Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10886)
Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương III
Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

Trước hết trình bày về cảnh sở nghi, tiếp theophương pháp đối trị nghi tưởng. Sau cùng, bàn về những điểm hơn và kém của hóa sinhthai sinh về cõi kia.

* Thứ nhất, nói về cảnh sở nghi, nếu có người với tâm nghi hoặc mà tu các công đức để nguyện được sinh về cõi kia thì những người nầy không hiểu rõ trí Phật, trí Bất Tư Nghị, trí Bất Khả Xứng, Quảng trí Đại Thừa, Thắng trí Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng. Họ nghi ngờ, không tin có những trí này, nhưng vẫn tin có tội và phước, tu tập thiện nghiệp, nguyện sinh về cõi kia. Đây là hạng chúng sinh được sinh về cung điện cõi kia, nhưng suốt 500 năm không được nghe đến Tam Bảo. Chỗ sinh về ấy gọi là biên địa.

Bất Tư Nghị tríThành Sở Tác trí. Trí này có khả năng tạo ra những việc không thể nghĩ bàn, như thân cao không quá một trượng sáu mà cũng không thể thấy được đỉnh đầu; dung lượng không bằng lỗ chân lông mà có thể bao trùm khắp mười phương thế giới; một niệm xưng danh hiệu Phật mà có thể diệt trừ tội nặng nhiều kiếp; mười niệm nhớ nghĩ công Đức Phật mà có thể sinh về Báo độ thù thắng ngoài ba cõi. Những việc như thế chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Tư Nghị trí.

Bất Khả Xứng trí là Diệu Quán Sát trí. Trí này quán sát cảnh không thể nghĩ bàn, nghĩa là tất cả pháp như huyễn như mộng, chẳng có chẳng không, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy. Người chấp vào ngôn ngữ thì chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Khả Xứng trí.

Đại Thừa Quảng tríBình Đẳng Tánh trí. Trí này rộng lớn, không đồng với Tiểu thừa. Vì vô ngã, cho nên đều là ngã; vì đều là ngã, nên đều bình đẳng nhiếp thọ. Do trí lực đồng thể, nên chuyên chở khắp tất cả chúng sinh mà đưa đến Vô Thượng Bồ-đề, cho nên gọi là Đại Thừa Quảng trí.

Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí chínhĐại Viên Cảnh trí của Như Lai, trước chuyển bổn thức, sau trở về nguồn tâm. Chiếu soi tất cả nên gọi là Đại Viên Cảnh trí. Trong trí này có năm thù thắng:

1. Vô đẳng: như Giải thoát thân thì Nhị thừa cùng được, còn Đại Viên Cảnh trí chính là Pháp thân, Nhị thừa chẳng thể được.

2. Vô luân: như ba trí trước, Bồ-tát dần dần chứng đắc, còn Đại Viên Cảnh trí chỉ có Phật mới chứng, không ai sánh bằng.

3. Tối: vượt hẳn Bất Tư Nghị trí.

4. Thượng: hơn hẳn Bất Khả Xứng trí

5. Thắng: rộng lớn hơn Đại Thừa Quảng trí.

Do năm thù thắng này, cho nên gọi là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí.

Đây là trình bày bốn cảnh nghi do mê muội.

* Thứ hai, trình bày về phương pháp đối trị nghi hoặc. Như có người tâm không ngay thẳng, tà kiến ngã mạn, tâm đạo cạn mỏng, không hiểu bốn trí mà khởi bốn nghi.

Một là nghi những việc làm của Thành Sở Tác trí. Đó là khi nghe kinh nói: “Người niệm Phật mười niệm thì được sinh về cõi Cực Lạc”, do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng kinh Phật có nói thiện ác nghiệp đạo, tội phước không mất, nếu nặng thì bị trở ngại. Vậy, một người suốt đời làm ác, chỉ nhờ mười niệm, làm sao có thể diệt hết các tội, vãng sinh Cực Lạc, nhập vào chánh định, vĩnh viễn lìa ba đường ác, cuối cùng chứng quả Bất thoái được? Lại nữa, từ vô thỉ đến nay khởi các phiền não, trôi lăn trong ba cõi[1], trói buộc lẫn nhau, nếu không đoạn trừ Nhị luân phiền não[2] thì làm sao chỉ nhờ mười niệm để ra khỏi ba cõi được? Vì muốn diệt trừ mối nghi do tà kiến này, nên nêu ra Bất Tư Nghì trí. Muốn hiển bày trí huệ Phậtsức mạnh rộng lớn, nên lấy gần làm xa, lấy xa làm gần; biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành nặng. Tuy thật có việc này, nhưng không thể suy lường được. Vì thế, chỉ nên một mực tin theo kinh nói, không nên dùng trí thức cạn cợt của mình để suy lường. Như muốn sinh lòng tin, cần phải nhờ vào sự mà diễn đạt, dụ dẫn. Thí như ngàn năm góp chứa củi cao cả trăm thước, nhưng chỉ một ngọn lửa nhỏ thiêu đốt trong một ngày là hết sạch. Vậy đâu thể cho rằng làm sao ngàn năm chứa củi mà có thể thiêu sạch trong một ngày được? Lại nữa, ví như một người què mà tự gắng sức đi, cần phải trải qua nhiều ngày mới được một Do-tuần; còn nếu đi thuyền, nhờ vào sức gió thì trong khoảng một ngày có thể đi đến ngàn dặm. Vậy đâu thể cho rằng làm sao người què mà một ngày đi đến ngàn dặm được? Sức của người lái thuyền ở thế gian còn làm được việc vượt ngoài suy nghĩ như thế, huống gì thần lực của Đức Như Lai Pháp Vương lại không thể làm được việc không thể nghĩ bàn sao? Đây là pháp đối trị mối nghi thứ nhất.

Mối nghi thứ hai là nghi về cảnh sở quán của Diệu Quan Sát trí. Trong kinh khen ngợi trí huệ PhậtDiệu Quan Sát trí. Các pháp chẳng phải có chẳng phải không, xa lìa Nhị biên[3], không chấp Trung đạo[4], do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng: Như nay thấy biết vật nặng thì hạ xuống, vật nhẹ thì cất lên. Nếu như nói nhẹ mà không cất lên, nặng mà không hạ xuống, như thế là vô nghĩa. Pháp do nhân duyên sinh cũng như thế. Nếu thật chẳng phải không thì có, nếu chẳng phải có thì không. Nếu nói chẳng phải không mà không rơi vào có, chẳng phải có mà không rơi vào không, thì cũng giống như nặng mà không hạ xuống, nhẹ mà không cất lên mà thôi. Cho nên, phải biết thuyết này có lời mà không thật. Tính lường như thế tức rơi vào biên kiến. Hoặc chấp Y Tha Khởi là thật có thì rơi vào Tăng ích; hoặc chấp Duyên sinh hoàn toàn không thì rơi vào Tổn giảm[5]; hoặc cho rằng Tục đế là có, Chân đế là không, chấp vào Nhị biên thì rơi vào Tương vi luận; hoặc cho rằng các pháp chẳng có chẳng không, chấp vào Nhất trung thì rơi vào Ngu si luận. Thích Luận[6] chép: “Chẳng có chẳng không là Ngu si luận. Để đối trị kiến chấp sai trái này, cho nên thiết lập Bất Khả Xứng trí, đồng thời hiển bày các pháp rất sâu xa, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy, không thể suy nghĩ tính lường, theo lời mà hiểu nghĩa”. Như luận Du-già nói: “Thế nào là các pháp sâu kín khó thấy? Đó là tất cả pháp. Vì sao? Vì pháp sâu kín khó thấy bậc nhất là tự tánh của các pháp. Tự tánh này là bặt hý luận, vượt ngôn ngữ. Nhưng nhờ ngôn ngữ làm chỗ y cứ, nên mới có thể nắm bắt, có thể nhìn thấy, có thể cảm nhận, cho nên gọi là các pháp sâu kín khó thấy. Đây là pháp đối trị mối nghi thứ hai.

Mối nghi thứ ba là nghi về nghĩa Bình Đẳng Tánh trí là ngang bằng. Như trong kinh nói: “Tất cả chúng sinh đều có tâm thức. Hễ loài có tâm thức thì đều chứng được Bồ-đề”. Do không hiểu nên sinh ra mối nghi mà cho rằng: “Nếu nói chúng sinh đều có Phật tánh, đều được độ hết, đều chứng Vô Thượng Bồ-đề, thế thì chúng sinh tuy nhiều nhưng ắt sẽ hết. Vậy Đức Phật sau cùng không có đức lợi tha, vì không còn chúng sinh để giáo hóa, nên nhất định sẽ không thành Phật, vì công đức bị thiếu sót. Không có công đức giáo hóa thì không hợp với lý đạo. Thiếu khuyết công đứcthành Phật làm gì có lý này!”. Suy nghĩ sai lệch như thế rồi phỉ báng Đại thừa, không tin vào ý bình đẳng được độ. Vì để đối trị mối nghi chấp nhỏ hẹp như thế, cho nên thiết lập Đại Thừa Quảng trí. Muốn trình bày Phật trí rộng lớn, chuyên chở tất cả chúng sinh nhập vào Vô dư, cho nên gọi là Đại thừa. Khả năng chuyên chở của trí này không giới hạn, không bờ mé, cho nên gọi là Quảng trí. Sở dĩ như vậy là vì hư không vô biên, chúng sinh vô số lượng, ba đời không giới hạn, sinh tử không đầu không cuối. Chúng sinh đã không có khởi đầu, không có cuối cùng, thì chư Phật cũng không có khởi đầu, không có cuối cùng. Nếu chư Phật đã có khởi đầu thành tựu thì trước đó không có quả Phật, không có Thánh giáo. Vì không có Thánh giáo cho nên không được nghe pháp để huân tập. Không được nghe pháp để huân tậpthành Phật thì không có nhân mà có quả. Đây là chỉ có lời nói mà không có thật. Từ đạo lý này suy ra thì chư Phật không có khởi đầu. Tuy thật không có khởi đầu, nhưng không có một Đức Phật nào mà vốn không là phàm phu. Tuy là phàm phu, mà liên tục chuyển tiến không có khởi đầu. Từ đây suy ra biết được chúng sinh không có cuối cùng. Tuy thật khôngcuối cùng, nhưng tất cả về sau đều được thành Phật. Tuy hết thảy đều được thành Phật, mà liên tục chuyển tiến không có cuối cùng. Cho nên, cần phải tin Bình Đẳng Tánh trí độ khắp tất cả, không có giới hạn. Do đó, mới lập ra Đại Thừa Quảng trí để đối trị với mối nghi thứ ba này.

Mối nghi thứ tư là nghi về nghĩa Đại Viên Cảnh trí biến chiếu cùng khắp tất cả các cảnh. Nghi rằng: Vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô biên. Vì thế giới vô biên nên chúng sinh cũng vô biên. Vì chúng sinh vô biên nên căn, dục, tánh v.v… đều không bờ mé, thì làm sao có thể biết hết được? Phải chăng nên tu tập dần dần mà biết được, hay do không cần tuđột nhiên chiếu rõ? Nếu không cần tu tập mà đột nhiên chiếu rõ thì tất cả phàm phu đều được chiếu soi như nhau, vì tất cả đều không tu tập, vì không có nhân khác. Nếu thứ lớp tu tập cuối cùng biết được hết thì tất cả cảnh đều có bờ mé, giới hạn. Không bờ mé mà có cùng tận thì thật không đúng với lý vậy! Tiến thoái như vậy đều không thành lập được, làm sao chiếu khắp được mà gọi là Nhất Thiết Chủng trí? Để đối trị lại hai mối nghi này, cho nên lập ra Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Đại Viên Cảnh trí này hơn hẳn ba trí kia, vượt ngoài hai đế, có một không hai, vượt ngoài Hai quan[7], siêu việt cả Vô quan. Chỉ nên tin theo, không thể so lường, cho nên gọi là Tối Thượng Thắng trí.

Tại sao phải khởi lòng tin theo? Thí như thế giới vô biên, không vượt ra ngoài hư không, vạn cảnh không có giới hạn, bao hàm trong một nguồn tâm. Phật trí lìa tướng, quy về nguồn nhất tâm. Trí và nguồn nhất tâm dung hòa nhau không khác. Vì Thỉ giác[8] tức đồng với Bản giác[9], cho nên không có vạn cảnh vượt ngoài trí. Từ đạo lý này suy ra thì trí vô hạn thấu suốt tất cả cảnh, vì vô biên trí chiếu soi vô biên cảnh. Như luận Khởi Tín nói: “Tất cả cảnh giới vốn từ nhất tâm, lìa niệm. Vì chúng sinh vọng thấy cảnh giới, cho nên tâm có phạm vi, giới hạn. Do vọng khởi niệm, không hợp với pháp tánh, cho nên không thể hiểu rõ. Chư Phật Như Lai lìa kiến tướng, không chỗ nào không bao trùm, vì tâm chân thật thì thể tánh của các pháp chiếu soi tất cả pháp vọng, có dụng đại trí, vô lượng phương tiện, tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh mà khai thị tất cả pháp nghĩa. Cho nên được gọi là Nhất Thiết Chủng trí”. Đó là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Vì không có chỗ thấy, nên không có chỗ nào không thấy. Như thế là đối trị mối nghi thứ tư.

Nếu không đạt được ý, theo lời mà hiểu nghĩa, thì Hữu biên hay Vô biên đều là lỗi lầm, hay căn cứ vào nghĩa Phi hữu biên mà giả lập nghĩa Vô biên. Nếu người không giải quyết bốn mối nghi thì tuy có sinh về cõi kia cũng vẫn ở biên địa[10]. Như có người mắt tâm chưa sáng, tuy chưa hiểu rõ cảnh giới của bốn trí nêu trên, mà tự khiêm, ngưỡng cầu Như Lai, một mực tín phục Phật pháp. Những người như thế, tùy phẩm hạnh tu hành của họ mà được sinh về cõi kia, không ở biên địa. Người sinh về biên địa thuộc một loại riêng, chẳng thuộc chín phẩm. Vì thế không nên vọng sinh nghi hoặc.

* Thứ ba, trình bày về điểm hơn và kém của việc hóa sinh[11] và thai sinh về cõi kia.

Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan và Bồ-tát Di-lặc rằng:

- Các ông có thấy cõi nước kia, từ đất lên đến cõi trời Tịnh Cư, các vật trong đó tự nhiên vi diệu, thanh tịnh, trang nghiêm không?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy! – A-nan thưa.

- Các ông có nghe tiếng lớn của Đức Phật Vô Lượng Thọ truyền đi khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sinh chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có nghe!

- Các ông có thấy chúng sinh cõi kia ở trong cung điện bằng bảy báu trăm ngàn do-tuần[12], cúng dường chư Phật khắp mười phương hoàn toàn không chướng ngại chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy!

- Chúng sinh cõi ấy có loài thai sinh, các ông có biết không?

- Bạch Thế Tôn! Có biết!

- Loài thai sinh đó ở trong cung điện, hoặc một trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần. Mỗi chúng sinh ở trong đó đều tự nhiên thọ hưởng khoái lạc giống như trên cõi trời Đao-lợi.

Lúc đó, bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà chúng sinh cõi kia có người thai sinh, có người hóa sinh?

Phật bảo bồ-tát Di-lặc rằng:

- Có những chúng sinh dùng tâm nghi hoặc để tu các công đức, nguyện sinh về cõi đó. Họ không hiểu rõ, lại còn sinh tâm nghi ngờ Phật trí, Bất Tư Nghì trí, Bất Khả Xứng trí, Đại Thừa Quảng trí, Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí, nhưng do tin có tội phước, tu tập các pháp thiện, nguyện sinh về cõi nước đó, nên họ được sinh vào cung điện kia, sống đến năm trăm tuổi, mà vẫn không được thấy Phật, không được nghe kinh pháp, không thấy Bồ-tát, Thanh văn và các Thánh chúng. Vì thế, những chúng sinh sinh trong cõi nước kia được gọi là Thai sinh. Nếu có chúng sinh tin hiểu Phật trí, cho đến Thắng trí, tạo các công đức, phát tín tâm hồi hướng Bồ-đề, thì các chúng sinh này tự nhiên được hóa sinh trong hoa bảy báu, ngồi kiết già, trong khoảng chớp mắt, thân tướng trang nghiêm, thành tựu đầy đủ các công đức, trí huệ giống như Bồ-tát. Lại nữa, bồ-tát Di-lặc! Các bậc đại Bồ-tát ở cõi Phật phương khác khởi tâm muốn được diện kiến, cung kính cúng dường Đức Phật Vô Lượng Thọ và chúng Bồ-tát, Thanh văn. Các Bồ-tát ở cõi ấy sau khi mạng chung cũng được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ, tự nhiên hóa sinh trong hoa bảy báu. Di-lặc nên biết, những người được tự nhiên hóa sinh kia đều có trí huệ tối thắng, còn những người bị thai sinh đều không có trí huệ, suốt năm trăm năm không được gặp Phật, không được nghe kinh pháp, không gặp Bồ-tát và chúng Thanh văn, không được cúng dường chư Phật, không biết pháp thức của Bồ-tát, không được tu tập công đức. Nên biết rằng những người này, trong đời trước do nghi hoặc mà dẫn đến không có trí huệ. Thí như Chuyển Luân Thánh vương có ngục tù bằng bảy báu, mọi thứ đều trang nghiêm, xếp đặt giường mùng, treo các cờ lọng. Nếu các Vương tử phạm tội, liền bị vua cha giam vào trong đó, khóa bằng xích vàng, canh gác nghiêm ngặt, rồi cung cấp món ăn thức uống, y phục chăn mền, đầy đủ các thứ hương hoa kỹ nhạc, sống giống như Chuyển Luân vương không thiếu một vật gì. Ý ông nghĩ sao? Các vị Vương tử này có cam lòng thọ nhận thú vui nơi ấy không?

Bồ-tát Di-lặc đáp rằng:

- Dạ không! Họ chỉ muốn tìm đủ mọi cách, cầu các thế lực để mong được ra khỏi chốn ấy.

Phật bảo bồ-tát Di-lặc:

- Các chúng sinh này lại cũng như thế! Vì nghi hoặc Phật trí mà bị sinh vào cung điện thai sinh bảy báu. Tuy không có hình phạt cũng như không có một niệm ác, nhưng họ có nỗi khổ là trong năm trăm năm không gặp được Tam Bảo, không được cúng dường, tu tập các pháp thiện. Mặc dù có nhiều thú vui, nhưng không vui bằng cõi Phật Vô Lượng Thọ. Nếu chúng sinh này biết được gốc tội xưa của mình, tự mình ăn năn hối cải, cầu vượt ra khỏi chỗ đó, lập tức được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ như ý muốn để cung kính cúng dường, đi khắp vô lượng vô số cõi Phật khác để tu tạo các công đức. Di-lặc nên biết rằng, nếu như có Bồ-tát nào sinh tâm nghi hoặc liền mất đi lợi ích lớn. Do đó, cần phải tin rõ trí huệ vô thượng của chư Phật”. Lời của Như Lai chân thật, nếu nghi ngờ thì sau ăn năn không kịp, cần phải thận trọng!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31300)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10451)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12621)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10732)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16468)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10737)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22765)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11909)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11412)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11096)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9936)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10236)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10610)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9704)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12522)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9606)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10336)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9798)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10980)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11933)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10075)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12446)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9236)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8708)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10417)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9067)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9491)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14656)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10019)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8269)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8882)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9255)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14450)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8663)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10435)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8545)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10078)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8910)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15234)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21210)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10154)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14659)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9426)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18482)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11793)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10608)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9192)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9297)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15719)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant