Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10999)
Chương VI: Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VI
Luận Về Vãng Sanh Khó Hay Dễ

Gồm hai phần:

- Nói về nơi chốn hơn và kém
- Luận về vãng sinh khó hay dễ

1. Nói về hơn và kém: Nói chung về Thật đức thì làm gì có thua kém, bởi vì đều là Pháp vương thì đều gọi là Thiện Thệ. Báo thân có đủ vạn năng lực, Báo độ có đầy cảnh tốt đẹp, nhưng vì để hóa độ chúng sinh, nên đôi khi ở cõi uế nhiễm có nhiều núi đồi, hầm hố; ở cõi thanh tịnh toàn châu báu. Nhưng nếu luận về nơi chốn thì có hơn kém. Cung trời Đâu-suất thì nương vào hư không, còn cõi Cực Lạc thì đứng yên ổn trên đất. Như thế thì giữa trời và người có sự khác biệt. Nếu căn cứ vào cõi này mà so sánh với cõi kia thì cõi trời ưu việt hơn cõi người. Nếu luận bàn về tịnh và uế thì Đâu-suất là cõi uế, Cực Lạccõi tịnh; nếu phân biệt thô thì hai cõi có 14 điểm khác nhau. Đó là cõi trời Đâu-suất đất đai hạn hẹp, nam nữ sống lẫn lộn nhau, dục nhiễm hiện hành, có lui sụt, thọ 4000 tuổi, nhưng trong đó cũng có hạng người chết yểu. Về thân hình cũng như thế. Lại nữa, tâm luôn phát khởi ba tánh thiện, ác, vô kí. Do đó, nếu tâm duyên theo tánh ác thì sẽ bị đọa địa ngục, có ba thọ khổ, lạc, xả cùng hiện khởi, sáu trần cảnh khiến cho người buông lung. Con trai thì sinh ra từ nơi đầu gối của cha, con gái sinh ra từ đầu gối của mẹ, chỉ cho Bồ-tát là chủ thuyết pháp, có người được chứng Thánh quả, có người không chứng đắc. Còn cõi Tây Phương thì hoàn toàn ngược lại với cõi này. Nếu luận bàn theo nghĩa này thì cõi Tây Phương hơn hẳn.

2. Luận về vãng sinh khó hay dễ: Có thuyết cho rằng Tây Phương dễ sinh về, còn Đâu-suất khó sinh về. Có bảy nghĩa:

1. Cực Lạccõi người nên dễ sinh về. Đâu-suất là cõi trời nên khó sinh về.

2. Cực Lạc chỉ giữ năm giới thì được sinh về. Còn Đâu-suất phải tu đủ mười nghiệp thiện mới được sinh về.

3. Cực Lạc chỉ mười niệm được vãng sinh. Còn Đâu-suất phải tu đầy đủ bố thí, trì giới mới được sinh về.

4. Cực Lạc hoàn toàn nương vào bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà để được vãng sinh. Còn Đâu-suất thì chỉ dựa vào tự lực của mình để sinh về.

5. Cực Lạc có Bồ-tát Quán Thế Âm v.v… đang đến cõi này để khuyến tấn vãng sinh. Còn Đâu-suất thì không có việc này.

6. Cực Lạc được tất cả kinh luận khen ngợi, khuyến khích vãng sinh. Còn Đâu-suất chỉ có một kinh ca ngợi.

7. Xưa nay các bậc Đại đức phần nhiều đều hướng về Cực Lạc, ít ai hướng về Đâu-suất

Từ nghĩa này nên cho rằng Cực Lạc dễ vãng sinh, Đâu-suất khó sinh về.

Có thuyết lại cho rằng Đâu-suất dễ sinh về, còn Cực Lạc khó vãng sinh. Sở dĩ như thế là vì cung trời Tri Túc cùng ở tại cõi này, hàng Đại, Tiểu thừa đều tin nhận, đã là hóa thân, thì nhất định được vãng sinh.

Theo kinh Thượng Sinh, bốn chúng thực hành pháp Lục độ, hàng Bát bộ nghe tên đều hoan hỷ, sám hối nghiệp ác, tu mười điều thiện, hồi hướng nguyện sinh, thì tất cả đều được sinh về cõi Cực Lạc.

Theo Đối Pháp Luận, thì Biệt thời ý thú[1] nghĩa là có người nguyện sinh về cõi Cực Lạc thì được sinh về nhưng ở vào thời điểm khác, giống như mua bán, từ một đồng mà được ngàn đồng, cho nên, kinh nói: “Chẳng phải do nhân duyên thiện căn nhỏ mà được vãng sinh”.

Thiên Thân Luận[2] nói: “Người nữ, người thiếu căn, hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Lại tướng bạch hào của Đức Phật A-di-đà như năm Tu-di, há hàng phàm phu có thể thấy được tướng đó ư? Các nghĩa như thế được minh chứng chẳng phải là ít, cho nên vạn người nguyện sinh về cõi Cực Lạc đều được vãng sinh. Hoặc có thuyết cho rằng lý của hai thuyết trên hoàn toàn không cùng tận. Phàm vãng sinh khó hay dễ, tất cả đều tùy theo nhân duyên. Duyên nghĩa là Đồng thể Đại bi của chư Phật, Bồ-tát. Nhân là khởi nguyện tu hành của chín hạng người trong bốn chúng. Đồng thể Đại bi tuy không hạn cuộc ở nơi người, nhưng vì nghiệp của chúng sinh nên có sự sai khác. Nếu người nghiệp nhân thuần thục thì tùy theo nguyện liền được vãng sinh, chẳng phải vì lẽ trời người mà khó vãng sinh, mà do tịnh uếâ nên có ngăn ngại. Nếu người thiếu nhân nguyện hạnh, ở ngay trước mặt cũng không cảm được, há có thể cùng cõi mà dễ được vãng sinh ư? Lại nhờ hóa thân mà liền được diện kiến Như Lai. Do đó, trong thành Vương Xá hơn ba ức gia đình cùng ở chung mà không nghe đến danh hiệu của Như Lai. Còn trong thành Na-lặc-già, 90 ức người sống xa xôi cách trở như thế mà còn đến chiêm bái tướng sắc vàng của Như Lai, thế thìø biết khởi hạnh của chúng sinh vậy, do lệ thuộc vào thắng duyên mà còn hoặc mất. Hoặc có người tự tánh hệ thuộc A-di-đà, hoặc có người xưa nay hệ thuộc Di-lặc, tùy theo sở thuộc đó mà mỗi mỗi nhanh chóng đạt được đạo. Giả sử không có sự hệ thuộc, thì tốn công nhọc sức mà lợi ích chẳng bao nhiêu. Cho nên, Tỳ-mẫu của Trưởng giả, được La-hầu-la giáo hóa; Thiên tử cõi Phi tưởng, ngộ đạo nhờ Xá-lợi-phất. Thế thì, chuyên tâm vào nơi tôn kính, gắng sức mong cầu Tịnh nghiệp thì việc vãng sinh dễ như trong khoảng khảy móng tay, sao chỉ tranh nhau luận bàn về việc khó dễ? Nếu phát tâm, nhất định không ngại thì sáu việc[3] dễ thực hành, chín phẩm chẳng khó tu, tội nghiệp tuy nhiều, nhưng tiêu tan như ánh mặt trời chiếu soi cõi tối; đường đến tuy tối tăm cách trở, nhưng cũng được thông suốt như ấn vua khai lối tắc. Chỉ vì người học như kẻ “khắc thuyền tìm gươm”[4], như hành giả “ôm cây đợi thỏ”[5], nghi ngờ lời chân thật của tướng lưỡi rộng dài bao trùm ngàn cõi, mà tin nhận tiếng kêu rỗng suông của con ếch nằm đáy giếng mê mờ nhất tâm. Há chẳng phải là hạng người cất giữ sỏi đá, mà ném bỏ trân báu ư? Than ôi! Thật đáng thương thay!

Giải thích pháp số:

[1] Biệt thời ý thú (biệt thời ý, thời tiết ý thú): Như Lai dùng ý thú biệt thời để thuyết pháp, một trong bốn ý thú, nghĩa là lợi íchthời gian khác. Người nào tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo thì quyết định đối với Vô Thượng Bồ-đề không còn lui sụt hoặc người chỉ cần phát nguyện thì liền được vãng sinh cõi Phật An Lạc. Đây là Như Lai vì khuyên nhắc kẻ giải đãi không thích tu hành, nên nói lợi ích lúc khác mà chẳng nói lợi ích ngay lúc này. 

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, q. 6 (Đại 31, 194 trung) ghi: “Người thiện căn giải đãi nhờ tụng trì danh hiệu Phật Đa Bảo mà được tiến lên công đức thượng phẩm”.

Phật nói công đức thượng phẩm là nhằm vào người có hạnh cạn cợt, muốn cho họ bỏ giải đãi, siêng tu hành, chứ chẳng phải do tụng danh hiệu Phật mà được không lui sụt, quyết định đắc Vô Thượng Bồ-đề. Thí dụ từ một đồng tiền vàng do kinh doanh lâu ngày nên sinh ra nghìn đồng tiền vàng, chẳng phải trong một ngày được số tiền vàng đó. Một đồng tiền vàng là nhân sinh ra hàng nghìn đồng tiền vàng.

Ý Như Lai cũng vậy, tụng trì danh hiệu Phật là nhân để chẳng lui sụt Bồ-đề (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 546).

[2] Thiên Thân (Thế Thân): một đại luận sư Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ IV, V, người thành Phú-lâu-sa-phú-la, nước Kiện-đà-la thuộc Bắc Ấn Độ, là con thứ hai của Quốc sư Bà-la-môn Kiều-thi-ca. Lúc đầu, Sư cùng với anh là Vô Trước học Tát-bà-đa bộ (Hữu bộ). Ngài Vô Trước học thẳng vào Đại thừa, ngài Thiên Thân lại đi vào Kinh Lượng bộ, lập chí cải thiện giáo nghĩa Hữu bộ… Lúc đầu, Sư công kích Phật giáo Đại thừa, cho rằng Đại thừa chẳng phải là pháp do Phật nói. Sau nhờ ngài Vô Trước dùng phương tiện khai thị, Sư mới ngộ được lý Đại thừa, chuyển sang tin tưởng, tôn thờ và hoằng dương yếu nghĩa Đại thừa. Sư soạn nhiều luận và sách chú thích, đặt nền tảng cho phái Du-già thuộc Phật giáo Đại thừa. Các tác phẩm quan trọng, gồm hơn 40 loại: Luận Câu-xá (30 quyển), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (15 quyển), Thập Địa Kinh Luận (12 quyển), Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận, Quảng Bách Luận, Luận Bồ-đề Tâm, Duy Thức Tam Thập Luận Tụng, luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-ba-đề-xá… (TĐPH Huệ Quang, t. VI, tr. 5408).

- Thiên Thân Luận (gọi đủ là Thiên Thân Nhiếp Luận, Thế Thân Nhiếp Luận): một trong năm bộ Nhiếp Luận. Đó là bộ luận do ngài Thế Thân biên soạn để giải thích bộ Nhiếp Luận của ngài Vô Trước. Bộ Luận này có ba bản dịch: Bản dịch của ngài Chân Đế đời Trần, gồm 15 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích; bản dịch của ngài Cấp-đa đời Tùy, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Thích Luận; bản dịch của ngài Huyền Trang đời Đường, gồm 10 quyển, gọi là Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (TĐĐPB).

[3]Sáu việc (Lục sự pháp): theo Quán Di-lặc Thượng Sinh Đâu-suất Thiên Kinh Tán, q. hạ, tr. 295b ghi:

1. Tinh tấn tu tập, gieo trồng phước nghiệp trong ba ruộng Kính, Ân, Bi.

2. Giữ gìn oai nghi và các giới nghiêm mật, hành trì các quy tắc một cách tự tại.

3. Siêng năng quét dọn chùa tháp, trang nghiêm đạo tràng đúng theo giáo pháp chế định.

4. Cúng dường hương hoa, tùy nghi cung cấp những vật dụng trong bốn việc ẩm thực, y phục, phòng xá, y dược…

5. Phàm phu hành trì nhập định Tam-muội hữu lậu, bậc Thánh nhập định vô lậu tùy theo đó mà đắc thiền.

6. Đọc tụng kinh điển, diễn thuyết tu tập 10 pháp hành v.v…

[4] Khắc chu cầu kiếm (Khắc chu nhân): chuyện khắc chu cầu kiếm trong thiên Sát Kiếm của Lã Thị Xuân Thu. Chuyện ghi: “Có một người qua sông, vô ý đánh rơi kiếm xuống sông. Người ấy vội vã khắc lên thuyền để đánh dấu chỗ kiếm rơi. Thuyền đã đi đến nơi khác rồi mà người kia vẫn theo dấu khắc ấy lặn xuống sông tìm kiếm. Kết quả tìm hoài chẳng được”.

Trong Thiền tông dùng từ ngữ này để chỉ cho người học ngu si chấp trước, thiếu sự linh hoạt đối với cơ pháp của bậc thầy (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2276).

[5] Thủ chu đãi thố (ôm cây đợi thỏ): Truyền thuyết kể rằng thời Chiến Quốc, ở nước Tống có một người nông dân thấy một con thỏ đâm đầu phải gốc cây mà chết, anh ta bèn bỏ cả việc cày bừa ngồi ôm gốc cây để chờ con thỏ khác lại đâm đầu vào gốc cây ấy nữa (Từ điển Hán-Việt, VNNH, Phan Văn Các chủ biên, Nxb Tp. HCM, 2001, tr. 1309).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31672)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10532)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12759)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10821)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22969)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11497)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10688)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11199)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10026)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10333)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11922)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9817)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11276)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13846)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9582)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10558)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10326)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9907)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10147)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8772)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14527)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8782)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12556)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10427)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10562)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8807)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10520)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9196)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10218)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9417)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9021)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8354)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8953)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8744)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9371)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14602)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9041)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8777)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9050)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11030)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9472)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8005)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9271)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9584)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26049)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10636)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9535)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9274)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9387)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant