Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IV: Nhân Duyên Vãng Sanh

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10317)
Chương IV: Nhân Duyên Vãng Sanh

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương IV
Nhân Duyên Vãng Sanh

Các nhân duyên vãng sinh được trình bày không chỉ có thể cảm ứng chánh báo trang nghiêm mà còn cảm được y báo Tịnh độ. Nhưng nhờ vào sức bổn nguyện của Như Lai, tùy cảm mà thọ dụng, chẳng phải được thành tựu nhờ sức nghiệp nhân của mình, cho nên gọi là nhân vãng sinh. Tướng của nhân này kinh luận nói đến không ít. Như kinh Quán Vô Lượng Thọ thì nêu 16 pháp quán, luận Vãng Sinh trình bày năm pháp môn tu hành. Ở đây căn cứ theo kinh Vô Lượng Thọ nêu ra ba bậc nhân.

+ Bậc Thượng, có năm ý:

1. Phương tiện phát khởi chánh nhân: Bỏ nhà thế tục, xuất gia làm Sa-môn.
2. Chánh nhân: Phát tâm Bồ-đề.
3. Tu quán: Chuyên tâm niệm Phật A-di-đà.
4. Khởi hạnh: Tạo các công đức.
Quán và hạnh này là trợ nghiệp.
5. Nguyện: Nguyện sinh về cõi Cực Lạc.

* Bốn ý trước kia là hạnh, ý thứ năm này là nguyện. Hạnh và nguyện dung hợp mới được vãng sinh.

+ Bậc Trung, có hai ý:

1. Chánh nhân: Cũng là hạnh, tuy không thể xuất gia làm Sa-môn, nhưng cần phát tâm Vô Thượng Bồ-đề.

2. Nguyện: Nguyện sinh về cõi Cực Lạc.

* Hạnh và nguyện dung hợp tạo thành nhân vãng sinh.

+ Bậc Hạ: chia ra hai hạng người, mỗi hạng lại có ba ý.

- Hạng thứ nhất: Bất định chủng tánh.

1. Chánh nhân: Giả sử không tạo dựng các công đức, thì phải phát tâm Vô Thượng Bồ-đề.

2. Trợ nhân: Chuyên tâm niệm Đức Phật A-di-đà cho đến mười niệm.

3. Nguyện: Nguyện sinh về cõi Cực Lạc

* Hạnh và nguyện dung hợp tạo thành nhân vãng sinh.

- Hạng thứ hai: Chủng tánh Bồ-tát.

1. Chánh nhân: Nghe pháp sâu xa, hoan hỷ tin thích, nhưng khác với hạng người trên, vì đã phát khởi lòng tin sâu xa.

2. Trợ nhân: Nhất tâm niệm Phật A-di-đà, vì hạng người trên không có lòng tin sâu xa, cho nên cần phải niệm mười niệm. Còn hạng người này đã có lòng tin sâu xa, do đó không cần phải đầy đủ mười niệm.

3. Nguyện: Đem tâm chí thành nguyện sinh về cõi Cực Lạc.

* Hạnh và nguyện dung hợp tạo thành nhân vãng sinh.

Kinh nói như thế, nhưng đoạn văn này trình bày tóm lược tướng của nó, gồm có hai phần là chánh nhân và trợ nhân.

1. Chánh nhân 

Chánh nhân là phát tâm Vô Thượng Bồ-đề, không mong cầu dục lạc thế gian và Bồ-đề của Nhị thừa, mà một mực hướng đến Tam thân Bồ-đề[1], gọi là tâm Vô Thượng Bồ-đề. Tuy nêu chung như thế nhưng trong đó có hai ý: một là tùy sự phát tâm, hai là thuận lý phát tâm.

+ Tùy sự phát tâm:

- Nguyện đoạn hết thảy phiền não.

- Nguyện tu vô lượng pháp lành.

- Nguyện độ tất cả chúng sinh.

Nguyện thứ nhất là Chánh nhân Đoạn đức của Như Lai; nguyện thứ hai là Chánh nhân Trí đức của Như Lai; nguyện thứ ba là Chánh nhân Ân đức của Như Lai. Ba đức này hợp lại tạo thành Vô Thượng Bồ-đề. Tức ba tâm nầy đều là nhân Vô Thượng Bồ-đề, tuy nhân quả có khác, nhưng tâm lượng rộng lớn như nhau, bình đẳng, bao trùm khắp tất cả.

Như kinh chép:

Mới phát tâmcuối cùng đều không khác

Hai tâm như thế, tâm ban đầu khó

Tự mình chưa độ, trước độ người

Nên ta kính lễ tâm ban đầu!

Quả của tâm này tuy là Bồ-đề, nhưng thật ra là Hoa báo[2] ở Tịnh độ. Sở dĩ như thế là vì lượng Bồ-đề tâm rộng lớn vô biên, lâu dài vô hạn, cho nên có thể cảm ứng được y báo Tịnh độ rộng lớn không bờ mé, chánh báo thọ mạng lâu dài vô hạn, nên ngoài tâm Bồ-đề ra không có tâm nào có thể sánh nổi. Cho nên nói tâm này là chánh nhân của cõi kia.

+ Thuận lý phát tâm là:

Tin hiểu các pháp đều như mộng huyễn, chẳng có chẳng không, lìa nói năng, bặt suy nghĩ. Nương theo tâm tin hiểu này mà phát tâm rộng lớn, tuy không thấy có phiền não, pháp lành, nhưng không thể không đoạn, không thể không tu. Cho nên, tuy nguyện đoạn trừ và tu tập, nhưng không trái với Vô nguyện Tam-muội. Tuy nguyện độ hết vô lượng hữu tình, nhưng không chấp có người độ và kẻ được độ, cho nên có thể tùy thuận không, vô tướng. Như kinh chép: “Vô lượng chúng sinh diệt độ như thế, nhưng thật ra không có chúng sinh nào được diệt độ”. Phát tâm như thế thì không thể nghĩ bàn.

Tùy sự phát tâmthoái chuyển, nên hạng người thuộc Bất định chủng tánh cũng có thể phát tâm được. Còn thuận lý phát tâm tức không thoái chuyển, nên hàng Bồ-tát Chủng tánh mới có khả năng phát tâm được. Phát tâm như thế thì công đức vô biên. Chư Phật diễn thuyết có thể cùng tận, nhưng công đức phát tâm ấy vẫn không cùng.

2. Trợ nhân

Trợ nhân có nhiều loại, được nói rất nhiều trong kinh luận, không cần phải trình bày chi tiết cũng có thể biết được. Ở đây chỉ trình bày về mười niệm vãng sinh của bậc hạ mà thôi. Mười niệm của bậc hạ trong kinh này là trong một lời bao gồm hai nghĩa, đó là nghĩa hiễn liễu và nghĩa ẩn mật.

+ Ẩn mật là căn cứ theo quả báo thuần Tịnh độ để trình bày công đức mười niệm của bậc hạ. Như trong kinh Di-lặc Sở Vấn ghi:

“Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: “Công đức lợi ích của Đức Phật A-di-đà như đức Thế Tôn đã nói, nếu như người niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà mười niệm liên tục không gián đoạn liền được vãng sinh, thì nên niệm như thế nào?”.

Phật dạy: “Chẳng phải niệm phàm phu, chẳng phải niệm bất thiện, chẳng xen niệm kết sử, niệm như thế liền được sinh về cõi nước an ổn. Mười niệm:

1. Đối với tất cả chúng sinh, không hủy hạnh từ, nếu hủy hạnh từ thì hoàn toàn không được vãng sinh.

2. Phát khởi sâu lòng bi đối với tất cả chúng sinh để trừ tâm tàn hại.

3. Phát khởi tâm hộ trì Phật pháp, không thương tiếc thân mạng, không sinh lòng chê bai nhạo báng tất cả giáo pháp.

4. Trong pháp nhẫn nhục sinh lòng quyết định.

5. Tận đáy lòng thanh tịnh không tham lam lợi dưỡng.

6. Phát khởi tâm Nhất Thiết Chủng Trí, ngày ngày thường nhớ nghĩ, không xao lãng.

7. Khởi lòng tôn trọng tất cả chúng sinh, trừ diệt tâm ngã mạn, nói lời khiêm hạ.

8. Không đắm trước lời lẽ thế gian

9. Tu tập Giác chi[3], phát khởi sâu nhân duyên thiện căn, xa lìa tâm lăng xăng tán loạn.

10. Chánh niệm quán Phật, diệt trừ các tâm nghi hoặc”.

Giải thích: Mười niệm này không có ở phàm phu, mà chỉ có ở hàng Bồ-tát từ Sơ địa trở lên. Ở trong cõi thuần tịnh là nhân của bậc hạ. Đó là mười niệm của nghĩa ẩn mật.

Nói tướng mười niệm của nghĩa hiển liễu là nói theo Tịnh độ, như trong Quán Kinh chép: “Hàng Hạ phẩm Hạ sinh, hầu hết là những chúng sinh tạo các nghiệp bất thiện, Ngũ nghịch, Thập ác, đến khi mạng chung gặp được Thiện tri thức giảng thuyết diệu pháp cho nghe, hướng dẫn niệm Phật, nếu không thể niệm được, nên xưng niệm Vô Lượng Thọ Phật thì trong mỗi mỗi niệm đều diệt trừ được tội sinh tử trong 80 ức kiếp, sau khi mạng chung liền được vãng sinh…”.

Những tâm nào gọi là chí tâm? Tại sao gọi là mười niệm tương tục? Ngài La-thập giải thích rằng: Thí như có người ở giữa đồng hoang gặp bọn giặc ác, vung đao xông thẳng đến giết hại, người kia bỏ chạy, lại phải vượt qua một con sông. Bấy giờ, người kia chỉ nghĩ đến cách vượt qua sông, đã đến bờ sông, hoặc là mặc áo vượt qua, hoặc là cởi áo vượt qua? Nếu vẫn mặc áo thì e rằng không vượt qua được; nếu cởi áo thì sợ không kịp, chỉ có nghĩ đến việc này, hoàn toàn không nhớ nghĩ việc gì khác. Ngay khi nhớ nghĩ việc vượt sông đó tức là nhất tâm. Hành giả cũng như thế, trong mười niệm này không xen niệm nào khác, hoặc niệm danh hiệu Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật liên tục không gián đoạn, cho đến mười niệm, chí tâm như thế gọi là mười niệm. Đó là tướng mười niệm của nghĩa hiễn liễu. Kinh này tuy nói mười niệm, cũng chính là hai nghĩa hiễn liễu và ẩn mật, nhưng trong đó, mười niệm của nghĩa hiễn liễu có một số điểm khác với Quán Kinh.

Trong Quán Kinh nói: Không trừ Ngũ nghịch, chỉ trừ tội phỉ báng kinh Đại thừa.

Kinh này nói: Trừ tội Ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp, trái ngược nhau như vậy làm sao dung thông?

Quán Kinh nói: Tuy họ tạo tội Ngũ nghịch, nhưng căn cứ theo giáo lý Đại thừa thì được sám hối. Còn kinh này nói là không được sám hối. Do nghĩa này cho nên không trái ngược nhau. Hoặc có thuyết nói mười niệm trong kinh Di-lặc Sở Vấn là chẳng phải nói theo cõi thuần tịnh, như thế thì cũng giống như trong Quán Kinh.

Đối với Tịnh độ, sở dĩ như vậy là vì mười niệm đó tuy chẳng phải niệm phàm phu, nhưng thật ra đó là tâm từ bi bình đẳng được Bồ-tát hàng Tam Hiền, Thập tín tu tập. Cho nên, hội Phát Thắng Chí Lạc trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Bấy giờ, bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói, công đức lợi ích của Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc rằng: “Nếu có chúng sinh nào phát mười loại tâm, tùy theo mỗi tâm mà chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, thì người đó sau khi mạng chung liền được sinh về thế giới của Phật kia”. Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phát mười loại tâm? Do tâm này mà sẽø được sinh về thế giới của Phật kia?”.

Phật bảo bồ-tát Di-lặc rằng: “Này Di-lặc! Mười tâm như thế, hàng phàm ngu, trượng phu bất thiện đầy dẫy phiền não thì không thể phát được. Mười tâm đó là:

1. Tâm không làm tổn hại chúng sinh, đối với chúng sinh khởi lòng đại từ.

2. Tâm không bức hại, khởi lòng đại bi đối với chúng sinh.

3. Tâm vui vẻ giữ gìn, bảo vệ chánh Pháp của Phật không tiếc thân mạng.

4. Tâm không chấp trước, phát khởi lòng thắng nhẫn đối với tất cả pháp.

5. Tâm tịnh ý lạc, tức xa lìa pháp thế gian tạp nhiễm, không tham đắm lợi dưỡng, thường sinh tâm biết đủ.

6. Tâm mong cầu chủng trí Phật, không bao giờ xao lãng quên mất.

7. Tâm tôn trọng cung kính, không khinh miệt tất cả chúng sinh.

8. Tâm quyết định đối với Bồ-đề phần, không đam mê bàn chuyện thế gian.

9. Tâm thanh tịnh không tạp nhiễm, gieo trồng thiện căn.

10. Đối với Như Lai, khởi tâm tùy niệm, lìa bỏ các tướng.

Này Di-lặc! Đó gọi là Bồ-tát phát khởi mười loại tâm. Do nhờ tâm này mà được sinh về thế giới của Phật kia. Nếu không được vãng sinh thì thật là vô lý!”.

Giải thích: Kinh này và kinh Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn đều cùng một bản Phạn, nhưng khác người dịch. Câu: “Hàng phàm ngu, trượng phu bất thiện đầy dẫy phiền não thì không thể phát tâm Bồ-đề được”, nghĩa là hàng Nhất-xiển-đề không có Phật tánh. Ngu là hàng Chủng tánh Nhị thừa nhập diệt, còn kẻ phỉ báng chánh pháp, tạo tội Ngũ nghịch gọi là bất thiện sĩ đầy dẫy phiền não. Trừ những hạng người này ra, còn lại đều thành tựu nhất tâm, được vãng sinh cõi kia, là hoàn toàn đúng! Do đó, nên biết rằng, nói: “Mười niệm chẳng phải niệm phàm phu v.v…”, đâu chỉ mười niệm của hàng Bồ-tát Địa thượng tu tập. Nếu không như thế thì hàng Bồ-tát Địa tiền nào không từ bi, há chẳng được vãng sinh ư? Như trong Quán Kinh nói người tu tập 16 pháp quán[4] được sinh về cõi Cực Lạc, được nói rộng trong phần chín phẩm vãng sinh sẽ trình bày ở mục kế tiếp. Còn luận Vãng Sinh thì nêu ra năm nhân hạnh. Luận ấy nói: “Thiện nam tín nữ, tu tập thành tựu năm Niệm môn, rốt ráo sẽ được sinh về cõi An Lạc, được gặp Phật A-di-đà”.

Năm niệm môn:

1. Lễ bái môn: thân lễ lạy Phật A-di-đà Ứng Chánh Biến Tri, vì muốn được sinh về cõi Cực Lạc.

2. Tán thán môn: miệng khen ngợi xưng tán danh hiệucông đức trí huệ của Phật A-di-đà, vì muốn như thật tu hành pháp tương ưng.

3. Phát nguyện môn: tâm thường lập thệ nguyện, nhất tâm chuyên niệm, để cuối cùng được sinh về cõi nước An Lạc, muốn như thật tu hành pháp Xa-ma-tha.

4. Quán sát môn: dùng trí huệ quán sát, chánh niệm quán Đức Phật kia, muốn như thật tu hành pháp Tỳ-bà-xá-na: Một là quán công đức của cõi Phật; hai là quán công đức của Đức Phật; ba là quán công đức trang nghiêm của Bồ-tát.

5. Hồi hướng môn: không xả bỏ chúng sinh khổ não, tâm thường lập nguyện, lấy hồi hướng làm đầu, để thành tựu tâm Đại bi.

 
Giải thích Pháp số

[1] Tam thân Bồ-đề: ba thân của chư Phật: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân. Thân nghĩa là nhóm họp, nhóm họp các pháp mà thành thân, cho nên sự nhóm họp về lý pháp gọi là Pháp thân; sự nhóm họp về trí pháp gọi là Báo thân; sự nhóm họp các pháp công đức gọi là Ứng thân.

Tên gọi và sự giải thích về ba thân trong các kinh luận đều khác nhau (xem TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4191).

[2] Hoa báo: hoa nở trước khi kết trái. Chúng sinh trồng nghiệp nhân thiện hoặc ác, quả có được từ nghiệp nhân này là Quả báo (cũng gọi là Thật báo, Chánh báo), còn cái có trước quả báo thì gọi là Hoa báo. Như lấy Bất sát làm nghiệp nhân, nhờ vào nghiệp nhân Bất sát mà được sống lâu, đó là Hoa báo; chiêu cảm sâu xa đến quả Niết-bàn, đó là Quả báo. Còn như lấy việc tu thiện, niệm Phật làm nghiệp nhân sinh về thế giới Cực LạcHoa báo; về sau chứng Đại Bồ-đềQuả báo (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1835).

[3] Giác chi: những yếu tố đưa đến sự giác ngộ.

Theo nghĩa rộng, “Giác chi” chỉ chung cho 37 phẩm trợ đạo.

Theo nghĩa hẹp thì “Giác chi” chỉ nói trong phạm vi Thất Bồ-đề phần.

Theo luận Đại-tì-bà-sa, q. 96, thêm bốn Thánh chủng vào 37 phẩm trợ đạo, thành ra 41 Bồ-đề phần (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1661).

[4] Mười sáu quán môn: mười sáu pháp quán ghi trong kinh Quán Vô Lượng Thọ giúp cho hành giả niệm Phật được vãng sinh Tây Phương:

1. Quán tướng mặt trời; 2. Quán tướng nước; 3. Quán tướng đất; 4. Quán hàng cây báu; 5. Quán ao báu; 6. Quán lầu gác báu; 7. Quán tòa hoa sen; 8. Quán tượng Phật; 9. Quán tưởng chân thân Phật Vô Lượng Thọ; 10. Quán Bồ-tát Quan Thế Âm đứng hầu Đức Phật A-di-đà; 11. Quán Bồ-tát Đại Thế Chí đang hầu Đức Phật A-di-đà; 12. Quán rộng khắp: Quán tự thân sinh về thế giới Cực Lạc, ngồi kiết già trong hoa sen. Khi hoa sen nở, có 500 tia sáng màu sắc chiếu khắp thân, cho đến Phật, Bồ-tát đầy khắp hư không; 13. Quán tướng xen tạp: Tức quán chân thân Phật, hóa thân Phật, thân lớn, thân nhỏ…; 14. Quán ba phẩm bậc Thượng; 15. Quán ba phẩm bậc Trung; 16. Quán ba phẩm bậc Hạ (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5245, 5246).

[1] Tam giới: ba cõi, gồm Cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.

- Cõi Dục: thế giới của những loài hữu tình còn các tánh dâm dục, tình dục, sắc dục, thực dục.

- Cõi Sắc: thế giới của những loài hữu tình đã xa lìa dâm dụcthực dục của cõi Dục, nhưng vẫn còn Sắc chất thanh tịnh.

- Cõi Vô sắc: thế giới của những loài hữu tình chỉ có thọ, tưởng, hành, thức. Thế giới này không có một thứ gì thuộc về vật chất, cũng không có thân thể, cung điện, cõi nước, chỉ có tâm thức trụ sâu trong thiền định (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4103).

[2] Nhị luân phiền não: 1. Căn bản phiền não: Gồm sáu đại phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; 2. Tùy phiền não: gồm 20 loại phiền não dựa vào căn bản phiền não mà phát sinh như phẫn, hận, phú, não, tật, xan v.v… 

Trong các kinh luận, từ ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau:

I. Theo luận Du-già Sư Địa, q. 55, hai thứ phiền não này là:

1. Căn bản phiền não: chỉ cho Vô minh hoặc. Loại phiền não này là cội rễ sinh ra các phiền não khác, nên gọi là Căn bản phiền não.

2. Tùy phiền não: chỉ cho Kiến hoặcTư hoặc. Loại phiền não này tùy theo các cảnh thuận hoặc nghịch mà khởi ra các phiền não tham, sân, si… nên gọi là Tùy phiền não.

II. Theo luận Đại Trí Độ, q. 7, hai thứ phiền não này là:

1. Nội trước phiền não: Chỉ cho các phiền não do không biết rõ nội tâm nên khởi lên chấp trước như: Thân kiến, biên kiến…

2. Ngoại trước phiền não: chỉ cho các phiền não do không biết rõ ngoại cảnh nên khởi lên tham trước như: Tham, sân, si…

III. Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, q. 8, hai thứ phiền não này là:

1. Tùy miên phiền não: chỉ cho chủng tử vô minh phiền não tiềm phục trong tàng thức, có khả năng sinh ra các vọng hoặc.

2. Hiện hành phiền não: chỉ các phiền não tham, sân, si… do sáu căn tiếp xúc sáu trần cảnh mà hiện khởi (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3334).

[3] Nhị biên: hai cực đoan. Thuyết này, các luận đều giải thích khác nhau:

- Luận Trung Quán, q. 4: nhị biên chỉ có, không hoặc thường, vô thường.

- Luận Thuận Trung, q. hạ: nhị biên chỉ thường, đoạn.

- Luận Nhiếp Đại Thừa do ngài Huyền Tráng dịch, ngài Thế Thân giải thích: nhị biên chỉ cho tăng ích và tổn giảm.

- Chỉ Quán Phụ Hành, q. 3: nhị biên chỉ không và giả (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3284).

[4] Trung đạo: con đường trung chính, lìa bỏ cực đoan, không thiên về bất cứ một bên nào hoặc một quan điểm, một phương thức nào.

Trung đạolập trường căn bản của Phật giáo, được Đại thừa lẫn Tiểu thừa xem trọng, cho nên ý nghĩa của Trung đạo tuy có sâu cạn khác nhau, nhưng các tông đều dùng nghĩa này để biểu thị cho trung tâm giáo lý của mình. Ý nghĩa của Trung đạo gọi là Trung đạo nghĩa, chân lý của Trung đạo gọi là Trung đạo lý. Vì Trung đạo biểu thị cho tướng chân thật của vũ trụ vạn hữu, Trung đạo tức Thật tướng nên gọi là Trung đạo thật tướng (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 5845).

[5] Tăng ích, tổn giảm (Nhị chấp): hai chấp.

- Tăng ích là tình chấp, chấp trước các pháp thật có, thiên về bên hữu.

- Tổn giảm là tình chấp các pháp không có, thiên về bên vô (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3286).

[6] Thích Luận:

1. Thích luận: luận Đại Trí Độ, vì Hiển giáo cho rằng đó là tác phẩm giải thích kinh Đại Phẩm Bát-nhã hoặc là từ gọi tắt của luận Ma-ha Diễn, vì Mật giáo cho đó là sách chú thích luận Đại Thừa Khởi Tín.

2. Thích luận: các bộ luận giải thích kinh điển

3. Thích luận: giải thích văn nghĩa của một bộ kinh (TĐPH-Huệ Quang, t. VI, tr. 5449).

[7] Hai quan (Lưỡng trùng quan): hai lớp kiến giải đối đãi nhau như mê-ngộ, hữu-vô, nhân-quả, phàm-Thánh. Kẻ chấp trước danh tướng, cho mê-ngộ, nhân-quả… đều là hai pháp khác nhau, không dung nhiếp nhau, thành ra hai pháp đối lập nhau. Nếu không còn sự ràng buộc của các kiến chấp này thì sẽ vào được cảnh giới tuyệt đối. Mê-ngộ, nhân-quả chỉ là hai mặt của một pháp, cùng một thể, làm thể dụng lẫn nhau, cho nên dùng Quan (cửa ải) để dụ cho sự chướng ngại của kiến giải này (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2598).

[8] Thỉ giác: sự giác ngộ do trải qua sự tu tập mà có được. Luận Đại Thừa Khởi Tín cho rằng thức A-lại-da có hai nghĩa Giác và Bất giác. Giác lại có Thỉ giác và Bản giác khác nhau. Trong đó, trải qua sự tu tập hậu thiên, dần dần đoạn phá vọng nhiễm từ vô thỉ đến nay, giác biết được nguồn tâm tiên thiên, gọi là Thỉ giác, cũng tức phát tâm tu hành, thứ lớp sinh khởi trí đoạn hoặc, đoạn phá vô minh, trở về bản tánh thanh tịnh của Bản giác. Đại thừa cho rằng tâm người xưa nay lặng lẽ bất động, vô sinh vô diệt, thanh tịnh vô nhiễm, gọi là Bản giác; sau do gió vô minh nổi dậy, sinh ra những hoạt động của ý thức thế tục, từ đó có các thứ sai biệtthế gian, đó gọi là Bất giác; cho đến được nghe Phật pháp, khai phát Bản giác, huân tập bất giác, đồng thời dung hợp thành một với Bản giác, đó gọi là Thỉ giác (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5430).

[9] Bản giác: tánh giác sẵn có, tức bản thể thanh tịnh đầy đủ tướng bình đẳng, lúc nào cũng hàm chứa đức sáng suốt của đại trí huệ, xa lìa những tâm niệm sai biệt của thế tục. Bản tánh của nguồn tâm ấy là giác thể xưa nay thanh tịnh, gọi là Bản giác. Luận Đại Thừa Khởi Tín của Hiển giáo, Luận Thích Ma-ha Diễn của Mật giáogiáo nghĩa của tông Thiên Thai Nhật Bản đều có trình bày ý nghĩa về tư tưởng của Bản giác và Thỉ giác, nhưng ý chính lại khác nhau (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 276).

[10] Biên địa: nơi xa xôi hẻo lánh, những người ở nơi này chẳng được thấy nghe Phật pháp.

Biên địa của Tịnh độ Cực lạc: những người tu các công đức mà còn tâm nghi hoặc, ứng với cơ cảm đó nên sau khi chết, sinh về nơi đây, 500 năm chẳng được thấy nghe Phật pháp (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 518).

[11] Hóa sinh: các loài không do cha mẹ sinh mà chỉ do nghiệp lực sinh, như chúng sinhđịa ngục, chư Thiên, thân trung hữu, loài người trong kiếp sơ, rồng, kim sí điểu… Các loài hóa sinh tuy đầy đủ thân căn nhưng khi chết không để lại xác. Cho nên trong Tứ sinh, loài này cao hơn hết.

Theo luận Câu-xá, q. 9, các loài hóa sinh tùy ưa thích chỗ nào mà thọ sinh chỗ ấy. Theo tông Tịnh độ, chúng sinh sinh về Cực Lạc cũng gọi là Hóa sinh (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1866).

[12] Do-tuần: đơn vị đo độ dài thời xưaẤn Độ. Tiếng Phạn là Yojana, có nghĩa là mang ách, phát xuất từ chữ gốc “Yuj” chỉ đoạn đường con bò mang ách đi một ngày. Theo Đại Đường Tây Vực Kí, q. 2: “Một do-tuần chỉ lộ trình một ngày hành quân của nhà vua”. Có nhiều thuyết khác nhau về cách tính do-tuần:

1. Đổi ra câu-lô-xá: theo phong tục Ấn Độ cũng như phẩm Hiện Nghệ trong kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, q. 4, phẩm Minh Thời Phân Biệt trong kinh Ma-đăng-ca, q. hạ đều cho rằng bốn câu-lô-xá là một do-tuần. Nhưng theo các kinh điển của Phật như Hữu Bộ Tì-nại-da, q. 21, luận Đại Tì-bà-sa, q. 136, luận Câu-xá, q. 12 lại tính tám câu-lô-xá là một do-tuần.

2. Tính theo số đo của Trung Quốc cũng có nhiều thuyết khác nhau: Theo Đại Đường Tây Vực Kí, q. 2, một do-tuần xưa được tính là 20km, theo Ấn Độ tính là 15km, trong Phật giáo tính là 8km; theo Huệ Uyển Âm Hữu Bộ Bách Nhất Yết-ma, q. 3 của Nghĩa Tịnh thì quốc tục Ấn Độ tính là 16km, Phật giáo tính là 6km (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 1115).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19401)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18523)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16021)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29855)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25450)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21595)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17801)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20803)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26303)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33291)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52113)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22855)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23396)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39622)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21780)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22354)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6824)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22703)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69770)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43965)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23040)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35009)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44057)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42877)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44389)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24887)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24346)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39179)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39209)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17242)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18014)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19242)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24193)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19574)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20384)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18280)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18957)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18925)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17461)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19289)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30812)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19173)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20501)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19530)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19751)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29791)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17816)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19378)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19862)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58748)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24393)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23487)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39732)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26692)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40747)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22845)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22905)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21573)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18602)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22573)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21060)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19187)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20916)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20314)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30525)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20173)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17441)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16569)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16839)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14940)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14819)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22839)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16022)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16185)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15236)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26069)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17178)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15772)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19756)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17659)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14666)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14727)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19111)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15100)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17472)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19110)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21799)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22967)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16605)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16457)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16478)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22964)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12724)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29489)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27692)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25884)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18446)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant