Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tri kiến giải thoátGiải thoát tri kiến giải thoát

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11824)
Tri kiến giải thoát và Giải thoát tri kiến giải thoát

TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT 
& GIẢI-THOÁT TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT
.
Lòng tri ân sâu thẳm vô bờ xin gởi về Bổn-sư và Pháp-sư tôn kính
Nhuận Bảo

Một chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại, vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật, đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh giới này. Mặc dù các định chuẩn ấy, cũng là kinh nghiệm hiểu biết được tích lũy, phát triển và ăn sâu vào tận tim óc, máu thịt như một chùm giây mơ rễ má, mà một sát na trở về trước, tưởng chừng khó bề bứt tách ra khỏi óc não, nhưng chỉ sát na sau, nó vẫn phải bị loại trừ, bị tan biến, chí ít là ẩn hiện mờ nhạt trước một chỗ thấy biết tuyệt đối, tự tại, hiển nhiên, không đến không đi, nếu người ấy không động niệm phân biệt

Giá như miệng lưỡi có thể chứng minh được tự thể của khoảnh khắc thực tại ấy, thì ở chỗ thẳm sâu nhất, chơn chất nhất mà tự đó có thể duyên quyện thành lời, ắc câu nói đầu tiên mà người con Phật muốn thốt ra, muốn hét lên thật to cho mọi người cùng nghe biết, không ngoài việc thể hiện lòng từ mẫn vô biên, hoà lẫn niềm tri ân thẳm sâu tuông chảy vào cõi mênh mang, không gốc gát. Câu nói đó, hoặc là để đánh động mọi người cùng trực nhận chỗ thấy biết siêu tuyệt kia, như một sự chan hoà bình đẳng tuyệt đối, tự nhiên như nhiên, không còn gì là riêng biệt chia cắt, hoặc là để đinh ninh trước mọi người một sự thật không gì thật hơn, với lòng biết ơn trải khắp cả mười phương hư không, không sao nói hết, rằng "đạo Phật là đạo giải thoát". 

Phải! "Ðạo Phật là đạo giải thoát"! Ðó là chân lý, một sự thật bất biến, không gì có thể khác được đối với người con Phật, lúc này. Còn ai có tin hay không tin chân lý ấy, là tuỳ duyên phước của từng mỗi chúng-sanh-tâm, hoặc là đang tự đóng khung biệt lập trong phạm vi ý thức về những định chuẩn quán tính xưa cũ, tôn vinh bản ngãtrói buộc với ngã-pháp sanh-tử hạn hẹp, hoặc là đang hoà làm một cùng với con mắt đạo vốn dĩ luôn tự sẵn có cùng khắp, chưa từng đóng mở, chưa từng đến đi, tạm ví như bầu trời thinh thinh rộng lớn, trong trẻo trên cao. Ðiều ấy có nghĩa, tin hay không tin là tuỳ ở từng mỗi con mắt, ngoài chỗ thấy biết trói buộc nghiệp thức nhơn quả này ra, còn khám phá được gì nữa, khi người ấy có dám đi tìm cái sống miên viễn, vượt quá sanh tử bằng cách can đảmtỉnh táo buông tay để rơi tự do vào khoảng không vắng lặng, sâu thẳm vô biên của tự tâm hay không. 

Nhân kỷ niệm đản sanh lần thứ 2552 của bậc Ðạo-sư Vô thượng, người đang tập tễnh trên bước đường tu học này xin gởi gắm trong đây tất cả lòng hiếu kính và biết ơn ba đời chư Phật, Bồ tát và các vị Thầy đã từ bi cứu vớt, dẫn dắt mảnh thức tâm u mê, tăm tối, lầm lạc này đi vào chánh đạo. Bên cạnh đó, người viết mong được chia xẻ với các bạn đạo thân thiết của mình, những Phật tử đang tu học tại gia, một đề tài tuy xưa cũ, có lẽ không ai không biết, nhưng lại rất quan trọng cho việc tự chứng giải thoát, đó là Giải-thoát Tri-kiến Giải-thoát. 

I. Tri kiến Giải thoát.

Ý nghĩa của hai chữ giải thoát thì bao quát, rộng lớn vô cùng, nên xin không đi vào chi tiết. Vả lại, với những người gần đất xa trời (như chúng tôi), thì đại sự nhân duyên là việc vô cùng cấp thiết, như đang từng giờ, từng phút thúc giục không được xao lảng việc thực hành pháp Phật, bởi cái quĩ thời gian "trăm năm cõi này, một đời học đạo" của mình còn lại qúa ít ỏi, nên sự hiểu biết đối với chữ nghĩa, có lẽ cũng chẳng thấy còn quan trọng mấy. Hơn nữa việc làm giàu tri thức, bằng những khái niệm tương đối, là việc làm đi ngược lại với pháp mônchúng tôi đang tu học, cũng như ngược lại nội dung chính yếuchúng tôi mong muốn được trình bày trong bài viết ngắn này, là người tu Phật cần biết vượt thoát khỏi Tri-kiến Giải-thoát, để tự thăng hoa. Bỡi vậy chỉ mong được định nghĩa sơ lược

Giải-thoát. Giải là cởi, thoát là vượt khỏi. Nghĩa giải thoát được hiểu một cách sơ lược trong đây là "vượt thoát sự trói buộc của khổ ách". 

Ðã làm thân chúng sanh thì ai chẳng phải bị khổ ách trói buộc. Và cũng vì thương xót chúng sanh hệ lụy khổ ách nên chư Phật mới xuất hiệnthế gian để ban phát pháp giải khổ vậy. 

Tri-kiến là thấy biết, lại còn có nghĩa là chỗ thấy và chỗ biết. Phàm phu thấy bằng con mắt của nhãn căn (nhục nhãn - con mắt thịt) và biết bằng ý thức, tức cái chỗ biết bằng phân biệt nhị nguyên theo khái niệm vọng lập, hệ lụy nhơn quả. Các bậc Thánh hiền, Bồ tát thì tuỳ từng công hạnh tu học, chứng nhập diệu pháp vô vi sâu hay cạn mà chỗ thấy biết có nhiều tầng nấc thấp cao sai biệt, gồm từ nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn cho tới pháp nhãn. Với chư Phật thì chỗ thấy biết gồm trọn vào ngũ nhãn, tức thêm phần thấy biết của Phật nhãn. Bởi vậy chỗ thấy biết của đức Phật được tôn xưng là nhứt thiết trí, là toàn biết, tức không gì không biết. 

Tri-kiến giải-thoát trong đây phải được hiểu là chỗ thấy biết của Thánh trí được vận dụng thành lời, vượt quá trói buộc của nhị nguyên phân biệt, sanh tử nghiệp báo, là phương tiện từ trí huệ giải thoát mà chỉ có các Ngài với nhau mới có cùng một chỗ thấy-biết "đang-là" rốt ráo. Còn những người đang học đạo như chúng ta, tuy cũng vẫn đối diện với những lời vượt thoát ấy, nhưng vì chỗ thấy nghe hiểu biết của chúng ta bằng thức ý, trói buộc nhị nguyên phân biệt, nên cần phải nương mượn tri kiến ấy làm phương tiện khai mở, cũng là học, hiểu và hành theo tinh thần của tri kiến ấy dẫn dắt, và cuối cùng là phải biết vượt lên khỏi mọi ý niệm về sự hiểu biết ấy thì mới có thể được gọi là tự độ thoát

Trong nhơn quả, do căn cơ duyên phước theo nghiệp báo của mỗi người có chỗ khác nhau, nên trong tiến trình tu tập, ý niệm cũng như sự cảm nhận một cách tương đối của từng người về nghĩa giải thoát đương nhiên có chỗ sai biệt, nhưng, theo Giáo lý nhà Phật , vị giải thoát cùng tột thì chỉ một, đó là tâm giải-thoát tuyệt đối, là ở bờ kia. 

Lại nữa, cái khổ của chúng sanh thì muôn hình muôn vẻ. Có trăm, ngàn, vạn, ức nghĩa khổ khác nhau được cảm nhận đối với từng mỗi chúng sanh trong cuộc trần này. Và cũng có thể nói rằng, tự ngàn xưa nhẫn đến bây giờ, trừ những người trí căn khiếm khuyết, tinh thần không được bình thường, thì có lẽ cũng rất hiếm người sống trên đời mà không biết quan tâm hay không biết cầu tìm cho mình một con đường giải thoát, trong phạm vi hiểu biết riêng tư của mỗi người. Hoặc cũng có những người hằng ngày phải lăn lộn vì cuộc sống của tự thân và gia đình, hay bận rộn vì chuyện theo đuổi công danh sự nghiệp mà quên mất hoặc không còn có thì giờ để nghĩ tới chuyện giải thoát cho bản thân, nhưng trong những ngày tháng cuối đời, hoặc thậm chí vào một lúc nào đó bất chợt trực diện với cái chết, bên cạnh nỗi lo sợ phải rời bỏ cuộc sống thế gian, thì dù trễ tràng, vẫn có những phút giây nghĩ tới trong niềm hy vọng mong manhthụ động về một sự giải thoát nào đó sẽ đến với mình như một phép lạ bằng trí tưởng tượng giản đơn vốn có. 

Nên có thể nói, hễ đã có thân tướng ắc phải có khổ đau và đồng hành cùng cái khổ luôn luôn trói buộc con người, là nỗi khát khao giải thoát những hệ lụy mà mỗi con người có sự cảm nhận sai biệt theo từng nghiệp báo riêng, không ai giống ai, nhưng đều chung cùng một ý vị, đó là vị khổ ách triền phược thân tâm

Ý nghĩ chủ quantương đối của từng chúng sanh đối với sự giải thoát cũng thiên hình vạn trạng, không ai giống ai, nhưng tựu chung, cái đích cùng tột của sự giải thoátchúng sanh phải nhắm tới, là không ngoài việc phải vượt thoát khỏi sự trói buộc của mối dây sanh tử trong cái vòng khép kín của luật tắc nhân quả luân hồi, cũng là gốc rễ của mọi khổ ách. Chỉ có vượt thoát khỏi sanh tử luân hồi mới là con đường giải thoát triệt để, mới là qua bờ kia. 

Tác nhân gián tiếp gây ra khổ ách và cũng là thủ phạm trực tiếp khiến chúng sanh phải tự vướng mắc, trói buộc sanh tử, không ai khác hơn là ý thức, cũng tức là cái thức biết, là tâm ý thức của mỗi người. 

Mảnh thức biết ấy, cũng gọi là tâm thức, từ một niệm bất giác vô thỉ vô minh, đã mê mờ lầm lạc, tự vọng lập ngã-pháp như là một thực-thể, tức nhận thân tâm này và các pháp tướng tương quan tương tác trong các cảnh giới vọng nghiệp làm thật có, khiến phải trôi lăn vô định trong biển nghiệp thức nhơn quả luân hồi

lòng từ bi không nỡ nhìn thấy chúng sanh tự trói buộc khổ ách mà không ban phát các pháp giải thoát, nên đức Phật mới thị hiện cõi này để cứu độ
Tri kiến giải thoát là chỗ thấy biết tuyệt đối của giải-thoát-tâm, là tuệ giác được đức Phật vận dụng thành lời, dùng làm phương tiện đem ra dạy dỗ các hàng đệ tử xuất giatại gia tu tập, trong thời Chánh pháp, khiến có vô số người được giải thoát, không sao kể xiết. Thế nên, sau khi đức Phật Niết bàn, những lời dạy dỗ ấy được chư Tổ kết tập lại, gồm chứa trong ba tạng kinh điển, được coi như làø pháp phương tiện giải thoát tối thắng, vi diệu dành cho tất thảy mọi căn cơ trên thế gian này. 

Có thể nói, ba tạng kinh điển của Phật giáo, mà nội dung không ra ngoài chánh lý giải thoát sanh tử, được coi như là kho tàng văn hoá, triết học, đạo học, giải thoát học đồ sộ nhất mà loài người được may mắn thừa hưởng từ trí huệ Phật. 
Chư Tổ sau Phật nhẫn đến ngày nay đã nương theo những lời dạy ấy, cũng là tri kiến giải thoát, nói diễn rộng ra để dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu vượt thoát sanh tử.

Và nếu nói không ngoa thì chỉ có đạo Phật, chỉ có giáo pháp hy hữu, vi diệu, nhiệm mầu của Như-lai mới có thể giúp chúng sanh qua bờ kia, chỗ giải thoát tuyệt đối, vượt lìa sanh tử luân hồi

Ðó là một sự thật hiển nhiên. Cuộc sống vô vi, đạo hạnh, rời lìa tất thảy mọi trói buộc, thể hiện tâm giải thoát hiện tiền của đức Phật, cũng như giáo lý giải thoát mà Ngài phát minh từ hơn hai mươi lăm thế kỷ rưỡi qua, đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, được phần lớn nhân loại nồng nhiệt đón nhận như ngày hôm nay, đủ minh chứng cho một sự thật này. 

II. Giải-thoát Tri-kiến giải-thoát.

 
Cảnh giới của tâm giải-thoát tuyệt đối, đương nhiên không thể dùng kiến-văn-giác-tri để tiếp cận, hiểu biết hay giải thích được. Chúng sanh chỉ có một cách duy nhất là mượn tri kiến giải thoát của đức Phật dùng làm phương tiện để học tập, hiểu biết, rồi thực hànhgiải thoát ấy lên chính thân tâm mình, hầu trực ngộ bổn tánh vô sanh, cũng là tới bờ kia. 

Tri kiến ấy là những lời dạy dỗ được đức Phật vận dụng từ trí huệ. Tuệ giác ấy một khi đã thành lời, thì lời kia không còn "như thật" như "tánh-giải-thoát-nó-là" nữa, mà lời kia đã đi vào tướng sanh diệt rồi. Mà đã là tướng thì đó là thể hư vọng, không phải là nghĩa "như -như "của giải thoát tâm tuyệt đối.

Ðể chúng sanh không lầm nhận giữa tri kiến giải thoát với bờ kia, đức Phật đã nhiều lần cảnh giác người học đạo: " Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà môi ta chưa hề động" . Bởi vì, nếu chấp vào chỗ động môi của Như-lai, tức coi những lời kia làm thật, thì có khác nào chúng sanh hủy báng Phật, coi Phật cũng có sanh tử, nghiệp báo như chúng sanh không khác, trong khi Phật thì chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, cũng tức, Phật (Phật là không gì cả) là nghĩa như như của vạn pháp

Bởi thế cho nên, dùng kiến văn giác tri, dù là tri kiến giải thoát đi nữa, để nói về giải thoát tâm tuyệt đối, chẳng khác gãi ngứa ngoài giày, gió thoảng trên đá, không một chút dính dấp tới "nó". 

Một thí dụ. Có người đến gặp Thiền sư Huệ-Hải, nói: 

- Ðịnh hỏi Thầy một câu, không biết có vui lòng đáp chăng?

Ngài Huệ Hải đáp: 

- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc tình mò bắt. 

Ở đây, nếu đã cùng ngài Huệ-Hải một chỗ, thì đâu cần phải mở miệng. Còn chẳng được như vậy, thì dẫu có ngàn câu hỏi (dụng thức biết) đối với chỗ muốn tiến tới (tánh biết) hoàn toàn không thể được, chẳng khác mò trăng trong nước, dẫu ngài Huệ-Hải có đáp thì lời đáp ấy cũng có dính dấp gì tới chỗ tuyệt "một" kia đâu? 

Chúng ta cần phải hiểu một cách cặn kẽ rằng, ba tạng kinh điển của Phật giáo và những lời dạy của chư Tổ sau Phật, tức các Ngữ-lục, đều là pháp phương tiện hy hữu, diệu mầu để độ thoát sanh tử. Tuy nhiên phải tránh lầm lẫn giữa phương tiệncứu cánh, nghĩa là tri kiến giải thoát phải được đinh ninh là phương tiện tạm mượn, còn bờ kia mới là cứu cánh. Bằng không hiểu hay không muốn hiểu như thế, do vô tình hay cố ý vì nặng chấp "ngã-pháp", ắc dễ đắm chìm theo phương tiện, khó bề vượt thoát sanh tử, uổng phí một đời tu. Ðó là một sự thật

Bởi tri kiến ấy cho dù vi diệu, nhiệm mầu đến đâu thì nó vẫn là phương tiện, như mượn tay chỉ trăng, mà tay kia chẳng phải là trăng thật. Thí như qua sông ắc phải mượn đò, nhưng đò chẳng phải là bến đỗ. Thế nên mượn đò qua sông mà chẳng biết tự chèo chống, chẳng chịu tự bước lên bờ thì cũng chưa phải là đã ở bờ kia. Hành giả chỉ được độ thoát khi nào đúng lúc cần phải bỏ phương tiện để tự bước lên bờ, tức thời gian chín muồi để có thể vượt quá cái điểm nhỏ nhất của ý thức, cũng là tự cắt đứt dòng tương tục của tri thức, mà trong đây là tri kiến giải thoát, ngay ở chỗ mong manh vi tế nhất, để tự thăng hoa. Bằng đã sát tới bến, chỉ cần một bước nhảy dứt khoát là lên được bờ kia mà chẳng chịu nhảy, chẳng chịu buông bỏ con thuyền, coi con thuyền như là một đối tượng của bản ngã cần được chấp thủ, hoặc như là một vật báu riêng phải giữ gìn, thì không bao giờ có thể tới bờ kia. Cuối cùng, theo luất tắt sanh diệt, hành giả ắc phải chết chìm với cái riêng tư trói buộc ấy là điều khó tránh khỏi

Y nghĩa của việc giải-thoát tri-kiến, là người tu Phật cần phải biết giũ bỏ sạch sẽ tất thảy những gì được gọi là kiến thứckinh nghiệm học Phật, dù là tri kiến giải thoát đã từng được tích lũy lâu đời đi chăng nữa, để có bước nhảy cuối cùng tự độ qua bờ kia. Không tự buông rơi được những phương tiện giả lập ấy, có nghĩa là bị tri kiến giải thoát trói buộc, ắc khó lòng có được bước nhảy đột ngột, tức thờidứt khoát

Cũng vì sợ chúng sanh lầm chấp vào các phương tiện giải thoát hy hữu của đức Phật, chết chìm với tri kiến giải thoát kia, nên trong hầu hết các kinh Ðại thừa Phương đẳng, Vô lượng nghĩa, đức Phật không quên ân cần dặn dò các đệ tử lớn của mình phải nhận ra cho được điều đó. 

Thí như trong kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, ngài dạy rất rõ ràng: "Này các Tỳ Kheo ! Hãy nên biết, pháp ta thuyết đó dụ như bè, pháp còn phải xả bỏ huống là phi pháp - Nhữ đẳng Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giã, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp".

Trí huệ giải thoát, tức chỗ thấy biết của thánh trí, hoàn toàn không phải là đối tượng để cho chúng ta hiểu biết, dù là tri kiến của kẻ bác học, mà phải dụng tâm "thực-hành" lên chính thân tâm này một cách như pháp, theo đúng tinh thần của tri kiến giải thoát đã được học và hiểu. Nghĩa là trong đời tu Phật, ba việc Học-Hiểu và Hành đối với tri kiến giải thoát, không thể tách rời hay thiếu một. 

Ví như, không có duyên may gặp được tri kiến giải thoát của đức Phật trong đời, hoặc có sẵn tri kiến ấy trong sách vở nhưng không hiểu đức Phật nói gì, mà chỉ biết tự thân ngày đêm gắng sức tu mò, thì có khác nào như bỏ công sức nấu cát mà muốn thành cơm, hoặc mài gạch mà mong thành gương soi, đó là việc không thể được. 

Hoặc được chỉ dạy tri kiến giải thoát của đức Phật, biết được lý lẽ, phương cách để đến bờ kia, nhưng tự thân lại giải đãi, không chịu y pháp thực hànhgiải thoát ấy, mà mong có lúc tới bờ kia, thì có khác nào ôm cây đợi thỏ hoặc nằm chờ sung rụng, biết đến bao giờ mới vượt khỏi khổ ách sanh tử, trong khi đời người ngắn ngủi, ngày tháng qua mau. 

Ở đây chúng ta cần phải hiểu rõ cái gì là mầm móng khiến chúng sanh trói buộc sanh tử? Cội rễ của sự trói buộc ấy không gì khác hơn là tâm ý thức. Và tri kiến giải thoát cũng không ra ngoài sự chi phối của cái tâm ý thức ấy, nghĩa là còn biết có chỗ kiến giải để được giải thoát, thì ngay chỗ "biết" ấy là có sự cột buộc vào sanh tử. Bởi cớ sao? Bởi vì khả năng suy tưởng, tư duy, nhớ nghĩ còn chưa dứt sạch thì chủ thể của những năng lực ấy vẫn còn, tức pháp ngã vẫn tồn tại. Pháp ngã tồn tại thì các pháp tướng khác hiện hữu, và đương nhiên cảnh giới hiện tượng của nhị nguyên phân biệt trói buộc tức khắc. 

Trong từng mỗi chúng sanh hữu tình đều sẵn có hai tâm, một tâm phân biệt theo khái niệm tương đối, tự trói buộc nhơn quả, cũng là tâm ý thức (thức biết) sanh diệt phàm tình và một tâm tuyệt đối, tự tại, phi sanh diệt, cũng là Phật tâm, là giải thoát tâm tuyệt đối. Tâm ý thức là bóng hình, là dụng của tâm tuyệt đối mà có. Nghĩa là, từ vô thỉ, chỉ vì một niệm bất giác vọng sanh, khiến những mảnh thức tâm (thức biết) trùng trùng tuông sanh, mà từng mỗi mảnh thức ấy vẫn dung chứa trọn vẹn tánh căn bản của Phật tâm. Cho nên nói hữu tình đều vốn sẵn có hai tâm. Những mảnh thức biết ấy lại vọng động, khiến có thế giới hiện tượng sanh khởi, khái niệm nhị nguyên phân biệt vọng thành, vì tự chấp có "ngã và pháp" là thật có. Vì chấp, cũng tức là chỉ nhìn một hướng theo thế giới hiện tượng phân lập, mà ngã được coi như là một chủ thể thực tại, nên mảnh thức biết ấy hoàn toàn xoay lưng lại với cái tánh biết căn bản vô sanh, khiến phải tự trói buộc vào cảnh giới sanh tử luân hồi do chính thức biết vọng lập. Cứ xem bóng dáng của những mặt trăng huyễn hoặc biến hiện trên sóng nước thì tự nghiệm ra được chỗ này.

Nội dung của bài viết này không ngoài việc người học Phật cần phải biết vượt khỏi tất thảy mọi tri kiến, cũng là con đẻ của thức biết, để tự độ thoát

Vậy, giải thoát tri kiến giải thoátđiều kiện tất yếu của người tu Phật muốn vượt thoát trói buộc sanh tử

Ðể "ngộ" bổn thể tuyệt đối, cũng là chỗ thấy biết vượt quá cảnh giới trói buộc sanh tử, thì những gì được gọi là tri thức, tức cái tâm ý thức dệt bằng khái niệm phân biệt, là kinh nghiệm tích luỹ từ thuở lọt lòng mẹ, phải được gột tẩy sạch sành sanh, dù một chút cỏn con vi tế cũng không được sót lại, kể cả kinh nghiệm tri kiến giải thoát

Cho nên, lúc mới đầu, người tu Phật cần biết mượn phương tiện độ thoát là tri kiến giải thoát để có chỗ thấy biết chơn chánh, rồi tự thân thực nghiệm theo lý chơn chánh ấy để cắt đứt, vượt lên quá trói buộc của tâm ý thức, cũng là gốc rễ của sanh tử, mà thăng hoa. Thăng hoa ở đây có nghĩa là cái biết của ý thức ngưng dứt ở đâu thì ngay đó cái thấy biết của tâm tuyệt đối tức thì bùng vỡ, mở toang, tất thảy phô bày, cũng là giải thoát tâm hiển lộ

Tuy nhiên, ngày nay vẫn có người lầm tưởng phương tiệncứu cánh, khiến họ không thể vượt thoát khỏi cái vốn kiến thức bác văn giàu có của mình, không tự biết rằng đó là bệnh. Căn bệnh ấy rất khó chữa, thuộc loại trầm kha, nhưng người mắc bệnh lại cảm thấy rất dễ chịu vì nó có thể ru ngủvuốt ve cái tâm chấp ngã cố hữu. Nghĩa là, tuy biết rõ đó là bệnh, nhưng người ta vẫn hoan hỉ, vui thích sống với nó, tự nguyện chết cùng nó, vì ngã kiến của họ đã được thoả mãn.

Kẻ hành giả ấy đâu biết rằng, dù chấp thủ, vun đắp cho mình một kho tàng tri thức cao siêu tới đâu đi nữa, thì đối với bờ kia, chỗ kiến văn ấy cũng chẳng chút dính dấp tới, nếu không muốn nói rằng chính nó là thủ phạm làm chướng ngại bước đường vượt thoát sanh tử của người ấy. Sở tri chướng được định danh định tính như là mặt mũi của kẻ ngán đường, làm cản ngại và trì trệ tiến trình đến bờ kia, mà không hiếm người trong chúng ta vì vô tình nên thường hay bị vướng mắc. Người học đạo cần phải biết vượt qua chỗ này, tức cần phải giải thoát tri kiến giải thoát

Một thí dụ

Có một tăng nhân đến hỏi đạo ở chỗ ngài Văn-Ích. 

- Bạch Thầy ! Muốn cầu tri kiến Phật, con đường nào ngắn nhất để có thể đi qua? 

Ngài Văn-Ích đáp: 

- Chắc chắn không qua đây !

Ngay câu đáp này, vị tăng nhân chợt tỉnh ngộ. 

"Không qua đây". "Ðây", "chỗ này", nếu chẳng phải là sở học tràn đầy tri kiến, hay nếu chẳng phải là cái thức ý lúc nào cũng sẵn sàng, chờ chực phân biệt, cân đong đo đếm, biện biệt phải trái, xa gần đúng sai trói buộc nhơn quả, thì phải nên gọi là gì? Chợt nhận ra nó và biết tự lìa nó, vượt thoát cái tâm ý thức ấy, thì vô minh liền tan biến, giải-thoát-tâm tuyệt-đối phô bày. 
 
Lại nữa, vẫn biết rằng đạo Phật là đạo giải thoát, và từng người có duyên với từng mỗi pháp môn khác nhau, phương cách thực hành mỗi pháp cũng khác nhau, nhưng cứu cánh thì chỉ một, đó là tâm giải thoát tuyệt đối, là bờ kia. Và để đến được bờ kia, thì cả thân lẫn tâm cũng không thể không đi qua con đường "thực hành" Giới, Ðịnh, Huệ, Tri kiến giải thoátGiải thoát Tri-kiến giải-thoát. 

tu pháp môn nào, kể cả Không-pháp (Không-pháp cũng là một pháp hy hữu, tối thắng của đức Phật dành cho người thượng căn, thượng trí, cũng là Tối thượng thừa pháp - Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật) thì cũng không thể không nhập đạo bằng hai lớp cữa, đó là Lý nhập và Hạnh nhập. 

Lý nhậpthể nhập chân lý giải thoát, còn hạnh nhập là thực hành chân lý ấy một cách tự nhiên như nhiên mà không có một chút "ý" nào được gọi là cần phải "hành" cả. Thí như đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì đi nằm, mà trong đây không khởi lên một ý niệm nào trái với sự tự nhiên như nhiên của Ðạo, tức không vọng khởi phân biệt, trói buộc nhơn quả. Cả lý và hạnh đều thể nhập đạo thường, cũng tức là sự lý viên dung, thì đó là chỗ đến đi tự tại

Với người tu Phật, muốn vượt thoát sanh tử, thì ai cũng đều phải tự thân vượt qua cái khung cửa hẹp bắt buộc, đó là phải như lý, y phápthực hành, để đạt tới cứu cánh lý sự viên dung, sự lý vô ngại

Bằng hiểu rành rẽ, thao thao bất tuyệtgiải thoát của đức Phật mà không tự thân thực hành như pháp các lý ấy, thì đó chỉ là người tu Phật bằng miệng mà thôi. Mà tu Phật bằng miệng thì đương nhiên không sao có thể tự giải thoát sanh tử được. Ðiều ấy có khác nào một người làu thuộc phương cách nấu cơm từ A đến Z mà vẫn bị chết đói, bỡi lẽ, thay vì chịu bỏ công vo gạo, chẻ củi, nhen lửa, nấu cơm thì người ấy chỉ biết nói lý thuyết suông, thì không có cơm ăn là điều tất yếu, không chết đói mới là sự lạ. Hoặc thí như ai cũng biết sát sanh là giới đầu tiên trong ngũ giới, thập giới - là giới luật của người tu Phật tại gia phải giữ gìn. Tuy biết rằng không phải cứ ăn chay mãn đời, suốt kiếp thì sẽ thành Phật, nhưng ăn chay đối với đạo Phật vẫn luôn là một điều kiện không thể thiếu. Việc ăn chay của Phật tử được ghi nhận như là một cách gián tiếp để giới sát, ban phát sự sống cho muôn loài có cùng Phật tánh như mình, cũng là thể hiện một cách trực tiếp tâm từ bi như Phật thương khắp chúng sanh. Lại nữa, ăn chay cũng là một pháp tu, một pháp điều tâm dưỡng thân, hỗ trợ đắc lực cho tiến trình tu chứng về mặt trí huệ, tức tạo thuận lợi một cách tích cực cho sự nghiệp cuối cùng của người tu Phật là trực ngộ bình đẳng tánh. Ích lợi của việc ăn chay là làm "tự lợi lợi tha", một điều không ai có thể phủ nhận được. Thế nhưng vẫn có không hiếm người thường hay phớt lờ giới thứ nhất trong thập giới, rồi mượn miệng lưỡi để nguỵ biện rằng ăn chay không quan trọng đối với sự nghiệp tu hành hay chẳng dính dấp gì tới "trí tuệ" của mình cả, mà không dám nói thật lòng, là ăn mạng bổ béo, khoái khẩu hơn ăn chay

Biết pháp mà không chịu như pháp hành trì, có khác nào biết là tội đấy mà vẫn cố phạm. 

Chỉ biết rành giáo lý của Phật mà không đem cả thân lẫn tâm ra thực hành giáo pháp ấy, chỉ dùng thế trí biện thông để miệng lưỡi biện biệt thấp cao, hay dở, đúng sai, hoặc phải như thế này mà không phải như thế kia, chê khen cùng khắp, thì chắc chắn việc tu học như thế chẳng đem lại một thành tựu công đức nào đáng kể. Những người tu học như thế ấy cùng lắm cũng chỉ được cái danh hão trong đời là người biện sĩ tài ba hay là nhà triết học xuất chúng mà thôi, khó bề vượt thoát sự trói buộc của sanh tử luân hồi, với bờ kia ắc còn ngàn trùng xa cách

Có thể có bạn đạo nào đó cho rằng những gì mà người viết nêu ra đều là những ý tưởng cũ rích, ai mà chẳng biết. 

Xin thưa, đúng vậy, đúng vậy! Ðó là những điều cũ rích, xưa cũ từ trước khi chúng ta được sinh ra trong cõi nhơn quả này hàng nhiều đời nhiều kiếp trước nữa là đằng khác. Thế nhưng, dù là những điều xưa cũ, mà những người như chúng tôi, như các bạn, nếu ngày nào còn chưa tự thân thực hành đúng như cái lý xưa cũ ấy để tự giải thoát, thì ý tưởng và các pháp ấy vẫn sẽ còn mới toanh, vẫn trinh nguyên như thuở ban đầu, còn chúng ta thì vẫn cứ phải đến đi trong nhơn quả luân hồi với nhiều thân tướng, nghiệp báo khác nhau. Ví bằng chúng ta biết thực hành những gì xưa như trái đất ấy một cách chân chính, không tự dối lòng, ắc tự tâm mỗi người khó bề không công nhận một sự thật, rằng càng thực nghiệm, chúng ta càng khám phá ra không biết cơ man nào những điều vi diệu, nhiệm mầu, mỗi ngày càng thêm bao điều mới lạ trong một Phật tâm này. 

Cần phải biết y như pháp thực hành, phải biết giải thoát tri kiến giải thoát, đó là những gì mà kẻ khờ khạo này muốn gởi gắm vào nội dung của bài viết và rất mong các bạn đạo thân thiết của chúng ta nên áp dụng một cách thực tế vào các pháp tu phù hợp với căn cơ mỗi người, lên chính bản thân mình. 

Bằng ngược lại, nếu những lời này không thuận hợp đạo lý của chư Phật, Bồ tát, Thánh hiền, đi ngược lại giáo lý giải thoát của Như-lai, thì chúng tôi xin được muôn lần dập đầu sám hối để mong gột sạch cái tâm ngu mê, lầm lẫn này vậy. 

Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tếhoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng. Nghĩa là một Phật tử chân chính, dù tu tại gia hay xuất gia, nếu biết chọn lựa pháp môn thích hợp với căn cơ trí tuệ phúc đức của mình mà tu học, biết nhứt tâm y theo lời dạy của đức Phậthành trì, lòng dạ chơn chất, không tự dối, không cống cao ngã mạn, không cầu lợi cầu danh, thì không phải đợi đến khi chết đi mới có thể biết giải thoát hay không giải thoát, mới biết vượt lìa hay còn cột buộc nghiệp báo sanh tử, mà ngay trước mắt, trong đời này, vẫn có thể thật chứng tâm giải thoát hiện tiền

Tâm giải-thoát hiện tiền của nhà Phật là cảnh giới của Thiền và Ðịnh. Thiền là công việc hành trì cuối cùng trong tiến trình một đời tu chứng, cũng là nơi ươm mầm để khai phóng tất cả mọi trí năng vốn tự sẵn có, để thân chứng tánh "chơn không" của vạn pháp, để ngộ ra tất thảy pháp đều do một tâm bất giác duyên sanh. Ngay trong đây, tại chỗ này có sự thấy biết chân chính bằng con mắt trí huệ, biết như thật tứ đại, ngũ uẩn đều không, sanh tử phiền não cũng chẳng phải thật có, các pháp sanh diệt đều như hoa đóm biến hiện, liền tự thăng hoa. Sống "một" trong Thiền, thì việc ra vào cảnh giới sanh tử trước mắt, bằng ánh sáng của trí huệ, chẳng khác như cái bóng ảo của thân mình vào ra trong một mặt gương vĩ đại mà không hề bị ngăn ngại. Thời gian sống trong Thiền càng lâu, nghĩa là ở trong tánh biết càng dài, có thể gọi đó là tâm Thường-Ðịnh vậy. 

Có thể có người hỏi rằng, cảnh giới của Thiền là thanh tịnh, nhứt như, tuyệt một, vậy thì nói "biết" đó, là ai biết? 

Xin thưa, đó là tánh biết nguyên uỷ tuyệt đối, là tánh Phật chúng sanh "biết" như thật. Ngay từ khi thể nhập tánh biết, sau đôi ba lần tự mình "vào" nhập vai tánh biết, "ra" nhập vai tướng biết, mà sự ra vào ấy chỉ trong sát na, liền biết như thật, chỗ đến đi nói nín thường nhật đều do từ một tánh linh diệu căn bản này mà ra, cũng là biết như thật đâu là pháp thân tự tại phi sanh diệt, đâu là pháp tướng huyễn hoặc, vọng sanh vọng diệt do từ một niệm bất giác vô minh sanh khởi. Rồi từ hai chỗ thấy biết cùng ra vào trước mỏ ác của một con người này, một cái thấy biết phàm tình trói buộc nghiệp báo nhơn quả, và một cái thấy biết tự tại siêu vượt nhơn quả, cả hai thông lưu vô ngại nhau, thì ngay đây, dù không khởi niệm phân biệt, mà chơn giả, chủ khách hai đàng vẫn biện biệt rõ ràng. Dù không phân biệtthực tại và mộng cảnh vẫn biện biệt phân minh, biết như thật gì là bản thể như nhứt vô sanh, gì là vạn pháp huyễn hoá biến hiện, biết tuỳ duyên đến đi trong các cõi để thực hành hạnh nguyện từ nhiều đời làm chúng sanh trong quá khứ, cũng là cách trả ơn ba đời chư Phật, đồng thời tích góp công đức để tự trang nghiêm cõi Phật vị lai

Ðạo Phật là đạo giải thoát. Ðức Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Ðó là chân lý bất biến. Chỉ có điều chúng sanh có biết y theo giáo lý giải thoát của Phật để tu một cách chân chính hay không, thì đó là chỗ quyết định thành tựu công đức ấy một cách nhanh chóng ở đời này hoặc đời sau, hay phải trải qua trong vô lượng kiếp chúng sanh nữa mới thành, là tuỳ ở chúng sanh ấy. 

Nam-mô Bổn-sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nam-mô Thường-Tinh-tấn Bồ-tát Ma-ha tát.
Nam-mô Công-Ðức-lâm Bồ-tát Ma-ha tát.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19425)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18529)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16056)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29870)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21606)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17809)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20822)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26329)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33326)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52152)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22873)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23409)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39650)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21792)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22380)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6837)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22729)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69808)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44010)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23067)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35035)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44095)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42913)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44416)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24913)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24357)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39207)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39230)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18039)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35673)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24217)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20404)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18309)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18999)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18939)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17474)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19318)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30829)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19190)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20526)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19558)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19766)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29822)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17834)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19407)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19879)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58768)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23517)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39759)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26718)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40762)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22869)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22922)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21595)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22593)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21084)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19213)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20330)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30555)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20179)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17464)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16598)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16849)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14957)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14835)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22867)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16044)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16208)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15251)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26106)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17193)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15790)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19768)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17670)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14681)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14731)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19126)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15118)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33052)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17488)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19127)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21820)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23004)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16622)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16467)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16511)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22990)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26386)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12746)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29512)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27715)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25909)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18462)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant