín tâm tu hành, trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu mới được gọi là Chánh định. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín trình bày nghĩa này là nói theo Tập thành chánh định tụ. Còn như Bồ-tát chủng tánh vốn có, vừa thú nhập thẳng Đại thừa thì vĩnh viễn đạt được Bất thoái. Không do nghiệp lực mà bị đoạ vào cõi ác. Do đó, những người này vừa dự vào hàng Thập tín thì liền được Bất thoái, không giống như hạng người thuộc Bất định tánh đã nói ở trước.

Nói như thế là đều căn cứ vào cõi uế. Nếu căn cứ theo việc được sinh về cõi tịnh, thì hàng Định tánh Nhị thừa không được vãng sinh, hoặc sau khi nhập Vô dư thì có thể được vãng sinh. Trong Bất định tánh, nếu ba hạng người ấy đều phát tâm thì đều được sinh vào Tịnh độ. Khi sinh vào Tịnh độ liền nhập vào Chánh định, nhờ sức duyên bên ngoài giữ gìn

Nghĩa Tam tụ được phân biệt sơ lược như thế.

Nay kinh này nói cõi Vô Lượng Thọcăn cứ vào môn thứ tư mà nói là Tịnh độ. Vì sao? Vì muốn gom nhiếp Đại thừaTiểu thừa, dẫn dắt cả phàm Thánh đều được sinh về cõi tối thắng, cùng hướng đến Đại đạo. Như đoạn văn dưới ghi: “Nếu sau khi Ta thành Phậtnhân dân trong nước Ta không trụ Chánh định tụ, không nhất định đạt đến diệt độ thì Ta quyết không ở ngôi Chánh Giác”. Lại nói: “Ví như Ta thành Phật mà hàng Thanh văn trong nước Ta có thể tính đếm biết được số lượng thì Ta không ở ngôi Chánh Giác”. Nhưng Luận lại nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được sinh về là nói hàng Định tánh Nhị thừa chưa nhập vào Vô dư, chưa phát tâm Đại thừa, chứ không nói đến hàng Thanh văn Bất định tánh và Định tánh sau khi ra khỏi Vô dư. Để phân biệt với điều này, nên kinh nói như thế, do đạo lý này mà hai nghĩa không trái nghịch nhau. Lại nói người nữ cho đến người thiếu căn, nghĩa là khi sinh về cõi Cực Lạc, thì chẳng còn là nữ, chẳng còn là người thiếu căn chứ chẳng phải người nữ v.v… không được vãng sinh, vì bà Vi-đề-hy vẫn được vãng sinh. Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni chép rằng: “Đức Phật A-di-đà có cha tên là Nguyệt Thượng Chuyển Luân Thánh vương, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhãn v.v…, hoặc cho rằng cõi Đức Phật giáo hóa là cõi Hóa Độ; luận thì cho rằng đó là cõi Thọ Dụng; hoặc nói là cha mẹ của Pháp môn như trong kinh Duy-ma. Do đạo lý này mà hai thuyết không trái nghịch nhau. Cõi tịnh được nói ở bốn môn trên đều là cõi được thành tựu từ hạnh nguyện của Như Lai, chẳng phải là cõi do sức người được sinh về tạo ra và hoàn toàn không như khí thế giới ở cõi uế, chỉ do quả khổ của chúng sinh tạo thành, cho nên gọi chung cõi ấy là cõi thanh tịnh.

 
Giải thích Pháp số

[1] (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1123).

[2] Bách Tòa Nhân Vương Kinh: một ngày mở 100 tòa để giảng kinh Nhân Vương (TĐĐPB).

[3] Năm trược: năm thứ cặn đục khởi lên trong Kiếp giảm. Theo thuyết của kinh Bi Hoa, q. 5, Pháp Uyển Châu Lâm, q. 98, Ngũ trược chỉ cho:

1. Kiếp trược: vào thời Kiếp giảm, lúc tuổi thọ con người rút ngắn còn 30 tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn 20 tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra, lúc giảm còn 10 tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.

2. Kiến trược: chánh pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.

3. Phiền não trược: chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua nịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.

4. Chúng sinh trược: chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới

5. Mạng trược: thời xưa con người thọ tám vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm. 

Trong năm trược thì Kiếp trược là Tổng, bốn trược còn lại là Biệt. Trong bốn trược thì Kiếp trượcPhiền não trược làm tự thể mà tạo thành Chúng sinh trược và Mạng trược (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3044).

[4] Tứ lưu (còn gọi Tứ bộc lưu, Tứ đại bộc hà, Tứ bộc hà): Bốn thứ phiền não mạnh như dòng thác lũ, cuốn trôi các thiện căn loài hữu tình. Bộc lưu là tên khác của phiền não

1. Dục bộc lưu: thức tưởng khởi lên do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tương ưng với sắc, thanh, hương, vị, xúc tức là Ngũ dục mà ta thường gọi.

2. Hữu bộc lưu: tham, mạn, si trong cõi Sắc, cõi Vô sắc.

3. Kiến bộc lưu: tư tưởng kiến giải lầm lẫn, thiên lệch. Chẳng hạn như các tà kiến cho thế giớihữu biên hoặc vô biên, rằng thế gian là thường hoặc vô thường, đoán chừng sau khi Như Lai Niết-bàn là còn hoặc không còn, đều thuộc về loại Kiến bộc lưu.

4. Vô minh bộc lưu: phiền não tương ưng với si. Ba cõi mỗi cõi đều có năm vô minh bộc lưu, cộng chung thành 15 vô minh bộc lưu.

Theo luận Câu-xá 20, 29 hoặc như tham, sân, mạn, nghi, triền của cõi Dục là Dục bộc lưu; 28 hoặc như tham, mạn, nghi của cõi Sắc, cõi Vô sắc là Hữu bộc lưu; 36 kiến chấp trong ba cõi là Kiến bộc lưu; 15 vô minh trong ba cõiVô minh bộc lưu (TĐPH Huệ Quang, t.V, tr. 4718).

[5] Thập bát viên tịnh (còn gọi là Thập bát viên mãn): chỉ cho 18 công đức viên mãn của Tịnh độ mà chư Phật an trú trong đó (Báo thân Phật). Đó là: 1. Sắc tướng viên tịnh; 2. Hình mạo viên tịnh; 3. Lượng viên tịnh; 4. Xứ viên tịnh; 5. Nhân viên tịnh; 6. Quả viên tịnh; 7. Chủ viên tịnh; 8. Trợ viên tịnh; 9. Quyến thuộc viên tịnh; 10. Trì viên tịnh; 11. Nghiệp viên tịnh; 12. Lợi ích viên tịnh; 13. Vô bố úy viên tịnh; 14. Trụ xứ viên tịnh; 15. Lộ viên tịnh; 16. Thừa viên tịnh; 17. Môn viên tịnh; 18. Y chỉ viên tịnh (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5186).

[6] Nước tám đặc tính (Bát công đức thủy): nước có tám đặc tính thù thắng. Ở Tịnh độ của Phật có ao thù thắng, nước trong ao có tám thứ đặc tính: Trong trẻo, mát mẻ, ngon ngọt, mềm nhẹ, thấm nhuần, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn. Đồng thời, trong 7 biển bao quanh núi Tu-di cũng có nước tràn đầy đủ tám tính chất: Ngọt, lạnh, mềm, nhẹ, trong sạch, không hôi, uống không đau cổ, uống không đau bụng (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 370).

[7] Thập giải (Thập trụ): mười trụ trong quá trình tu hành của Bồ-tát, tức các giai vị từ vị 11 đến vị 22 trong 52 giai vị Bồ-tát. Đó là: 1. Sơ phát tâm trụ; 2. Trị địa trụ; 3. Tu hành trụ; 4. Sinh quý trụ; 5. Cụ túc phương tiện trụ; 6. Chánh tâm trụ; 7. Bất thoái trụ; 8. Đồng chân tru; 9. Pháp vương tử trụ; 10. Quán đảnh trụ (Xem chú thích 15 “Tam Hiền Thập Thánh”, tr. 31).

[8] Tam thọ (Tam thống): ba thứ cảm thọ khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần:

- Khổ thọ: tức lãnh thọ cảnh tướng trái ý làm cho thân tâm chịu bức bách.

- Lạc thọ: tức lãnh thọ cảnh tướng vừa ý khiến thân tâm vui mừng.

- Xả thọ (Bất khổ bất lạc thọ): tức lãnh thọ cảnh tướng trung dung, thân tâm không bị bức bách, cũng không vui sướng.

Ba thọ này có mặt ở cả sáu căn, và chung cho hữu lậu, vô lậu. Hoặc mỗi thọ tự chia làm hai thứ: Thứ nào tương ưng với năm thức gọi là Thân thọ; thứ nào tương ưng với ý thức gọi là Tâm thọ (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4220).

[9] Bi nguyện: lời thệ nguyện phát ra từ lòng đại từ bi của Phật và Bồ-tát.

[10] Chủng tánh quyết định: chủng tánh nhất định sẽ thành tựu quả vị. Tức ba tánh: Bồ-tát định tánh, Duyên giác định tánh, Thanh văn định tánh trong 5 thứ định tánh mà tất cả chúng sinh đều sẵn có quyết định thành tựu quả Phật, quả Bích-chi Phật và quả A-la-hán, nên gọi là Quyết định chủng tánh (Xem chú thích 22 “Ngũ chủng tánh”, tr. 39).

[11] Chánh cơ: căn cơ thích hợp, tiếp thu được sự giáo hóa. Tịnh Độ Chân tôngNhật Bản cho rằng phàm phu ác nhân là chánh cơ của bản nguyện tha lực, nên có các thuyết như: Ác nhân chánh cơ, Nữ nhân chánh cơ. Còn căn cơ phát tâm liền được vãng sinh là chánh cơ trong các cơ (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 928).

[12] Đăng địa: tiến lên Sơ địa. Hàng Bồ-tát Đại thừa tu tập phải trải qua 52 giai vị, là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giácDiệu giác. Trong đó, tiến lên địa đầu tiên của Thập địa gọi là Đăng địa, cần phải trải qua một Đại a-tăng-kỳ kiếp tu hành. Giai đoạn từ Sơ địa đến hết Thập địa phải trải qua hai a-tăng-kỳ kiếp tu hành (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 1465).

[13] Cõi Thập Phật: chỉ 10 loại thân Phật được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Khi luận về Quả hải, tông Hoa Nghiêm đã nêu ra Thập Phật chính là cảnh giới Thập Phật nơi tự kỷ; còn luận về Phật thân thì cho Thập Phật chính là Như Lai có đầy đủ 10 thân. Đây gọi là Thập thânThập Phật. Trong “Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương”, q. 2 của ngài Trí Nghiễm chia Thập Phật ra làm hai loại: Giải cảnh Thập Phật và Hạnh cảnh Thập Phật.

I. Giải cảnh Thập Phật: cảnh giới mà Bồ-tát thuộc Hoa Nghiêm Viên giáoNhân vị dùng Quán trí giải ngộ để chiếu soi. Cảnh giới này tuy mỗi mỗi không giống nhau, nên căn cứ vào những điểm khác nhau ấy mà chia làm 10 loại, gọi chung là Giải Cảnh Thập Phật. Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 26 (Cựu dịch) thì Thập thân là:

1. Chúng sinh thân: chúng sinh thế gian.

2. Quốc độ thân: quốc độ thế gian.

3. Nghiệp báo thân: nhân duyên cảm thọ được hai thân ở trên, tức hoặc và nghiệp.

Ba thân trên là phần nhiễm.

4. Thanh văn thân.

5. Bích-chi Phật thân.

Hai thân này chỉ cho quả thể Nhị thừa: Thanh vănDuyên giác.

6. Bồ-tát thân: bậc ở nơi nhân vị cầu quả vị Phật.

7. Như Lai thân: Phật viên mãn rốt ráo.

8. Trí thân: trí huệ năng chứng của hàng Tam thừa và Phật.

9. Pháp thân: lý pháp sở chứng của hàng Tam thừa và Phật.

Sáu thân trên là phần tịnh.

10. Hư không thân: sự không mà gồm cả lý không, chính là chỗ nương tựa của các thân trên. Từ Thanh văn thân trở xuống là thuộc về trí Chánh giác thế gian.

II. Hạnh cảnh Thập Phật: quả Phật cứu cánh mà Bồ-tát thuộc Hoa Nghiêm Viên giáo tu tập chứng ngộ. Phật quả này vượt hẳn cảnh giới mà Bồ-tát nhân vị giải ngộ chiếu soi. Hạnh cảnh Thập Phật này căn cứ vào công đức của nhất Phật thân mà chia ra. Theo kinh Hoa Nghiêm, q. 43 (Cựu dịch), thì Thập Phật:

1. Chánh giác Phật (Vô trước Phật): Phật quả Giác trí viên mãn.

2. Nguyện Phật: Phật dùng nguyện lực xuất sinh tất cả công đức.

3. Nghiệp báo Phật: nghiệp là nhân vạn hạnh, báo là thân tướng hảo trang nghiêm, Phật nhờ vào phước nghiệp thù thắng mà cảm được sắc thân vi diệu, tướng hảo trang nghiêm khiến cho chúng sinh phát khởi niềm tin.

4. Trụ trì Phật: thể tịnh thức giữ gìn thiện căntùy thuận thành tựu Chánh Giác.

5. Hóa Phật (Niết-bàn Phật): Phật hóa hiện nhập diệt.

6. Pháp giới Phật: Pháp thân tròn đầy khắp pháp giới, lấy pháp giới làm Pháp thể.

7. Tâm Phật: tâm Phật lặng trong, an trụ Chân Duy thức tánh.

8. Tam-muội Phật: Phật thường ở trong định mà không đắm trước.

9. Tánh Phật: Phật dùng tánh trí bình đẳng chiếu soi bổn tánh, lại ngộ gốc của Bản giác chân tánh

10. Như ý Phật: năng hóa, sở hóa đều như ý, trùm khắp các chúng sinh (TĐBKTT).

[14] Phổ Hiền Nhân phần: Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương, q. 4 nêu ra hai loại: Tam thừa Phổ HiềnNhất thừa Phổ Hiền, mỗi loại lại có ba lớp: Nhân, Giải, Hạnh nên gọi là Lục chủng Phổ Hiền.

Trong Tam thừa Phổ Hiền thì Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền; Giải là ngộ được lý Hội Tam Quy Nhất thú hướng Nhất thừa; Hạnh là hạnh Phổ Hiền. Trong Nhất thừa Phổ Hiền thì Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền nói trong phẩm Nhập Pháp Giới; Giải là Phổ biếnThâm nhập nói trong 60 hạnh môn thuộc phẩm Phổ Hiền, là cảnh giới hỗ tương dung nhiếp bất khả tư nghị; Hạnh là chỉ 10 tâm Phổ Hiền và 10 hạnh nguyện Phổ Hiền (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3716).

[15] Tam Hiền Thập Thánh:

* Tam Hiền: ba giai vị tu hành các thiện căn để hàng phục phiền não, khiến tâm được điều hòa. Tam HiềnTiểu thừaĐại thừa khác nhau.

+ Tam Hiền thuộc Tiểu thừa: giai vị tu các thiện căn hữu lậu (tức Thuận giải thoát phần), có ba giai vị:

1. Ngũ đình tâm quán vị: giai vị dùng Ngũ đình tâm quán để ngăn dứt năm món tham, sân, si, ngã kiếntán loạn.

2. Biệt tướng niệm trụ vị: giai vị quán các tự tướng: bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã thuộc thân, thọ, tâm, pháp; đồng thời quán các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã.

3. Tổng tướng niệm trụ vị: giai vị quán chung các cộng tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã thuộc Tứ niệm trụ.

+ Tam Hiền thuộc Đại thừa: chỉ cho hàng Bồ-tát trước Thập địa, giai vị này có ba lớp Thập tâm khác nhau:

1. Thập trụ: tâm hội lý, an trụ bất động. Thập trụ gồm: Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quý trụ, Cụ túc phương tiện trụ, Chính tâm trụ, Bất thoái trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ.

2. Thập hạnh: thực hành hạnh này thì sẽ tiến tới quả. Thập hạnh gồm: Hoan hỷ hạnh, Nhiêu ích hạnh, Vô vi nghịch hạnh, Vô khuất nhiễu hạnh, Vô si loạn hạnh, Thiện hiện hạnh, Vô trước hạnh, Nan đắc hạnh, Thiện pháp hạnh, Chân thật hạnh.

3. Thập hồi hướng: hồi nhân hướng quả. Thập hồi hướng gồm: Cứu chư chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng, Bất hoại hồi hướng, Đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng, Chí nhất thiết hồi hướng, Vô tận công đức tạng hồi hướng, Nhập nhất thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng, Đẳng tùy thuận nhất thiết chúng sinh hồi hướng, Chân như tướng hồi hướng, Vô phược vô trước giải thoát hồi hướngNhập pháp giới vô lượng hồi hướng (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4107).

* Thập Thánh: Nhân Vương Bát-nhã Kinh Hiệp Sớ, q. trung cho rằng Tam Hiền tức 30 tâm trước Thập địa, Thập Thánh tức hàng Bồ-tát Thập địa. Vì hàng Bồ-tát Thập địa đều đã đoạn hoặc, chứng được chánh tính (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5309).

[16] Giai vị Kim cương (Thập hồi hướng, Thập kim cương tâm): mười tâm tu hành của Bồ-tát trước hàng Thập địa ghi trong kinh Phạm Võng, q. thượng. Tức từ 10 Trưởng dưỡng tâm nhập vào Kiên tu nhẫn có 10 Kim cương tâm hướng quả, đó là: Tín tâm, Niệm tâm, Hồi hướng tâm, Đạt tâm, Trực tâm, Bất thoái tâm, Đại thừa tâm, Vô tướng tâm, Huệ tâm và Bất Hoại tâm. Từ 10 Kim cương tâm này nhập vào Kiên thánh nhẫn. Phạm Võng Kinh Hiệp Chú, q. 2 của ngài Trí Húc đời Minh cho rằng 10 Kim cương tâm này giống với Thập tín của Viên giáo; Phạm Võng Kinh Bồ-tát Giới Bản Sớ, q. thượng cho rằng 10 Kim cương tâm chính là Thập hồi hướng (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5232).

[17] Vô ký báo: nghiệp vô ký không thiện không ác thì không chịu quả khổ, cũng không thọ nhận quả vui (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4737).

[18] Bốn hoặc của Mạt-na (Tứ căn bản phiền não): ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Duy Thức cho đó là bốn thứ phiền não căn bản tương ưng và khởi lên với thức Mạt-na. Ngã si tức vô minh, nghĩa là không hiểu biết tướng ngã và mê lầmvô ngã; Ngã kiến tức ngã chấp, nghĩa là đối với pháp phi ngã vọng chấp là ngã; Ngã mạn tức cao ngạo, nghĩa là dựa vào ngã sở chấp khiến cho tâm cao cử; Ngã ái tức ngã tham, nghĩa là đối với ngã sở chấp luôn sinh tâm tham trước (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4834).

[19] Bốn duyên: bốn duyên làm chỗ nương tựa để sinh khởi tất cả các pháp hữu vi. Gồm hai thuyết:

* Theo thuyết của Tiểu thừa:

- Nhân duyên: nguyên nhân nội tại trực tiếp sinh ra quả, chẳng hạn như từ hạt giống sinh ra mầm, hạt giống chính là nhân duyên của mầm. Đối với từ ngữ “Nhân duyên” này thì “Nhân” cũng được hiểu là “Duyên”.

- Đẳng vô gián duyên: nguyên nhân làm cho từ một Sát-na trước nhường đường và khai dẫn cho một Sát-na sau sinh khởi trong sự tương tục của tâm và tâm sở. Cũng tức là lực dụng của tâm, tâm sở làm cho một Sát-na trước ở quá khứ diệt mất thì Sát-na sau ở hiện tại sinh khởi…

- Sở duyên duyên: chỉ cho tất cả đối tượng mà tâm, tâm sở phan duyên, cũng tức là các duyên gián tiếp, trực tiếp do tất cả sự vật bên ngoài đối với nội tâm sinh ra.

- Tăng thượng duyên: tất cả các nguyên nhân điều kiện trợ giúp hoặc không làm chướng ngại cho sự phát sinh của hiện tượng ngoài ba duyên nói trên.

* Theo thuyết của Đại thừa:

- Nhân duyên: tất cả pháp có khả năng tự thân sinh ra tự quả trong các pháp hữu vi. Như hạt giống lúa mì thì mọc cây lúa mì, hạt giống lúa thì mọc cây lúa. Nhân duyên này có ba thể tánh.

a. Chủng tử: tất cả pháp thiện, nhiễm, vô ký hàm chứa trong thức A-lại-da, chủng tử này vào những thời gian khác nhau có thể sinh ra chủng tử của tự loại (chủng sinh chủng), đồng thời có thể sinh khởi hiện hành của tự loại (chủng sinh hiện).

b. Hiện hành: chỉ sự hiện hành của bảy thức chuyển thức (Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thứcMạt-na thức), có công năng huân tập thành tự loại chủng tử (hiện huân chủng) trong Bản thức (thức thứ 8).

- Đẳng vô gián duyên: sự sinh khởi của tâm, tâm sở là do niệm trước dẫn sinh ra niệm sau, niệm niệm nối nhau, không có xen hở.

- Sở duyên duyên: khi đối tượng của tâm, tâm sở trở thành nguyên nhân và làm cho tâm, tâm sở sinh ra kết quả thì đối tượng của tâm, tâm sở được gọi là sở duyên duyên.

- Tăng thượng duyên: cũng giống như chủ trương của Tiểu thừa, chỉ cho các nguyên nhân điều kiện làm sinh khởi tất cả pháp ngoài ba duyên nói trên. Nhưng phạm vi của duyên này rất rộng lớn. Tăng thượng duyên lại có hai loại: Thuận tăng thượng duyên và Nghịch tăng thượng duyên (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4761).

[20] Dị sinh: Trung Quốc dịch nghĩa là Ngu dị sinh - một tên khác của hàng phàm phu. Do vô minh, tà kiến gây tạo nghiệp ácphàm phu phải luân hồi trong sáu đường, chịu các quả báo khác nhau. Theo Thành Duy Thức Luận Thuật Ký 2, phần đầu, Dị sinhhai nghĩa:

1. Biệt dị: bậc Thánh chỉ sinh trong cõi người, cõi trời, còn Dị sinh thì sinh khắp cả năm đường.

2. Biến dị: dị sinh biến chuyển sinh ra tà kiến v.v… Sinh là sinh loại, khác loại với bậc Thánh gọi là Dị sin (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 1066).

[21] Thú nhập: bài tụng 22, q. 37, kinh Du-già ghi: “Thú nhập nghĩa là đạt được sức tăng thượng tịnh tín; hoặc tại gia xa lìa hạnh ác, thọ trì học xứ; hoặc xuất gia xa lìa các dục, thọ trì học xứ” (TĐĐPB).

[22] Ngũ chủng tánh: năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh do chủng tử trong thức A-lại-da quyết định, không có cách gì thay đổi được. Đây là chủ trương của tông Pháp tướng. Năm tánh là:

1. Thanh văn thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng A-la-hán.

2. Độc giác thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Bích-chi Phật.

3. Như Lai thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Phật.

4. Bất định chủng tánh: người có chủng tử vô lậu, nhưng vẫn chưa quyết định là thuộc căn cơ nào trong Tam thừa. Bất định chủng tánh có bốn:

a) Nhị tánh bất định của Bồ-tát, Thanh văn: người có hai chủng tử quả Phật và quả A-la-hán.

b) Nhị tánh bất định của Duyên giác, Bồ-tát: người có hai chủng tử quả Phật và quả Bích-chi Phật.

c) Nhị tánh bất định Thanh vănĐộc giác: người có hai chủng tử quả quả A-la-hán và quả Bích-chi Phật.

d) Tam tánh bất định của Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát: người có ba chủng tử quả quả A-la-hán và quả Bích-chi Phật và quả Phật. 

5. Vô tánh: mặc dù không có chủng tử vô lậu của ba thừa, nhưng có chủng tử hữu lậuthể đạt được quả trời, người.

Trong năm tánh thì ba tánh Thanh văn định tánh, Duyên giác định tánh, và Vô tánh đều không có chủng tử Phật, rốt ráo không thành Phật nên gọi là Tam vô. Còn Bồ-tát định tánh và người chứng quả Phật trong Bất định tánh là có chủng tử Phậtquyết định thành Phật, nên gọi là Nhị hữu (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2941).

[23] Ngũ nghịch (Ngũ nghịch tội): năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết Tiểu thừa, năm tội nghịch: Giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng. Hai tội trước là phá Ân điền, ba tội sau là hủy Đức điền. Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián. Tội phá hòa hợp tăng chia làm hai:

1. Phá Yết-ma Tăng: tách rời giáo đoàn mà mình đã sống, thành lập giáo đoàn mới tổ chức các việc Bố-tát, Yết-ma riêng biệt.

2. Phá Pháp luân Tăng: tôn thờ thầy khác, lập thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.

Theo kinh Đại Tát-giá Ni-kiền-tử Sở Thuyết, q. 4, thì năm tội trọng:

1. Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, cướp đoạt tài vật của Tam Bảo hoặc sai bảo người khác làm việc này.

2. Hủy báng Thanh văn, Duyên giác cho đến giáo pháp Đại thừa.

3. Ngăn cản người xuất gia tu hành hoặc giết hại người xuất gia.

4. Phạm một trong năm tội Ngũ nghịch của Tiểu thừa.

5. Chủ trương tất cả đều không có nghiệp báo, thực hành mười nghiệp ác hoặc không sợ quả báo đời sausai bảo người khác làm mười điều ác.

Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, q. 5, ngài Huệ Chiếu hợp tội giết cha và giết mẹ trong năm tội nghịch của Tiểu thừa thành một, đồng thời thêm vào tội phỉ báng Phật pháplập thành năm tội nghịch cho cả Tam thừa (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2983).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19401)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18523)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16023)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29855)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25450)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21595)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17801)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20805)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26304)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33292)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52119)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22855)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23397)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39624)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21783)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22355)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6824)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22703)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69774)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43966)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23041)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35010)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44058)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42878)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44392)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24887)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24347)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39181)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39211)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17243)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18016)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19242)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35635)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24195)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19575)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20388)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18281)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18962)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18926)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17463)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19291)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30815)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19173)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20502)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19530)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19752)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29792)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17817)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19379)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19863)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58749)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24393)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23490)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39733)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26693)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40747)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22845)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22905)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21575)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18602)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22574)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21060)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19187)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20916)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20315)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30525)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20173)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17441)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16569)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16839)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14942)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14821)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22841)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16022)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16185)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15237)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26071)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17178)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15773)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19756)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17660)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14666)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14727)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19111)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15100)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17473)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19112)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21803)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22968)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16605)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16459)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16482)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22965)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26348)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12725)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29492)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27695)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25886)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant