Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10365)
Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VII
Nêu Ra Nghi Để Trừ Nghi

Hỏi: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích nêu ra thuyết Biệt thời ý, há chẳng phải là phá trừ nghi sao?

Đáp: Luận kia trình bày có Biệt thời và chẳng phải Biệt thời. Nếu chỉ phát nguyện thì đó là Biệt thời. Nếu hạnh nguyện gồm tu thì chẳng phải Biệt thời.

Như Bồ-tát Thiên Thân phán định hạnh mười niệm là Biệt thời ý, vì sao lại tạo ra bộ luận Vãng Sinh để khuyên người vãng sinh? Lại nữa, nguyên nhân phát khởi giáo lý Quán Kinh là do bà Vi-đề-hy sinh ra nghịch tử là Vương tử A-xà-thế, nhân đó mà bà nhàm chán cõi Ngũ trược, nguyện sinh về cõi Cực Lạc. Đức Phật liền giảng ba phước nghiệp[1] và 16 quán môn cho bà nghe, đồng thời khuyên chúng sinh vãng sinh, cho đến những người tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác cũng được khuyên vãng sinh. Bà Vi-đề-hy là người thỉnh Đức Phật giảng về Tịnh độ, thân ở trong Ngũ trược mà lại sinh nghịch tử, Đức Phật cho rằng đều được vãng sinh. Ngay đó mà biết phàm phu hiện ở trong cõi Ngũ trược, nhưng vẫn được vãng sinh.

*

Hỏi: Vi-đề-hy là vị Bồ-tát, vì độ chúng sinh, nên hiện thân người nữ, nhưng lại sinh người con nghịch tử, lẽ nào thật là phàm phu ư?

Đáp: Giả sử thật là Bồ-tát thị hiện, thọ thân người nữ giáo hóa chúng sinh, ắt phải ẩn giấu năng lực thật có của mình, biểu hiện đồng với phàm phu, để nhiếp hóa đồng loại. Tức hiện đồng với phàm phu, thân ở trong cõi Ngũ trược, thường biết rõ những thống khổ của họ để dẫn dắt vãng sinh Cực Lạc.

Nhiếp Luận chép: “Vì chỉ phát nguyện là Biệt thời, cho nên biết tu Ba phước nghiệp, Mười sáu quán môn, bảy ngày niệm Phật đâu phải là Biệt thời”.

Hỏi: Như luận Vãng Sinh nói: “Người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Tại sao ở đây lại nói cả ba hạng người đó đều được vãng sinh?

Đáp: Theo lý thì thật đúng như vậy, nếu không có chủng (hạt giống) thì nhất định không được vãng sinh. Nói chánh chủng: Là ở trong cõi này, hoặc có chủng tánh người nam hay chủng tánh người nữ, nếu có nhân người nữ thì nhất định chiêu cảm nữ căn, người này giả sửtu tập hạnh Tịnh độ cũng không được vãng sinh. Vì trong Tịnh độ không có người nữ. Đây là định nghiệp, chính là nghiệp chướng, không thể gắng được. Hạng người thiếu căn như đui, điếc v.v… cũng như thế. Nếu có ăn năn, trừ bỏ thì không sinh vào những hạng người đó. Hàng Nhị thừa do gieo nhân Nhị thừa, không tin Đại thừaTịnh độ trong mười phương nên cũng không được vãng sinh. Từ “Chủng” được trình bày trong luận chính là Định nghiệp chủng.

Hỏi: Nếu như thế, tại sao Quán Kinh lại nói: “Thọ trì ngũ giới thì được vãng sinh, nghe giảng về Tứ đế thì chứng được quả A-la-hán v.v…”?

Đáp: Theo luận Trí Độ, đây chẳng phải là hạng Ngu pháp[2]. Họ tin có chư Phật trong mười phương và có Tịnh độ để phát nguyện vãng sinh, nếu chứng quả A-la-hán rồi thì Phật sẽ giảng kinh Pháp Hoa cho họ nghe, đồng thời khuyên họ phát tâm hồi hướng về Đại thừa.

Hỏi: Chúng sinh nghiệp ác rất nặng, chướng ngại Tịnh độ, một chút thiện nhỏ thì không thể trừ được ác nghiệp. Vì sao trong Quán Kinh lại nói: “Khi lâm chung niệm mười niệm thì được vãng sinh?”.

Đáp: Tâm là chủ của nghiệp, là nguồn gốc để thọ sinh. Lúc lâm chung, tâm giống như con mắt, có thể dẫn dắt tất cả nghiệp. Nếu lúc lâm chung, tâm nghĩ ác thì dẫn dắt các nghiệp ác, nếu tâm nghĩ thiện thì dẫn dắt các nghiệp thiện. Giống như rồng đi đến đâu thì mây tụ tập theo đến đó. Nếu tâm hướng về Tây Phương thì nghiệp cũng theo tâm đến đó.

*

Hỏi: Trong kinh Di-lặc Sở Vấn, khi luận về mười niệm có ghi: “Chẳng phải niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử”. Ở đây, hết thảy chúng sinh đều là phàm phu, kết sử chưa đoạn trừ thì làm sao niệm Phật mà được vãng sinh?

Đáp: Như kinh kia nói thì chỉ có mình Phật được vãng sinh, chúng sinh khác không được vãng sinh, vì hàng Bồ-tát Thập địa tâm sau cùng vẫn có hai loại vô minh. Ở đây giải thích rằng: Niệm phàm phu, là nếu người không phát tâm Bồ-đề, mong cầu ra khỏi ba cõi để thành Phật mà chỉ niệm Phật cầu vãng sinh, như thế thì đó chính là niệm phàm phu, người đó hoàn toàn không được vãng sinh. Do đó, cần phải phát tâm Bồ-đề. Chẳng xen niệm kết sử, tức là chỉ cần nhất tâm liên tục, quán tướng hảo của Phật, nếu miệng niệm Phậttâm duyên theo năm dục thì đó là xen niệm kết sử. Niệm Phật là tâm phải thuần tịnh, ngược lại với kết sử.

*

Hỏi: Chúng sinh chứa nghiệp ác nhiều như núi, làm sao mười niệm có thể diệt trừ được? Giả sử có biến ra trăm ngàn vạn cũng còn rất ít, nếu như không trừ sạch nghiệp ác thì làm sao được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Có ba nghĩa:

1. Nếu người lúc lâm chungchánh niệm hiện tiền, thì tâm ấy có thể dẫn dắt nghiệp thiện được tạo ra từ vô thỉ, cho đến nghiệp thiện ngay trong đời này đồng thời tương trợ liền được vãng sinh.

2. Danh hiệu của chư Phật đều được thành tựu từ muôn vạn công đức, cho nên nếu người chỉ có thể niệm được một niệm danh hiệu Phật thì ngay trong niệm đã niệm muôn vạn công đức, thì diệt được tội nghiệp. Nghiệp ác làm ngăn ngại việc vãng sinh, nay nghiệp ác đã được trừ diệt rồi thì còn quan hệ gì nữa? Cho nên trong phần Hạ phẩm vãng sinh có nói: “Do nhờ niệm danh hiệu Phật mà trong mỗi mỗi niệm trừ được tội lỗi sinh tử trong 80 ức kiếp”.

3. Nghiệp ác từ vô thỉ đều do vọng tâm sinh khởi, công đức niệm Phật từ Chân tâm sinh khởi. Chân tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối, chân tâm hiện khởi thì vọng tâm liền tiêu trừ, như mặt trời vừa xuất hiện thì bóng tối liền tiêu tan. Do ba nghĩa này, nên nói người nào lúc lâm chungthành tựu mười niệm thì nhất định được vãng sinh!

*

Hỏi: Tịnh độ thù thắng vi diệu, là Liên Hoa Bảo Tạng, chỗ cư ngụ của đấng Pháp vương, chẳng phải là chỗ của phàm phu tu hành. Đúng ra phàm phu thì tu hành ở đất phàm phu, bậc Thánh thì giáo hóađạo tràng của bậc Thánh, lẽ nào hạng phàm phu thấp kém mà lại được sinh vào chỗ vi diệu này?

Đáp: Hễ là hạng phàm phu thì không được dạo chơi nơi cõi thanh tịnh, đã là đấng Pháp vương sao lại đi vào cõi Ngũ trược. Mặc dù là đấng Pháp vương, nhưng vì muốn giáo hóa chúng sinh nên đi vào cõi Ngũ trược? Mặc dù là phàm phu, vì muốn cúng dường chư Phật mà sinh vào cõi thanh tịnh. Lại nữa, Đức Phật A-di-đà phát 48 lời nguyện lớn, trước hết là vì tất cả hàng phàm phu, sau đó thêm bậc Thánh của Tam thừa, cho nên biết tông chỉ của Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, còn bậc Thánh chỉ là phụ. Lại nữa, hàng Bồ-tát Thập giải trở lên, không lo sợ sinh vào đường ác, cho nên có thể không nguyện sinh về Tịnh độ. Do đó biết tông chỉ sâu xa của pháp môn Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, chẳng phải cho hàng Bồ-tát.

*

Hỏi: Gặp được thiện duyên, dự vào chín phẩm, thường xem văn nghĩa, lìa bỏ được tâm sân. Nếu như có những người ác, không biết tu thiện, sau khi chết bị rơi vào ba đường ác, thì có thể dùng phương tiện cứu vong linh, trừ nghiệp chướng để sinh về Cực Lạc được không?

Đáp: Chúng sinh ngu si khó thông đạt, thì Thánh giáo có diệu thuật cứu giúp. Cho nên phẩm Quán Đảnh Chân Ngôn Thành Tựu, kinh Bất Không Quyên Tác Thần Biến Chân Ngôn, quyển 28 chép: “Bấy giờ, các cõi nước trong mười phương, tất cả Như Lai trong ba đời và đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng lúc duỗi cánh tay vô úy bên phải, xoa đảnh vua Thanh Tịnh Liên Hoa Minh, đồng thời cùng thuyết Bất Không Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn rằng:

“Án a mộ già giáp oa phế lỗ giả nã ma ha mẫu nại la ma nĩ bát đầu ma nhập phược la bả la miệt đả dã hồng”.

Nếu có chúng sinh nào ở bất cứ nơi đâu mà nghe được Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn này từ hai, ba cho đến bảy biến thì liền trừ diệt được tất cả tội chướng. Nếu có chúng sinh nào gây ra các thứ tội Thập ác, Ngũ nghịch, Tứ trọng nhiều như cát bụi, đầy khắp thế giới này, đến khi thân hoại mạng chung, bị rơi vào đường ác, nên đem chân ngôn này gia trì vào trong cát sỏi 108 biến, rồi vào trong Thi-đà lâm[3], rải trên hài cốt của người chết, hoặc rải trên mộ. Những vong linh ấy hoặc đã bị đọa trong địa ngục, trong ngạ quỷ, trong A-tu-la hay trong bàng sinh, nhưng nhờ bổn nguyện chân thật của Nhất Thiết Bất Không Như Lai, và Bất Không Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng với sức gia trì của thần chú Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn trong cát, tức thời liền được ánh hào quang chiếu đến thân, nhân đó trừ được các tội báo, bỏ được thân thống khổ, sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc, hóa sinh trong hoa sen, cho đến khi chứng được Bồ-đề, vĩnh viễn không bị đọa lạc. Các kinh văn như thế phổ biến khắp nơi.

Tiếc thay! Nghiệp ác tự mình tạo thì chiêu cảm quả khổ như bóng theo hình. Xót thay! Nguy khốn chỉ mình ta, không có ai cứu giúp. Nếu chẳng có tâm đồng thể đại bi[4], bí thuật hoằng tế thì sao có thể từ xa mà mở cửa u đồ, để được lên đài sen. Tuy không có lý người khác làm mà ta thọ nhận, nhưng có sức duyên khởi không thể nghĩ bàn. Thế mới biết nhờ gặp cát đã được gia trì thần chú, tức là có duyên, nếu không gặp được cát sỏi đó, đâu thể có thể nói đến kỳ hạn giải thoát.

Sức đại bi cùng khắp, lời chân thật chẳng hư dối mà không tin nhận, không thực hành thì về sau ăn năn không kịp! Thế thì, người không tin nhận, luống phụ ân sâu dày, ngày báo đáp càng xa vời. Người tin nhận thực hành theo, tiếp dẫn hồn về hoa sen, hạnh hiếu thuận được lập, may gặp được chân ngôn, khiến dễ dàng giải thoát. Phàm trăm người quân tử, không ai mà không phụng hành. Việc rải cát trên mộ mà còn vượt qua ba cõi, huống gì thân được mặc áo gia trì thần chú, tai được nghe tiếng tụng chú!

Xuân Bính Tuất, PL. 2550 (2006)

Thích Giác Chính cẩn dịch
(Tu vien Hue Quang)

 
Giải thích pháp số:

[1] Ba Phước Nghiệp (Tam chủng tịnh phước, Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân Tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập 10 nghiệp lành.

2. Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4079).

[2] Ngu pháp: hàng Tiểu thừa Ngu pháp và hàng Tiểu thừa Bất ngu pháp.

Tiểu thừa Ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác ngu về lý pháp không của Đại thừa. Vì hàng Nhị thừa này chỉ chứng sinh không, chấp chặt pháp có, không biết về chân lý Nhị không của Đại thừa, nên bị chê là Ngu pháp.

Tiểu thừa bất ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác vừa chứng được lý Tiểu thừa, vừa hiểu được lý Đại thừa. Tuy cùng là Tiểu thừa nhưng tâm hiểu biết có hơn kém khác nhau. Do họ có thể hồi chuyển tâm Tiểu thừa hướng về Đại thừa, nên còn gọi là Hồi tâm Tiểu thừa (Nhị thừa hồi tâm). Trong năm phán giáo của đại sư Hiền Thủ, hạng này được xếp vào Đại thừa Thỉ giáo (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2907).

[3] Thi-đà lâm: theo Huyền ứng âm nghĩa, q.7, “Thi-đà lâm, gọi đủ là Thi-đa-bà-na, có nghĩa là Hàn lâm (rừng lạnh). Rừng này sâu thẳm lạnh lẽo, nhân đó mà có tên Hàn lâm. Rừng này ở cạnh thành Vương-xá, người chết phần nhiều được đưa tới đây. Nay Thi-đà lâm là từ dùng để chỉ chung chỗ bỏ xác người chết”. Còn gọi là Khủng úy lâm (rừng sợ hãi) (TĐPH Hán-Việt, PVNCPHVN, Nxb Hà Nội, 1994, t. II, tr. 1492).

[4] Đồng thể đại bi: quán chúng sinh với mình đồng một thể mà khởi bi tâm bình đẳng để cứu khổ, ban vui. Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, xem nỗi khổ của chúng sinh như nỗi khổ của chính mình mà sinh lòng xót thương vô hạn. Kinh Đại Bát Niết-bàn, q. 16, bản Bắc ghi: “Như cha mẹ thấy con bệnh hoạn, sinh lòng khổ não, xót thương lo buồn, từng giây từng phút. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, thấy chúng sinh bị phiền não trói buộc, các Ngài buồn khổ, lo nghĩ như mẹ thương con đỏ, đến nỗi các lỗ chân lông đều ra máu” (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1598).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11441)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10529)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10807)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9874)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9550)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12904)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13316)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13461)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19844)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12543)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13264)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13554)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13025)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12380)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18582)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10694)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12410)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11000)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11204)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14706)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22606)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11592)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10178)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34551)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17739)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32712)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22118)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11222)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17591)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17164)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10702)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10862)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9597)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10604)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10607)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10559)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12482)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12418)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9985)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13222)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9724)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9124)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11825)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13485)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12073)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11297)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11612)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10338)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10259)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10910)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28226)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10811)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7413)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9335)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11771)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11671)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11109)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10318)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10270)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13810)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14966)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10502)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11904)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10890)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10531)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10657)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9910)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10675)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9298)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10193)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10520)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10613)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10536)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10114)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9833)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13548)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16325)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13482)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11565)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11129)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11096)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12193)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15355)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10620)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11705)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10620)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11084)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10028)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10405)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11416)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11016)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12935)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24387)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12616)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10302)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28676)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19354)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10944)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23350)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant