Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cảm Niệm Phật Thích Ca Giáng Trần

13 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11503)
Cảm Niệm Phật Thích Ca Giáng Trần



CẢM NIỆM PHẬT THÍCH CA GIÁNG TRẦN

Hòa-Thượng Thích Huyền-Tôn
Email: htbaovuong@bigblue.net.au
---o0o---

Dẫn nhập : lời sám hối.

Kính lạy Ðấng Thế-Tôn,

Con phải nói thế nào khi mà con dùng tiếng nói của phàm phu chưa trọn vẹn cả tinh ba của ngôn ngữ con, để nói lên sự Giáng-trần cao tột của Như-Lai! Với tri kiến bé bỏng, với một vài lời thỉnh cầu của đạo bạn, con đã phải hạ bút giảng nói về Ngày Giáng Thế của Ðấng Từ Tôn, Ngày hoan lạc của Tứ-sanh, Lục-đạo, Ngày sáng chói Cao Thượng tuyệt vời! Tiếng nói của con tuy khô cằn, vụng dại nhưng cảm niệm của con là cả một không gian vui mừng, tán thán về một bậc Thầy, Cha lành của Tam Giới Ðại Thiên.

Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước 

Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh 

Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si 

Triệu ngàn năm vắng bóng đấng từ bi 

Giờ xuất hiện hào quang ngàn hào quang sáng 

Mùng tám ngày rằm tháng tư mừng Phật đản 

Ðức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian 

Giờ phút thiêng liêng 

Huy hoàng cõi tục 

Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc 

Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành 

Lớp lớp trời người bao quanh chúc tụng 

Tiếng nói đại hùng thiên thượng hạ độc tôn 

Sinh già bịnh chết kỳ thị khổ đau 

Ðể thay bằng : 

Bình đẳng giải thoát giác ngộ đại từ bi 

Trái đất loài người, 

Bổng biến thành cái nôi

của ba ngàn đại thiên thế giới 

Ma vương buồn gói túi "Dục" lang thang 

Dựng riêng một cõi thiên đàng

Thiên đàng là cửa bên trong là tù

Nhất tâm niệm Phật cho tù tiêu tan.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Bảo Vương, Vesak Day 1999)

Con kính lễ sám hối như tiếng reo của trẻ thơ đã lưu lạc trong hằng sa cát bụi, vào giờ phút vui mừng gặp lại đấng cha lành đã cứu vớt chúng con biết lối ra khỏi nẻo đường khổ đau, tử sinh.

Kính chư quí vị trong cõi nhơn thiên,

Nói đến Ðản Sanh về Ðức Phật, là nói đến sự hạnh phúc to lớn cho nhân loại, cho tất cả tam-giới. Vậy chúng ta thử xem lại có bao nhiêu từ ngữ trân quí nhứt mà hàng đệ-tử đã chọn để tôn kính ngày Ðức Phật xuất hiện vào cõi thế gian.

Những kỉnh từ thường dùng :

 Nam phái Phật-Giáo (nam tông) thì gọi là VESAK DAY. Và Tông-phái nầy không nhìn nhận chữ BUDDHA’S BIRTHDAY là đúng. (Anh Ngữ).

 Bắc Tông Ðại-Thừa Phật-Giáo thì : Ðản-Sanh. Giáng-Sanh. Giáng-Trần.

Giáng-Thế. Giáng-Phàm. Lâm-Phàm. Xuất-Trần. Giáng-thần. Khánh Ðản

Vậy Kỉnh Từ nào là đúng nhất?

 Ðã từ lâu, các chùa mỗi khi gần ngày Lễ mừng Giáng Trần thì đều thông bạch, thông báo, thông tư kêu gọi, nhắc nhở quần chúng Phật-Tử chuẩn bị mừng lễ Giáng Trần, khi dùng kỉnh-từ nầy có lúc trong một văn thư đoạn trước, đoạn sau phải đến hai kỉnh từ mà vẫn chưa thỏa nỗi niềm kính ân, trọng đức vô biên đối với Phật; là tại sao vậy?

 Thẩm xét điều đó, ta thấy rằng nội dung một số từ trong chín kỉnh-từ nầy, nó không đủ tầm vóc chuyên chở được cái tính chất vô cùng trọng đại, vô cùng tôn quí, khi mà phải trải qua thật nhiều thiên niên kỷ và cơ duyên đáo đỉnh mới có một Ðức Phật xuất hiện trong cõi đời.

Tỷ như ngày Ðức Phật Di-Lặc Giáng Trần vào thời gần nhứt là kiếp thứ mười, ấy thế mà vẫn phải còn hơn 16 triệu năm nữa.

 Ít ra, từ ngữ cung kỉnh nầy dù không toàn vẹn nhưng bản nghĩa của nó không thể hàm chứa cả nghĩa tốt và nghĩa không tốt, như thế là chữ đó, có tì vết.

Vậy chúng ta thử chọn bản nghĩa của một số từ nêu trên và, cân nhắc cái tính khả kính không nặng về thần quyền, không tì vết, mà đủ nghĩa tôn kínhbình dị, 1 hay 2 trong chín từ trên xem có trọn vẹn không ?

=Ðản Sanh: Chữ Ðản, khá quan trọng vì, được dùng nhiều nhất. Chữ Ðản đồng nghĩa với chữ Sanh. Riêng chữ sanh có nghĩa là sanh ra, sự sống, sanh thời là giờ sanh, lúc sanh. Nhứt sanh là suốt đời. Nhưng với chữ Ðản, thật có chút "buồn" vì bản nghĩa chữ "Ðản" có tì vết! Nghĩa chính của Ðản là -Sanh ra, To, lớn và cũng có nghĩa là nói sai, nói quàng, như ‘hoang đản’! Nếu Ðản làm trợ từ như Thánh-Ðản (ngày ra đời của bậc thánh). Phật-Ðản (ngày ra đời của Ðức Phật). Thực ra với từ nầy là do nhờ chữ Phật hay chữ Thánh làm chủ từ để từ đó chữ Ðản có độc nghĩa là sanh, phụ nghĩa là to lớn, vĩ đại. Nói khác đi nếu không phải là chủ từ Phật, Thánh thì bản nghĩa tì vết của chữ "Ðản" khó mà dấu cho nó kín được. Tóm lại, từ Ðản tuy không có tính thần quyền, không thần thánh hóa, rất bình dị nhưng có tì vết ! Ðể lên bàn cân thì tỉ lệ tì vết chiếm 10 phần trăm. Không biết có nên xưa bày nay theo hay không?

Chữ "Lâm Phàm" thì gần đây có vài chỗ dùng tới. Tuy nhiên hai chữ nầy đều cùng giọng bình, nên nghe êm tai, nhưng bản nghĩa thì tầm thường. Vì Lâm là đến, như mời khách đến là "quang lâm" . Nhưng mà, lâm-phàm tức là không phải người ỏ cõi phàm rồi; thâm ý là Thánh Nhân từ cõi siêu việt đến. Dù thâm ý là như vậy, nhưng nếu từ hành tinh khác đến thì sao ? Nếu dùng Mừng Ngày Lâm Phàm, thì quả thật ai đó còn ấu trỉ về hán tự nhiều lắm.

Chữ Giáng? -Giáng nghĩa là xuống, từ cõi trên (cõi trời). 

-Giáng Trần: Từ cõi Trời xuống cõi trần gian.

-Giáng sanh: Từ cõi trời xuống sanh ra ở cõi người. -(đừng lầm chữ "trời" là thượng-đế).

-Giáng thế : Từ cõi trời xuống cõi thế gian. Giáng ở đây, hàm ý theo cơ duyên đầy đủ, tới thời cơ, rồi tự ý của đấng siêu việt đó xuống cõi trần gian, tuy có mang một phần ý nghĩa siêu huyền , những văn tự biểu trưng rất tôn kính.

 Nếu hỏi, vậy thì vị quan chức bị tước bỏ phẩm vị cao, tuột xuống ở vị thấp cũng gọi là giáng, như "giáng chức" có liên quan gì chữ Giáng nầy không? Ðó là từ đồng nghĩa, giáng của bị ép buộc khác hẳn với giáng của tự tại nhiều lắm.

 Tóm lại, trong số chín kỉnh từ thì: Giáng Trần, Giáng-Thế và Giáng Sanh mang đầy đủ tính cách cao quí nhiều hơn.

 Nhưng, cũng có người không mấy muốn dùng kỉnh từ giáng sanh, (giáng sinh) vì từ đó Gia-Tô-Giáo đã sử dụng gần như một quen thuộc.

blank blank

Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc 

Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành 

Lớp lớp trời người bao quanh chúc tụng 

Tiếng nói đại hùng thiên thượng hạ độc tôn  

 Một điều cũng cần biết rõ, chư Phật trước khi Giáng Trần đều cùng ở trong nội viện cõi Trời Ðâu-Suất. Trời ở đây là các cõi Thiên-giới khác hẳn với loại trời của ngoại đạo. Phật dạy: Trời vẫn là chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, khi hưởng hết thiên phước thì lại sa đọa. Do đó, các cõi trời đều phải tạo phước lành lớn. Phước lớn nhứt mà các vị Thiên Chủ ưa thích là được chăm sóc, giúp đỡ chư Phật lúc Giáng Trần, lúc Phật nói pháp v.v... như vị Thiên Chủ Ðế Thích đã đem tấm lụa Ðâu-la-miên để nâng ẵm thân Phật trong giờ sanh thần của Ðức Phật dưới gốc cây Vô-Ưu.

Ngày Giáng Trần của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni Thỉ Tổ Ðạo Phật :

  Bình-Minh lúc bấy giờ, Ngày 15 (rằm) Tháng Tư AÂm-lịch Năm Ðinh-Dậu (năm 624 trước Tây-Lịch. Nếu trước BC thì 623) <xem rõ phần dưới -Giáng-thế>

 Bầu không gian trên mặt Ðịa-cầu trong xanh như ngọc thạch, không gợn một tí mây đen. Aùnh sáng bình-minh của Thái-Dương đang trồi lên từ phương-đông, ánh sáng của ngày hôm nay thật kỳ diệu, xòe dài đủ năm màu rực rỡ bao quanh mặt đất phủ ngập đến phương tây.

 Thái-Tử Tất-Ðạt-Ða đã Giáng-Thế lên tấm lụa Ðâu-La-Miên trên bàn tay của Thiên-Ðế chúa tể cõi trời Ðao-Lợi.

*Ngày Giáng Thế theo đúng năm Sanh : 

-Ngày sanh 15/4 /Âm-Lịch / năm Ðinh-Dậu. Tr.Tây L: 624 năm. -Hồng-Bàng kỷ năm 2.256 (tức VN Quốc-Lịch 2256).

Tàu : Vua Tương-Vương Nhà Châu năm thứ 28. Mục-Công phá Tấn làm Bá ở Tây-Nhung.

Hiện nay : Phật Giáng Trần 2.627 Năm . Quí Mùi . VL 4882. (Tây Lịch 2003.).

 Ðiều quan trọng lớn cho tất cả những người đích thực hiểu biết : "Ðối với tất cả các Thánh Nhân, tùy mức độ siêu việt, mỗi khi ra đời đều sinh vào hai thời giờ :

1. Ðại thánh nhân -Từ Bình Minh đến Ngọ. (Phật, Tổ Ca-Diếp ....)

2. Khác phàm -Ðúng giờ Tý (qua 0 giờ). (Tổ Huệ-Năng, Các Tổ, Lão Ðam, Khổng..)

Ngoài ra, những vị sanh trong đêm, đen tối bao phũ, bão táp hãi hùng; người trong nhà không dám ra đường, thường nhân cũng là kẻ gây tổn hại cho xóm làng bè bạn! Nếu có kỳ tích thì là ác ma, hoặc do sự phóng đại của kẻ đầu cơ trục lợi và sẽ gây nhiều tai vạ chết chóc đảo điên cho nhân thế. (như Mác, Hồ, Mao.. và các tà đạo đen điu khác!) 

 Gần đây, qua bốn thập niên Ðại-Hội PG thế giới, tại Columbo năm 1950 (Tích-Lan) đã quyết định ba sự kiện thật quan trọng : "Phật-Giáo toàn thế-giới phải thống nhất: -Cờ Phật-giáo. -Ngày Phật Giáng Trần. -Phật-Lịch." Phật Giáng trần - Phật Niết Bàn , đều lấy ngày “Trăng Tròn” = rằm.

 Ðại biểu chấp thuận bằng lá phiếu (giơ tay)! và phải là đa số. Một số Tăng-Già Bắc-Tông cũng đề cập đến việc ăn chay để tăng trưởng từ bi và diệt sát ngiệp. Nhưng, vì chư Tăng Nguyên-thỉ Nam-Tông (tiểu thừa) vì do tông chỉ khất-thực người thí chủ cho thứ gì thì không ăn thứ khác được.(Bất lập yên soán, nên không có thứ khác để ăn). Cho nên tùy duyên mà thọ thực.

Ðại hội nầy chấp nhận : Lá cờ 5 màu : Tượng cho Ngũ-Căn, Ngũ-lực. Và cũng gói trọn ý tứ "Ngũ châu nhân chủng. Ðồng thời cũng biểu trưng cái ly, Thánh nhân cũng từ trong cõi Ta-Bà, ngũ thú tạp cư mà ra.

 Ngày Giáng Trần của Ðức Bổn-Sư thì Ðại Hội quyết định ngày Trăng tròn Rằm tháng tư âm-lịch. (Vesak Day). Vùng Á-châu từ xa xưa đều mừng lễ vào Ngày mùng 8 tháng tư AÂm-lịch.

 Dù trong bước ngoặc thay đổi niên đại lịch-sử quả có lớn lao, và vì tính chất thống nhất, Giáo-Hội Tăng-Già VN và Châu Á, không thể theo hẳn mới, mà bỏ cũ, nên từ đó có Danh-Từ -MÙA PHẬT ÐẢN (Khai Lễ từ 8/4 AÂm-lịch, cho đến hết ngày 15/4. Cũng gọi là Tuần Lễ Phật-Ðản). Ðiểm nầy càng tuân thủ vững mạnh, vì có liên quan đến sự cố tiêu diệt PGVN của chế-độ độc tài thời Diệm 1954-1963 trong kế hoạch nhuộm đen đất nước Việt Nam.

   Về Phật-Lịch : Thì Ðại-hội rất là sôi nổi, nhìn vào đại-biểu thì có cả 500 vị tỳ-khưu ! Nhưng Tỳ-khưu của Ðại-thừa Bắc Tông vỏn vẹn chỉ có 11 vị ! (Trong đó có Cố Hòa-Thượng Mật-Hiển và HT Tố-Liên. Ðại biểu cho VN ). Giả dụ mà 11 vị nầy cho phép mỗi vị được 5 phiếu. Thì cũng chỉ tới 55 phiếu. Tăng Nam Tông Vẫn giữ 445 phiếu thuận). Thực chất Á-châu có quyền đề và quyết, nhưng kết quả quá thiểu số, chẳng khác gì đi dự thính để về tường trình lại mà thôi.

  Tăng Bắc tông thì nói: Ðã gọi là lễ mừng Phật Giáng Trần (Ðản Sanh) thì Phật-Lịch phải lấy theo ngày sanh. Vì có Ðản-Sanh mới có Phật, Thành Ðạo, Niết-bàn đều do đó mà ra.

  Nam Tông lại nói : Ðời Ðức Phật Niết-Bàn là trọng đại nhất. Chưa Niết bàn lấy gì có lịch và... 445 phiếu! Chư Tăng Bắc Tông: Chỉ còn biết " Nam Mô A Di Ðà Phật". (VN 2. Ðai-Hàn 2. Nhựt 2. Trung-Hoa 5. +11 Ðại Biểu).

 Và từ đó Phật-Lịch tính từ năm Phật Niết Bàn. “-P.Ðản 2574. PLịch : 2494. Năm Canh-Dần. Việt-Lịch : 4829.” (Tây-L: 1950). Ðiều nầy, có ai không biết làm lễ Phật Ðản thì Ngày Giáng Sanh là quan trọng! Nếu lấy lịch Niết-Bàn để Mừng Phật-Ðản thì quả là ngớ ngẩn đáng trách, vì lịch sử sẽ mất đi {80} năm cổ kính. Do đó Phật-Giáo Bắc Tông vẫn giữ Ngày Giáng-Trần (Từ mùng 8 đến 15/4. Rằm là chính), những cũng ghi nhận Ngày, tháng năm Phật-Lịch Niết-Bàn vào các Thông-Bạch trong mùa Phật-Ðản. Coi như ngày tháng ấy viết trên đầu thư văn. Chứ không phải Thông-Ðiệp hay Thông Bạch Phật Ðản mà tuyên nói năm Niết-Bàn! Càng tệ hại hơn là Thông Tư Phật Ðản rồi kèm năm Tây Lịch vào !?! Tại sao lại cố ý “bôi đen” ngày Ðản Sanh như vậy !?. Sự viết lách lười biếng đó, là một cẩu thả đến độ “mất gốc”!

 Thí dụ : - Mừng Phật Ðản 2547! (Mừng kiểu nầy thật tội nghiệp cho Phật Giáo!)

 - Mừng Phật Ðản 2003! (Mừng kiểu nầy áo vàng nên nhuộm đen là vừa!)

Theo Niết-Bàn : Ngày 15/2 Âm-Lịch/ năm Bính-Thìn. Tr.Tây-Lịch: 545 năm. (nếu sau Niết Bàn 1 năm mới tính, thì 544 tr.LL). -Hồng-Bàng kỷ năm 2.335 (tức VN Quốc-Lịch 2335)

Bấy giờ bên Tàu : Vua Linh-Vương Nhà Châu, năm thứ 27.

Lão-Tử (Lão-Ðam. Lý-Nhĩ) 27 tuổi (sinh 571 BC) Canh-Dần.

Khổng-Tử (Khâu-Trọng-Ni 06 tuổi (sinh 551 BC) Canh-Tuất.

Hiện nay : Phật-Lịch : 2.547. Quí Mùi . VNQL 4.882. (Tây-Lịch 2003)

-Ý nghĩa đoạn nầy, so sánh là: Lão-Tử sinh lúc Ðức Phật 54 tuổi.

-Ðức Phật Niết-Bàn. Lão-Tử 27 tuổi.

-Khổng-Tử sinh năm Canh-Tuất (TTL 551) Ðức Phật 74 tuổi.

-Ðức Phật Niết-Bàn. Khổng-Tử vừa đúng 06 tuổi.

Năm Tr.TL 534 Khổng-Tử 20 tuổi, đến học đạo với Lão-Tử . Sau Phật Nhập-Diệt 11 năm. (Lý do tôi viết đoạn nầy, là vì nhiều người viết sử đã lẫn lộn hai chữ "Ðồng thời" trong niên đại Phật/ Lão/ và Khổng-Tử).

Tại Sao Ðức Phật Chọn Ấn-Ðộ Ðể Làm Nơi Thị Hiện Giáng Thế?

 Giải thích điều nầy căn cứ vào mấy nhân duyên như sau:

1. Cơ Duyên Hóa Ðộ.

2. Ðạo Lý Bình đẳng chuyển hóa Các Pháp Thế-Gian.

3. Sanh Già Bịnh Chết của chúng sanh.

4. Ðệ nhất nghĩa Tất-Ðàn.

1.Cơ Duyên Hóa Ðộ :

*-Thiện-Huệ Bồ-Tát, tại Nội-viện cung trời "Ðâu-Suất-Ðà-Thiên" vì thấy :

-Giáo lý của Ðức Cổ Phật Nhiên-Ðăng đã hết không còn tồn tại trên cõi đời Nhân loại chúng sanh, hiện đầy năm thứ ác trược (kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trượcMạng trược).

-Ấn-Ðộ là một địa phương đã và đang xảy ra các giai cấp tồi tệ nhất, ngược đãi bất bình đẳng nhất trên địa-cầu. Mức độ kỳ thị trong một nhân chủng giữa quí tộc và thường dân, họ đối xử nhau chẳng khác gì một viên ngọc và cục bùn thối.

Giai cấp ấy : 1/ Dòng Bà-La-Môn : (Brahmanes) Hàng giáo-sĩ, thống trị tinh thần, chủ tế, họ cho là họ sinh ra từ miệng Phạm-thiên, hàng sướng nhất...

2/ Dòng Sát-đế-lỵ : (Kastryas) sinh ra là vua chúa, quan quyền).

3/ Dòng Phệ-xà : (Vaisyas) sinh ra là thường dân, nông nghiệp, mua bán ....

4/ Dòng Thủ-đà-la : (Soudras) Hạ tiện, nô lệ, khổ sai cho 3 cấp trên , khổ sai suốt đời ...

5/ Dòng Ba-Ri-A: (Pariahs) Dân mọi rợ, ngoài lề xã-hội, xem như súc vật, dọn phân, làm việc ô uế, vô cùng tồi tệ.

Một, trong trăm ngàn thực thi Bình-Ðẳng của Phật, Ðức Phật đã nắm tay của một Ba-Ri-a đem về tắm rửa và cho mặc áo tỳ-khưu và độ vào hàng Tăng chúng. (Vua chúa rất bất bình cho đến khi vị nầy chứng quả A-La-Hán)

-Hoàng-Gia Tịnh-Phan-Vương và vô số những người trong dòng họ Kiều-Tát-La Thích-Ca, trải qua nhiều kiếp về quá-khứ đã quy kỉnh về Ðức Phật, tu, nghe pháp và tương quan trong sứ mệnh hộ trì Phật Pháp và được giải thoát trong kiếp cuối cùng.

thai-lifbud-15.gif (58887 bytes) thai-lifbud-16.gif (50225 bytes)

Giác Ngộ: vào buổi sớm mai vào ngày trăng tròn tháng tư (tháng Vesak), năm 590 trước Tây lịch, Đức Phật thực chứng Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguyên Nhân của Khổ, sự Diệt Khổ, và Con Đường Diệt Khổ.


 
 

Ba người con gái của Ma vương tìm mọi cách để quyến rũ Ngài. Nhưng họ đều thất bại. 

 2. Ðạo Lý Bình Ðẳng chuyển hóa các pháp thế gian :

*-Giáo-lý của Phật-Ðà không những đã đem lại cái nhìn và đời sống tương thân, tương kính, tương trợ cho bốn dòng họ giai cấp bấy giờ, mà còn đem cho Ấn-Ðộ nói riêng và chúng sanh nhân loại nói chung một Phật chất bình-đẳng :

"Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành, và Ðức Phật nhấn mạnh : Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh" . Ðồng nghĩa là Mọi loài đều có khả năng thành Phật.

 Một tiếng nổ sấm sét của Pháp-Âm lớn đã làm bàng hoàng sững sốt cho 52 triết thuyết tôn-giáo : Nào là thượng đế chúa tể sanh muôn loài ! Nào nhất thần thống trị vạn vật ! Nào khổ hạnh cùng cực để về trời thiên đường ! Nào sát hại vô số sinh vật để dâng cúng thần linh rồi được ân huệ về cõi trời v.v và vv...

Pháp-Âm-Lớn là : Tất cả các Pháp Thế-Gian và kể cả xuất thế gian đều do: NHÂN DUYÊN SINH. -Nhân Thiện -Y-Báo, Chánh báo Thiện.

-Nhân ác-Y-báo, Chánh Báo ác .

Và chính con người mới là trung-tâm điểm tùy hành động làm Nhơn, phó sản của hành động làm Duyên mà sinh hóa trong Sáu cõi: Trời, Người, A-Tố-Lạc, Ðịa-ngục, Ngạ-Quỉ và Súc-Sanh. Chứ không hề có một đấng hay thần linh nào có quyền ban ơn, thưởng phạt cho ai cả. Tin như thế là Chánh ! Ngược lại là Tà.

 3. Sinh. Già. Bịnh. Chết của Hữu Tình Thế Gian:

Trong kinh Vô-Thường Ðức Bổn-Sư nói rõ: Ta xuất hiện vào cõi đời ác trược chính vì ba sự kiện: Già Bịnh Chết của chúng sanh. Vì muốn diệt những khổ đau thống thiết Sinh Già Bịnh Chết của hữu tình thế gian mà Phật-Ðà ra đời.

Về điểm nầy, những chúng sanh tri kiến còn nhiều hữu lậu đã ôm một khối hoài nghi: " Từ Phật Niết-Bàn đến nay đã qua 2543 năm, hơn hai rưỡi thiên niên kỷ rồi nhưng loài người và sinh vật chung nào đâu đã chấm dứt sinh tử luân hồi??? Khổ đau cũng vẫn mãi triền miên!!! Vậy hoài nghi nầy có tội báo gì không?

Hoài nghihoài nghi ! Không có tội báo gì hết ! Hoài-nghi cũng như một nghi tình.

Tuy nhiên, hoài nghi phải có một giờ phút chung cuộc giải tỏa mối hoài nghi đó. Một hoài nghi điên cuồng, do chấp thường, chấp đoạn tự cố ôm giữ cái mối hoài nghi mê muội cũng như một cái thùng bằng thủy tinh mà cố chứa phân nhơ vào đó, nhiều lẽ phải khuyên ta, nên súc bỏ đi để chứa món đồ giá trị vào thùng thủy tinh đáng giá, mà ta không nghe: thì cái thùng giá trị đó vẫn mãi mãi bị chứa phân nhơ. Sở-tri-chướng tà ngụy đó sẽ chôn ta trong muôn đời sanh tử.

Ðể sáng tỏ thêm, bạn nghĩ sao? Khi Giáo-Lý Phật-Ðà trên 5 tỷ người ! Phật-giáo 1 tỷ. Gia-Tô-Giáo cả tỷ. Hồi-Giáo cũng cả tỷ, ngoài ravô số thứ giáo và có vô số thứ không giáo, tạp giáo. Những giáo thuốc độc, giết người... họ gây ra vô số tai họa cho nhân loại, cho vô số các sinh vật khác trên thế gian. Như bạn hiểu đã gây nhân ác thì bị quả ác. Vậy vô số ác nhân, tất phải có vô số ác quả! Cố gây ác nhân như vậy bảo ngày nào mới chấm dứt sanh Lão Bịnh Tử?

Còn nữa, Chiến tranh trên giòng ý-thức-hệ , giết nhau vì lời nói, vì chủ nghĩa, vì kinh-tế / thương mại/ thổ trạch, vạn thứ trên không, trên bộ, trên biển cả trong rừng sâu v.v... Họ đà tuân giữ, tu trì Giáo-lý Phật-Ðà hết chưa ? mà bạn còn phải hoài nghi?! Con bìm-bịp, con mèo, con dơi, con muỗi v.v...chưa hóa kiếp làm người thì ánh sáng dù có sáng cũng không thích thú gì với xu hướng của nó. Tất cả các nghiệp-duyên và nghiệp-lực đó làm động-cơ để phát triển cho bánh xe luân-hồi cứ quay và kéo theo chuỗi sinh già bịnh chết bất tận, chứ không phải Giáo-Pháp Ðộ sanh của Phật không giải thoát đối với chúng sanhtu trì phương pháp của Phật.

Thật vậy, chúng sanh tự có Phật tánh, những chúng sanh mê muội phủ nhận, không lẽ Thế-gian Tam-Bảo kéo Phật-tánh họ ra mà tắm được sao? Chúng sanh đang đói, cơm giải-thoát đã có đây, các người hãy ăn đi, kết quả sẽ được no !

Nhưng chúng sanh nhìn cơm với hời hợt hoài nghi! lại còn phỉ báng! Thế gian Tam-Bảo đâu có thể mổ bụng mà nhét cơm vào được. Non 4 tỷ người chưa về với chơn lý giải thoát, lại đang tiếp diễn gây khổ quả cho nhau. Chính bạn hãy bước vào lãnh vực thực thi và tuyên dương Phật Pháp. Lòng từ bi đó của bạn, của các bạn của bạn cùng hân hoan đồng tu Phật-pháp thì Sinh Già Bịnh Chết sẽ dần lui và thế-giới Ta-Bà sẽ biến thành Tịnh-Ðộ. Phật Giáo không có cái chuyện, anh không chịu ăn cơm thì làm phép lạ cho cơm tự chui vào bụng anh và anh muốn đói cũng không được.

4. Ðệ Nhất Nghĩa Tất Ðàn:

 Với Phật, Chơn Tánh và Hữu-Vi cũng vẫn là "Không".

Từ đó, chúng ta hiểu rằng: Ðức Phật Giáng thế là "Thị Hiện" vào thế giới Ðịa-Cầu, một hành-tinh trong Ba Ngàn Tỷ hành tinh. Danh từ chung của 3000 tỷ thế giới gọi là TA BÀ THẾ GIỚI. Một phạm trù thế giới thuộc về Uế Ðộ.

Trong Ðại-Thừa Pháp-Hoa Kinh : Ðã nói lên mục-đích Giáng-Trần vô cùng tối yếu của Phật là vì :

 *Khai hóa cho chúng sanh biết, chúng sanh có Tri-Kiến-Phật. (Khai).

 *Bày tỏ cho chúng sanh thấy, chúng sanh có cùng Tri-Kiến như Phật.(Thị).

 *Dạy pháp nhứt-thừa cho chúng sanh, Ngộ được Tri-Kiến-Phật.(Ngộ).

 *Dẫn dắt chúng sanh Vào tận cùng trong Tri-Kiến Phật. (Nhập).

***Do nguyên nhân đó, nên :

 Ngày 15.04. cách đây 2627 năm dưới cây Vô-Ưu trong Vườn Lam-Tỳ-Ni, Bồ-Tát Thiện-Huệ thị hiện trong Phàm thân, con Vua Tinh-Phạn và Hoàng-Hậu Ma-Da-Phu-Nhân. Khi Giáng-sanh Ngài đã đi bảy bước trên bảy đóa sen Hồng và Ngài tuyên bố, tiếng nói bản xứ của loài người : "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Ðộc Tôn" (Từ trên cõi trời dưới đến thế gian chỉ có ta là bậc thế Tôn). Dĩ nhiên bấy giờ có thiên đế, chư thiên hộ vệ bên ngài.

 Ðoạn lịch sử trên, ngàn năm sau còn có những chất vấn xâm phạm, tại sao Bậc xuấát thế lại tự tôn cái ngã to lớn của Ngài như thế? Bởi tại vì chúng ta chưa am hiểu nghĩa Tất-Ðàn?

 Tất-Ðàn cũng là một, là Ðệ-Nhất-Nghĩa : Từ nơi vô lượng pháp-môn để đối trị vô-lượng phiền não, và rột cuộc chỉ có Ba Thừa. Từ ba thừa chỉ còn Một Thừa. Rốt ráoTánh Không. Nghĩa là tất cả Pháp tánh trên Pháp tướng đều không. Tánh đã không thì tướng làm sao tồn tại được. Cùng nghĩa nầy mà ở Lăng-Nghiêm thì Phật nói là Chơn-Như.

 Lời nói khi Biểu thị cái tướng Tay chỉ thượng và Tay chỉ hạ đó là cốt lỏi của kinh Pháp Hoa sẽ nói vào năm 65 năm sau. Nếu câu nói nầy mà theo ý Việt : “ Trên 33 và 28 cõi trời, dưới khắp nhân gian trong Ta-Bà chỉ có “Ta” (Nói với con ) mới chính là Từ Phụ (Ðạo Sư) đưa chúng sanh ra khỏi sanh tử..”. Có lẽ sự hoài nghi không móng lên trong trí tưởng của phàm phu con người.

 Thuật-ngữ đó, cũng như Người Cha Tôn quí của gia-đình, vòng quanh lâu năm, giờ về lo sửa sang giáo dục gia-đình, đến nỗi xa lạ với con cháu ! Ông cha phải nói to lên trước sự ngơ ngác của con cháu: "Ta là Cha thương quí của các con đây" những đứa khờ dại thầm thì: sao Cha mình cao ngạo quá thế nhỉ ! Phỏng có được không?

 Phạm trù Ta-Bà có tới 3000.000000000 (3 ngàn tỷ). Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Ðang hóa độ chúng sanh trên phạm trù này. Ðứng về mặt sinh diệt, ta nói có giáng thế, có Niết-bàn. Nhưng về mặt hóa-độ Ðức Phật không hề có Sanh, Diệt, Khứ, Lai gì cả, đó là chơn chánh tin Phật. Vậy lời nói của Cha với các con không hề mang ý cao ngạo. Như kẻ tà đạo Kính-hiển-Vi đã nhạo bán PG năm 1932. (Báo Viên Âmgiải thích. Rồi đến [Tập Tranh Luận] của Ðoàn Thanh niên PH Ðức Dục, lên diễn đàn với lý luận “tầm sét” Kính-hiển-Vi đành rút về với bóng tối màu đen cố hữu.

  Sự Thị Hiện Về Thời Gian Trong Cuộc Ðời Hóa Ðộ Của Ðức Phật:

1. Giáng Thế: 15.04 ÂL. Năm Ðinh-Dậu. Việt-Lịch: 2256. (Tr.TL: 624 .)

2. Hiếu ân : 19 tuổi. Năm Ất-mẹo. VL: 2274 ( TTL: 606 .) (Vua cha bắt buộc Thái-Tử lập hoàng-phi mới đồng ý cho xuất gia)

3. Xuất-Gia : M 8/2 năm Ất-Sửu 29 tuổi. VL : 2284. (TTL:596. ).

4. Giác Ngộ : 8/12 năm Tân-Mùi 35 tuổi. VL 2290. (TTL: 590.)

5. Giáo Hóa : Từ 35 đến 80 tuổi (45năm Thuyết Pháp hóa độ vô số người Ngộ Ðạo)

6. Niết Bàn : 15/2 . 80 tuổi. Năm Bính-Thìn. VL : 2335. (TTL: 545. ). (Lão-Tử 27 tuổi) (Khổng-Tử 6 tuổi).

Ðể cúng dường ngày lễ mừng Giáng Trần của Phật, con viết bài Giảng nầy trong phạm vi Giáng-Thế và không hề Có Kết Luận:

 Vì, như trên con đã sám-hối về sự viết lách vụng dại, thì giờ đây con lại càng không thể kết luận được những Nghi Biểu, Tướng Mạo và Ðức Hạnh Vô-lượng, Vô-Biên của Phật, đủ Thập Hiệu Thế-Tôn. Con làm sao ca ngợi được 32 tướng tốt của Phật, 80 vẻ đẹp đều từ nơi vô lượng kiếp tu hành, lòng từ bi đó cả đời kiếp con đảnh lễ không đủ được. Ðức nhẫn nhục của Phật dù bị chặt đứt hết tay chân Phật vẫn mĩm cười! Ðể cho kẻ thù địch chặt đầu không hề hối tiếc! Ðem thân cứu đói cho cọp v.v... Ôi! Muôn vàn đức hạnhchúng sanh, cho chúng sanh trong vô số kiếp xa xưa về trước và trên phạm trù Ta-Bà mãi mãi về sau. Con ngồi viết suốt đời cũng không kết luận được. Con chỉ biết khể thủ:

Nhứt Tâm Ðảnh Lễ, Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Ðản Sanh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Thế Tôn.

(Bài Giảng Theo Thể Cảm Niệm Mừng Phật Thích Ca Giáng Trần 2623)

Mùa Giáng-Thế năm 2627
Phật-Lịch 2547
Việt-Nam Quốc-Lịch 4882
Viết Năm Âm-Lịch năm Quý Mùi (Tây-Lịch 2003).

Cảm Niệm
Phật Thích Ca Giáng Trần

Hòa-Thượng Thích Huyền-Tôn
Email: htbaovuong@bigblue.net.au
---o0o---

Dẫn nhập : lời sám hối.

Kính lạy Ðấng Thế-Tôn,

Con phải nói thế nào khi mà con dùng tiếng nói của phàm phu chưa trọn vẹn cả tinh ba của ngôn ngữ con, để nói lên sự Giáng-trần cao tột của Như-Lai ! Với tri kiến bé bỏng, với một vài lơì thỉnh cầu của đạo bạn, con đã phải hạ bút giảng nói về Ngày Giáng Thế của Ðấng Từ Tôn, Ngày hoan lạc của Tứ-sanh, Lục-đạo, Ngày sáng chói Cao Thượng tuyệt vời ! Tiếng nói của con tuy khô cằn, vụng dại nhưng cảm niệm của con là cả một không gian vui mừng, tán thán về một bậc Thầy, Cha lành của Tam Giới Ðại Thiên.

Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước 

Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh 

Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si 

Triệu ngàn năm vắng bóng đấng từ bi 

Giờ xuất hiện hào quang ngàn hào quang sáng 

Mùng tám ngày rằm tháng tư mừng Phật đản 

Ðức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian 

Giờ phút thiêng liêng 

Huy hoàng cõi tục 

Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc 

Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành 

Lớp lớp trời người bao quanh chúc tụng 

Tiếng nói đại hùng thiên thượng hạ độc tôn 

Sinh già bịnh chết kỳ thị khổ đau 

Ðể thay bằng : 

Bình đẳng giải thoát giác ngộ đại từ bi 

Trái đất loài người, 

Bổng biến thành cái nôi

của ba ngàn đại thiên thế giới 

Ma vương buồn gói túi "Dục" lang thang 

Dựng riêng một cõi thiên đàng

Thiên đàng là cửa bên trong là tù

Nhất tâm niệm Phật cho tù tiêu tan.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Bảo Vương, Vesak Day 1999)

Con kính lễ sám hối như tiếng reo của trẻ thơ đã lưu lạc trong hằng sa cát bụi, vào giờ phút vui mừng gặp lại đấng cha lành đã cứu vớt chúng con biết lối ra khỏi nẻo đường khổ đau, tử sinh.

Kính chư quí vị trong cõi nhơn thiên,

Nói đến Ðản Sanh về Ðức Phật, là nói đến sự hạnh phúc to lớn cho nhân loại, cho tất cả tam-giới. Vậy chúng ta thử xem lại có bao nhiêu từ ngữ trân quí nhứt mà hàng đệ-tử đã chọn để tôn kính ngày Ðức Phật xuất hiện vào cõi thế gian.

Những kỉnh từ thường dùng :

 Nam phái Phật-Giáo (nam tông) thì gọi là VESAK DAY. Và Tông-phái nầy không nhìn nhận chữ BUDDHA’S BIRTHDAY là đúng. (Anh Ngữ).

 Bắc Tông Ðại-Thừa Phật-Giáo thì : Ðản-Sanh. Giáng-Sanh. Giáng-Trần.

Giáng-Thế. Giáng-Phàm. Lâm-Phàm. Xuất-Trần. Giáng-thần. Khánh Ðản

Vậy Kỉnh Từ nào là đúng nhất ?

 Ðã từ lâu, các chùa mỗi khi gần ngày Lễ mừng Giáng Trần thì đều thông bạch, thông báo, thông tư kêu gọi, nhắc nhở quần chúng Phật-Tử chuẩn bị mừng lễ Giáng Trần, khi dùng kỉnh-từ nầy có lúc trong một văn thư đoạn trước, đoạn sau phải đến hai kỉnh từ mà vẫn chưa thỏa nỗi niềm kính ân, trọng đức vô biên đối với Phật ; là tại sao vậy ?

 Thẩm xét điều đó, ta thấy rằng nội dung một số từ trong chín kỉnh-từ nầy, nó không đủ tầm vóc chuyên chở được cái tính chất vô cùng trọng đại, vô cùng tôn quí, khi mà phải trải qua thật nhiều thiên niên kỷ và cơ duyên đáo đỉnh mới có một Ðức Phật xuất hiện trong cõi đời.

Tỷ như ngày Ðức Phật Di-Lặc Giáng Trần vào thời gần nhứt là kiếp thứ mười, ấy thế mà vẫn phải còn hơn 16 triệu năm nữa.

 It ra, từ ngữ cung kỉnh nầy dù không toàn vẹn nhưng bản nghĩa của nó không thể hàm chứa cả nghĩa tốt và nghĩa không tốt, như thế là chữ đó, có tì vết.

Vậy chúng ta thử chọn bản nghĩa của một số từ nêu trên và, cân nhắc cái tính khả kính không nặng về thần quyền, không tì vết, mà đủ nghĩa tôn kínhbình dị , 1 hay 2 trong chín từ trên xem có trọn vẹn không ?

=Ðản Sanh : Chữ Ðản, khá quan trọng vì, được dùng nhiều nhất. Chữ Ðản đồng nghĩa với chữ Sanh. Riêng chữ sanh có nghĩa là sanh ra, sự sống, sanh thời là giờ sanh, lúc sanh. Nhứt sanh là suốt đời. Nhưng với chữ Ðản, thật có chút "buồn" vì bản nghĩa chữ "Ðản" có tì vết ! Nghĩa chính của Ðản là -Sanh ra, To, lớn và cũng có nghĩa là nói sai, nói quàng, như ‘hoang đản’ ! Nếu Ðản làm trợ từ như Thánh-Ðản (ngày ra đời của bậc thánh). Phật-Ðản (ngày ra đời của Ðức Phật). Thực ra với từ nầy là do nhờ chữ Phật hay chữ Thánh làm chủ từ để từ đó chữ Ðản có độc nghĩa là sanh, phụ nghĩa là to lớn, vỹ đại. Nói khác đi nếu không phải là chủ từ Phật, Thánh thì bản nghĩa tì vết của chữ "Ðản" khó mà dấu cho nó kín được. Tóm lại, từ Ðản tuy không có tính thần quyền, không thần thánh hóa, rất bình dị nhưng có tì vết ! Ðể lên bàn cân thì tỉ lệ tì vết chiếm 10 phần trăm. Không biết có nên xưa bày nay theo hay không ?

Chữ "Lâm Phàm" thì gần đây có vài chỗ dùng tới. Tuy nhiên hai chữ nầy đều cùng giọng bình, nên nghe êm tai, nhưng bản nghĩa thì tầm thường. Vì Lâm là đến, như mời khách đến là "quang lâm" . Nhưng mà, lâm-phàm tức là không phải người ỏ cõi phàm rồi; thâm ý là Thánh Nhân từ cõi siêu việt đến. Dù thâm ý là như vậy, nhưng nếu từ hành tinh khác đến thì sao ? Nếu dùng Mừng Ngày Lâm Phàm, thì quả thật ai đó còn ấu trỉ về hán tự nhiều lắm.

Chữ Giáng ? -Giáng nghĩa là xuống, từ cõi trên (cõi trời). 

-Giáng Trần: Từ cõi Trời xuống cõi trần gian.

-Giáng sanh : Từ cõi trời xuống sanh ra ở cõi người. -(đừng lầm chữ "trời" là thượng-đế).

-Giáng thế : Từ cõi trời xuống cõi thế gian. Giáng ở đây, hàm ý theo cơ duyên đầy đủ, tới thời cơ, rồi tự ý của đấng siêu việt đó xuống cõi trần gian, tuy có mang một phần ý nghĩa siêu huyền , những văn tự biểu trưng rất tôn kính.

 Nếu hỏi, vậy thì vị quan chức bị tước bỏ phẩm vị cao, tuột xuống ở vị thấp cũng gọi là giáng, như "giáng chức" có liên quan gì chữ Giáng nầy không ? Ðó là từ đồng nghĩa, giáng của bị ép buộc khác hẳn với giáng của tự tại nhiều lắm.

 Tóm lại, trong số chín kỉnh từ thì : Giáng Trần, Giáng-Thế và Giáng Sanh mang đầy đủ tính cách cao quí nhiều hơn.

 Nhưng, cũng có người không mấy muốn dùng kỉnh từ giáng sanh, (giáng sinh) vì từ đó Gia-Tô-Giáo đã sử dụng gần như một quen thuộc.

blank blank

Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc 

Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành 

Lớp lớp trời người bao quanh chúc tụng 

Tiếng nói đại hùng thiên thượng hạ độc tôn  

 Một điều cũng cần biết rõ, chư Phật trước khi Giáng Trần đều cùng ở trong nội viện cõi Trời Ðâu-Suất. Trời ở đây là các cõi Thiên-giới khác hẳn với loại trời của ngoại đạo. Phật dạy : Trời vẫn là chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi, khi hưởng hết thiên phước thì lại sa đọa. Do đó, các cõi trời đều phải tạo phước lành lớn. Phước lớn nhứt mà các vị Thiên Chủ ưa thích là được chăm sóc, giúp đỡ chư Phật lúc Giáng Trần, lúc Phật nói pháp v.v... như vị Thiên Chủ Ðế Thích đã đem tấm lụa Ðâu-la-miên để nâng ẵm thân Phật trong giờ sanh thần của Ðức Phật dưới gốc cây Vô-Ưu.

Ngày Giáng Trần của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni Thỉ Tổ Ðạo Phật :

 Bình-Minh lúc bấy giờ, Ngày 15 (rằm) Tháng Tư AÂm-lịch Năm Ðinh-Dậu ( năm 624 trước Tây-Lịch. Nếu trước BC thì 623) <xem rõ phần dưới -Giáng-thế>

 Bầu không gian trên mặt Ðịa-cầu trong xanh như ngọc thạch, không gợn một tí mây đen. Aùnh sáng bình-minh của Thái-Dương đang trồi lên từ phương-đông, ánh sáng của ngày hôm nay thật kỳ diệu, xòe dài đủ năm màu rực rỡ bao quanh mặt đất phủ ngập đến phương tây.

 Thái-Tử Tất-Ðạt-Ða đã Giáng-Thế lên tấm lụa Ðâu-La-Miên trên bàn tay của Thiên-Ðế chúa tể cõi trời Ðao-Lợi.

*Ngày Giáng Thế theo đúng năm Sanh : 

-Ngày sanh 15/4 /AÂm-Lịch / năm Ðinh-Dậu. TrTây L: 624 năm. -Hồng-Bàng kỷ năm 2.256 (tức VN Quốc-Lịch 2256).

Tàu : Vua Tương-Vương Nhà Châu năm thứ 28. Mục-Công phá Tấn làm Bá ở Tây-Nhung.

Hiện nay : Phật Giáng Trần 2.627 Năm . Quí Mùi . VL 4882. (Tây Lịch 2003.).

 Ðiều quan trọng lớn cho tất cả những người đích thực hiểu biết : "Ðối với tất cả các Thánh Nhân, tùy mức độ siêu việt, mỗi khi ra đời đều sinh vào hai thời giờ :

1. Ðại thánh nhân -Từ Bình Minh đến Ngọ. (Phật, Tổ Ca-Diếp ....)

2. Khác phàm -Ðúng giờ Tý (qua 0 giờ). (Tổ Huệ-Năng, Các Tổ, Lão Ðam, Khổng..)

Ngoài ra, những vị sanh trong đêm, đen tối bao phũ, bão táp hãi hùng; người trong nhà không dám ra đường, thường nhân cũng là kẻ gây tổn hại cho xóm làng bè bạn ! Nếu có kỳ tích thì là ác ma, hoặc do sự phóng đại của kẻ đầu cơ trục lợi và sẽ gây nhiều tai vạ chết chóc đảo điên cho nhấn thế. (như Mác,Hồ,Mao..và các tà đạo đen điu khác !) 

 Gần đây, qua bốn thập niên Ðại-Hội PG thế giới, tại Columbo năm 1950 (Tích-Lan) đã quyết định ba sự kiện thật quan trọng : "Phật-Giáo toàn thế-giới phải thống nhất : -Cờ Phật-giáo. -Ngày Phật Giáng Trần. -Phật-Lịch." Phật Giáng trần - Phật Niết Bàn , đều lấy ngày “Trăng Tròn” = rằm.

 Ðại biểu chấp thuận bằng lá phiếu (giơ tay) ! và phải là đa số. Một số Tăng-Già Bắc-Tông cũng đề cập đến việc ăn chay để tăng trưởng từ bi và diệt sát ngiệp. Nhưng, vì chư Tăng Nguyên-thỉ Nam-Tông (tiểu thừa) vì do tông chỉ khất-thực người thí chủ cho thứ gì thì không ăn thứ khác được.(Bất lập yên soán, nên không có thứ khác để ăn). Cho nên tùy duyên mà thọ thực.

Ðại hội nầy chấp nhận : Lá cờ 5 màu : Tượng cho Ngũ-Căn, Ngũ-lực. Và cũng gói trọn ý tứ "Ngũ châu nhân chủng. Ðồng thời cũng biểu trưng cái ly,ù Thánh nhân cũng từ trong cõi Ta-Ba,ø ngũ thú tạp cư mà ra.

 Ngày Giáng Trần của Ðức Bổn-Sư thì Ðại Hội quyết định ngày Trăng tròn Rằm tháng tư âm-lich. ( Vesak Day ). Vùng Á-châu từ xa xưa đều mừng lễ vào Ngày mùng 8 tháng tư AÂm-lịch.

 Dù trong bước ngoặc thay đổi niên đại lịch-sử quả có lớn lao, và vì tính chất thống nhất, Giáo-Hội Tăng-Già VN và Châu Á, không thể theo hẳn mới, mà bỏ cũ, nên từ đó có Danh-Từ -MÙA PHẬT ÐẢN ( Khai Lễ từ 8/4 AÂm-lịch, cho đến hết ngày 15/4. Cũng gọi là Tuần Lễ Phật-Ðản). Ðiểm nầy càng tuân thủ vững mạnh, vì có liên quan đến sự cố tiêu diệt PGVN của chế-độ độc tài thời Diệm 1954-1963 trong kế hoạch nhộm đen đất nước Việt Nam.

   Về Phật-Lịch : Thì Ðại-hội rất là sôi nổi, nhìn vào đại-biểu thì có cả 500 vị tỳ-khưu ! Nhưng Tỳ-khưu của Ðại-thừa Bắc Tông vỏn vẹn chỉ có 11 vị ! (Trong đó có Cố Hòa-Thượng Mật-Hiển và HT Tố-Liên. Ðại biểu cho VN ). Giã dụ mà 11 vị nầy cho phép mỗi vị được 5 phiếu. Thì cũng chỉ tới 55 phiếu. Tăng Nam Tông Vẫn giữ 445 phiếu thuận). Thực chất Á-châu có quyền đềà và quyết, nhưng kết quả quá thiểu số, chẳng khác gì đi dự thính để về tường trình lại mà thôi.

  Tăng Bắc tông thì nói : Ðã gọi là lễ mừng Phật Giáng Trần (Ðản Sanh) thì Phật-Lịch phải lấy theo ngày sanh. Vì có Ðản-Sanh mới có Phật, Thành Ðạo, Niết-bàn đều do đó mà ra.

  Nam Tông lại nói : Ðời Ðức Phật Niết-Bàn là trọng đại nhất. Chưa Niết bàn lấy gì có lịch và... 445 phiếu ! Chư Tăng Bắc Tông : Chỉ còn biết " Nam Mô A Di Ðà Phật". (VN 2. Ðai-Hàn 2. Nhựt 2. Trung-Hoa 5. +11 Ðại Biểu).

 Và từ đó Phật-Lịch tính từ năm Phật Niết Bàn. “-P.Ðản 2574. PLịch : 2494. Năm Canh-Dần. Việt-Lịch : 4829.” ( Tây-L: 1950 ). Ðiều nầy, có ai không biết làm lễ Phật Ðản thì Ngày Giáng Sanh là quan trọng ! Nều lấy lịch Niết-Bàn để Mừng Phật-Ðản thì quả là ngớ ngẩn đáng trách, vì lịch sử sẽ mất đi { 80 } năm cổ kính. Do đó Phật-Giáo Bắc Tông vẫn giữ Ngày Giáng-Trần (Từ mùng 8 đến 15/4 . Rằm là chính ), những cũng ghi nhận Ngày, tháng năm Phật-Lịch Niết-Bàn vào các Thông-Bạch trong mùa Phật-Ðản. Coi như ngày tháng ấy viết trên đầu thư văn. Chứ không phải Thông-Ðiệp hay Thông Bạch Phật Ðản mà tuyên nói năm Niết-Bàn ! Càng tệ hại hơn là Thông Tư Phật Ðản rồi kèm năm Tây Lịch vào !?! Tại sao lại cố ý “bôi đen” ngày Ðản Sanh như vậy !?. Sự viết lách lười biếng đó, là một cẩu thả đến độ “mất gốc” !

 Thí dụ : - Mừng Phật Ðản 2547 ! (Mừng kiểu nầy thật tội nghiệp cho Phật Giáo !)

 - Mừng Phật Ðản 2003 ! (Mừng kiểu nầy áo vàng nên nhuộm đen là vừa !)

Theo Niết-Bàn : Ngày 15/2 AÂm-Lịch/ năm Bính-Thìn. TrTây-Lịch : 545 năm. (nếu sau Niết Bàn 1 năm mới tính , thì 544 tr.LL) . -Hồng-Bàng kỷ năm 2.335 (tức VN Quốc-Lịch 2335)

Bấy giờ bên Tàu : Vua Linh-Vương Nhà Châu, năm thứ 27.

Lão-Tử (Lão-Ðam. Lý-Nhĩ) 27 tuổi (sinh 571 BC) Canh-Dần.

Khổng-Tử (Khâu-Trọng-Ni 06 tuổi (sinh 551 BC) Canh-Tuất.

Hiện nay : Phật-Lịch : 2.547. Quí Mùi . VNQL 4.882. (Tây-Lịch 2003)

-Ý nghĩa đoạn nầy, so sánh là : Lão-Tử sinh lúc Ðức Phật 54 tuổi.

-Ðức Phật Niết-Bàn. Lão-Tử 27 tuổi.

-Khổng-Tử sinh năm Canh-Tuất (TTL 551) Ðức Phật 74 tuổi.

-Ðức Phật Niết-Bàn. Khổng-Tử vừa đúng 06 tuổi.

Năm Tr.TL 534 Khổng-Tử 20 tuổi, đến học đạo với Lão-Tử . Sau Phật Nhập-Diệt 11 năm. ( Lý do tôi viết đoạn nầy, là vì nhiều người viết sử đã lẫn lộn hai chữ "Ðồng thời" trong niên đại Phật/ Lão/ và Khổng-Tử).

Tại Sao Ðức Phật Chọn Ấn-Ðộ Ðể Làm Nơi Thị Hiện Giáng Thế ?

 Giải thích điều nầy căn cứ vào mấy nhân duyên như sau :

1. Cơ Duyên Hóa Ðộ .

2. Ðạo Lý Bình đẳng chuyển hóa Các Pháp Thế-Gian.

3. Sanh Già Bịnh Chết của chúng sanh.

4. Ðệ nhất nghĩa Tất-Ðàn .

1.Cơ Duyên Hóa Ðộ :

*-Thiện-Huệ Bồ-Tát, tại Nội-viện cung trời "Ðâu-Suất-Ðà-Thiên" vì thấy :

-Giáo lý của Ðức Cổ Phật Nhiên-Ðăng đã hết không còn tồn tại trên cõi đời Nhân loại chúng sanh, hiện đầy năm thứ ác trược (kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trượcMạng trược).

-Ấn-Ðộ là một địa phương đã và đang xảy ra các giai cấp tồi tệ nhất, ngược đãi bất bình đẳng nhất trên địa-cầu. Mức độ kỳ thị trong một nhân chủng giữa quí tộc và thường dân, họ đối xử nhau chẳng khác gì một viên ngọc và cục bùn thối.

Giai cấp ấy : 1/ Dòng Bà-La-Môn : (Brahmanes) Hàng giáo-sĩ, thống trị tinh thần, chủ tế, họ cho là họ sinh ra từ miệng Phạm-thiên, hàng sướng nhất...

2/ Dòng Sát-đế-lỵ : (Kastryas) sinh ra là vua chúa, quan quyền).

3/ Dòng Phệ-xà : (Vaisyas) sinh ra là thường dân, nông nghiệp, mua bán ....

4/ Dòng Thủ-đà-la : (Soudras) Hạ tiện, nô lệ, khổ sai cho 3 cấp trên , khổ sai suốt đời ...

5/ Dòng Ba-Ri-A: (Pariahs) Dân mọi rợ, ngoài lề xã-hội, xem như súc vật, dọn phân, làm việc ô uế, vô cùng tồi tệ.

Một, trong trăm ngàn thực thi Bình-Ðẳng của Phật, Ðức Phật đã nắm tay của một Ba-Ri-a đem về tắm rửa và cho mặc áo tỳ-khưu và độ vào hàng Tăng chúng. (Vua chúa rất bất bình cho đến khi vị nầy chứng quả A-La-Hán)

-Hoàng-Gia Tịnh-Phan-Vương và vô số những người trong dòng họ Kiều-Tát-La Thích-Ca, trải qua nhiều kiếp về quá-khứ đã quy kỉnh về Ðức Phật, tu, nghe pháp và tương quan trong sứ mệnh hộ trì Phật Pháp và được giải thoát trong kiếp cuối cùng.

thai-lifbud-15.gif (58887 bytes) thai-lifbud-16.gif (50225 bytes)

Giác Ngộ: vào buổi sớm mai vào ngày trăng tròn tháng tư (tháng Vesak), năm 590 trước Tây lịch, Đức Phật thực chứng Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguyên Nhân của Khổ, sự Diệt Khổ, và Con Đường Diệt Khổ.


 
 

Ba người con gái của Ma vương tìm mọi cách để quyến rủ Ngài. Nhưng họ đều thất bại. 

 2. Ðạo Lý Bình Ðẳng chuyển hóa các pháp thế gian :

*-Giáo-lý của Phật-Ðà không những đã đem lại cái nhìn và đời sống tương thân, tương kính, tương trợ cho bốn dòng họ giai cấp bấy giờ, mà còn đem cho Ấn-Ðộ nói riêng và chúng sanh nhân loại nói chung một Phật chất bình-đẳng :

"Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành, và Ðức Phật nhấn mạnh : Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh" . Ðồng nghĩa là Mọi loài đều có khả năng thành Phật.

 Một tiếng nổ sấm sét của Pháp-AÂm lớn đã làm bàng hoàng sững sốt cho 52 triết thuyết tôn-giáo : Nào là thượng đế chúa tể sanh muôn loài ! Nào nhất thần thống trị vạn vật ! Nào khổ hạnh cùng cực để về trời thiên đường ! Nào sát hại vô số sinh vật để dâng cúng thần linh rồi được ân huệ về cõi trời v.v và vv...

Pháp-AÂm-Lớn là : Tất cả các Pháp Thế-Gian và kể cả xuất thế gian đều do : NHAÂN DUYÊN SINH. -Nhân Thiện -Y-Báo, Chánh báo Thiện.

-Nhân Aùc -Y-báo, Chánh Báo Aùc.

Và chính con người mới là trung-tâm điểm tùy hành động làm Nhơn, phó sản của hành động làm Duyên mà sinh hóa trong Sáu cõi : Trời, Người, A-Tố-Lạc, Ðịa-ngục, Ngạ-Quỉ và Súc-Sanh. Chứ không hề có một đấng hay thần linh nào có quyền ban ơn, thưởng phạt cho ai cả. Tin như thế là Chánh ! Ngược lại là Tà.

 3. Sinh. Già. Bịnh. Chết của Hữu Tình Thế Gian :

Trong kinh Vô-Thường Ðức Bổn-Sư nói rõ : Ta xuất hiện vào cõi đời ác trược chính vì ba sự kiện : Già Bịnh Chết của chúng sanh. Vì muốn diệt những khổ đau thống thiết Sinh Già Bịnh Chết của hữu tình thế gian mà Phật-Ðà ra đời.

Về điểm nầy, những chúng sanh tri kiến còn nhiều hữu lậu đã ôm một khối hoài nghi : " Từ Phật Niết-Bàn đến nay đã qua 2543 năm, hơn hai rưỡi thiên niên kỷ rồi nhưng loài người và sinh vật chung nào đâu đã chấm dứt sinh tử luân hồi ??? Khổ đau cũng vẫn mãi triền miên !!! Vậy hoài nghi nầy có tội báo gì không ?

Hoài nghihoài nghi ! Không có tội báo gì hết ! Hoài-nghi cũng như một nghi tình.

Tuy nhiên, hoài nghi phải có một giờ phút chung cuộc giải tỏa mối hoài nghi đó. Một hoài nghi điên cuồng, do chấp thường, chấp đoạn tự cố ôm giữ cái mối hoài nghi mê muội cũng như một cái thùng bằng thủy tinh mà cố chứa phân nhơ vào đó, nhiều lẽ phải khuyên ta, nên súc bỏ đi để chứa món đồ giá trị vào thùng thủy tinh đáng giá, mà ta không nghe : thì cái thùng giá trị đó vẫn mãi mãi bị chứa phân nhơ. Sở-tri-chướng tà ngụy đó sẽ chôn ta trong muôn đời sanh tử.

Ðể sáng tỏ thêm, bạn nghĩ sao ? Khi Giáo-Lý Phật-Ðà trên 5 tỷ người ! Phật-giáo 1 tỷ. Gia-Tô-Giáo cả tỷ. Hồi-Giáo cũng cả tỷ, ngoài ravô số thứ giáo và có vô số thứ không giáo, tạp giáo. Những giáo thuốc độc, giết người...họ gây ra vô số tai họa cho nhân loại, cho vô số các sinh vật khác trên thế gian. Như bạn hiểu đã gây nhân ác thì bị quả ác. Vậy vô số ác nhân, tất phải có vô số ác quả ! Cố gây ác nhân như vậy bảo ngày nào mới chấm dứt sanh Lão Bịnh Tử ?

Còn nữa, Chiến tranh trên giòng ý-thức-hệ , giết nhau vì lời nói, vì chủ nghĩa, vì kinh-tế / thương mại/ thổ trạch, vạn thứ trên không, trên bộ, trên biển cả trong rừng sâu v.v... Họ đà tuân giữ, tu trì Giáo-lý Phật-Ðà hết chưa ? mà bạn còn phải hoài nghi ?! Con bìm-bịp, con mèo, con dơi, con muỗi v.v...chưa hóa kiếp làm người thì ánh sáng dù có sáng cũng không thích thú gì với xu hướng của nó. Tất cả các nghiệp-duyên và nghiệp-lực đó làm động-cơ để phát triển cho bánh xe luân-hồi cứ quay và kéo theo chuỗi sinh già bịnh chết bất tận, chứ không phải Giáo-Pháp Ðộ sanh của Phật không giải thoát đối với chúng sanhtu trì phương pháp của Phật.

Thật vậïy, chúng sanh tự có Phật tánh, những chúng sanh mê muội phủ nhận, không lẽ Thế-gian Tam-Bảo kéo Phật-tánh họ ra mà tắm đượcc sao ? Chúng sanh đang đói, cơm giải-thoát đã có đây, các người hãy ăn đi, kết quả sẽ được no !

Nhưng chúng sanh nhìn cơm với hời hợt hoài nghi ! lại còn phỉ báng ! Thế gian Tam-Bảo đâu có thể mỗ bụng mà nhét cơm vào được. Non 4 tỷ người chưa về với chơn lý giải thoát, lại đang tiếp diễn gây khổ quả cho nhau. Chính bạn hãy bước vào lãnh vực thực thi và tuyên dương Phật Pháp. Lòng từ bi đó của bạn, của các bạn của bạn cùng hân hoan đồng tu Phật-pháp thì Sinh Già Bịnh Chết sẽ dần lui và thế-giới Ta-Bà sẽ biến thành Tịnh-Ðộ. Phật Giáo không có cái chuyện, anh không chịu ăn cơm thì làm phép lạ cho cơm tự chui vào bụng anh và anh muốn đói cũng không được.

4. Ðệ Nhất Nghĩa Tất Ðàn :

 Với Phật, Chơn Tánh và Hữu-Vi cũng vẫn là "Không".

Từ đó, chúng ta hiểu rằng : Ðức Phật Giáng thế là "Thị Hiện" vào thế giới Ðịa-Cầu, một hành-tinh trong Ba Ngàn Tỷ hành tinh . Danh từ chung của 3000 tỷ thế giới gọi là TA BÀ THẾ GIỚI. Một phạm trù thế giới thuộc về Uế Ðộ.

Trong Ðại-Thừa Pháp-Hoa Kinh : Ðã nói lên mục-đích Giáng-Trần vô cùng tối yếu của Phật là vì :

 *Khai hóa cho chúng sanh biết, chúng sanh có Tri-Kiến-Phật. (Khai).

 *Bày tỏ cho chúng sanh thấy, chúng sanh có cùng Tri-Kiến như Phật.(Thị).

 *Dạy pháp nhứt-thừa cho chúng sanh, Ngộ được Tri-Kiến-Phật.(Ngộ).

 *Dẫn dắt chúng sanh Vào tận cùng trong Tri-Kiến Phật. (Nhập).

***Do nguyên nhân đó, nên :

 Ngày 15.04. cách đây 2627 năm dưới cây Vô-Ưu trong Vườn Lam-Tỳ-Ni, Bồ-Tát Thiện-Huệ thị hiện trong Phàm thân, con Vua Tinh-Phạn và Hoàng-Hậu Ma-Da-Phu-Nhân. Khi Giáng-sanh Ngài đã đi bảy bước trên bảy đóa sen Hồng và Ngài tuyên bố, tiếng nói bản xứ của loài người : "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Ðộc Tôn" (Từ trên cõi trời dưới đến thế gian chỉ có ta là bậc thế Tôn). Dĩ nhiên bấy giờ có thiên đế , chư thiên hộ vệ bên ngài.

 Ðoạn lịch sử trên, ngàn năm sau còn có những chất vấn xâm phạm, tại sao Bậc xuấát thế lại tự tôn cái ngã to lớn của Ngài như thế ? Bởi tại vì chúng ta chưa am hiểu nghĩa Tất-Ðàn ?

 Tất-Ðàn cũng là một, là Ðệ-Nhất-Nghĩa : Từ nơi vô lượng pháp-môn để đối trị vô-lượng phiền não, và rột cuộc chỉ có Ba Thừa. Từ ba thừa chỉ còn Một Thừa. Rốt ráoTánh Không. Nghĩa là tất cả Pháp tánh trên Pháp tướng đều không. Tánh đã không thì tướng làm sao tồn tại được. Cùng nghĩa nầy mà ở Lăng-Nghiêm thì Phật nói là Chơn-Như.

 Lời nói khi Biểu thị cái tướng Tay chỉ thượng và Tay chỉ hạ đó là cốt lỏi của kinh Pháp Hoa sẽ nói vào năm 65 năm sau. Nếu câu nói nầy mà theo ý Việt : “ Trên 33 và 28 cõi trời, dưới khắp nhân gian trong Ta-Bà chỉ có “Ta” (Nói với con ) mới chính là Từ Phụ (Ðạo Sư) đưa chúng sanh ra khỏi sanh tử..”. Có lẽ sự hoài nghi không móng lên trong trí tưởng của phàm phu con người.

 Thuật-ngữ đó, cũng như Người Cha Tôn quí của gia-đình, vòng quanh lâu năm, giờ về lo sửa sang giáo dục gia-đình, đến nỗi xa lạ với con cháu ! Ông cha phải nói to lên trước sự ngơ ngác của con cháu : " Ta là Cha thương quí của các con đây" những đứa khờ dại thầm thì : sao Cha mình cao ngạo quá thế nhỉ ! Phỏng có được không ?

 Phạm trù Ta-Bà có tới 3000.000000000 (3 ngàn tỷ). Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Ðang hóa độ chúng sanh trên phạm trù này. Ðứng về mặt sinh diệt, ta nói có giáng thế, có Niết-bàn. Nhưng về mặt hóa-độ Ðức Phật không hề có Sanh, Diệt, Khứ, Lai gì cả, đó là chơn chánh tin Phật. Vậy lời nói của Cha với các con không hề mang ý cao ngạo. Như kẻ tà đạo Kính-hiển-Vi đã nhạo bán PG năm 1932. (Báo Viên Âmgiải thích. Rồi đến [Tập Tranh Luận] của Ðoàn Thanh niên PH Ðức Dục, lên diễn đàn với lý luận “tầm sét” Kính-hiển-Vi đành rút về với bóng tối màu đen cố hữu.

  Sự Thị Hiện Về Thời Gian Trong Cuộc Ðời Hóa Ðộ Của Ðức Phật :

1.Giáng Thế: 15.04 AÂL. Năm Ðinh-Dậu. Việt-Lịch: 2256. (Tr.TL: 624 .)

2 Hiếu ân : 19 tuổi. Năm Aát-mẹo. VL: 2274 ( TTL: 606 .) (Vua cha bắt buộc Thái-Tử lập hoàng-phi mới đồng ý cho xuất gia)

3. Xuất-Gia : M 8/2 năm Aát-Sửu 29 tuổi. VL : 2284. (TTL:596. ).

4. Giác Ngộ : 8/12 năm Tân-Mùi 35 tuổi. VL 2290. (TTL: 590.)

5. Giáo Hóa : Từ 35 đến 80 tuổi (45năm Thuyết Pháp hóa độ vô số người Ngộ Ðạo)

6. Niết Bàn : 15/2 . 80 tuổi. Năm Bính-Thìn. VL : 2335. (TTL: 545. ) .(Lão-Tử 27 tuổi) (Khổng-Tử 6 tuổi).

Ðể cúng dường ngày lễ mừng Giáng Trần của Phật, con viết bài Giảng nầy trong phạm vi Giáng-Thế và không hề Có Kết Luận :

 Vì, như trên con đã sám-hối về sự viết lách vụng dại, thì giờ đây con lại càng không thể kết luận được những Nghi Biểu, Tướng Mạo và Ðức Hạnh Vô-lượng, Vô-Biên của Phật, đủ Thập Hiệu Thế-Tôn. Con làm sao ca ngợi được 32 tướng tốt của Phật, 80 vẻ đẹp đều từ nơi vô lượng kiếp tu hành, lòng từ bi đó cả đời kiếp con đảnh lễ không đủ được. Ðức nhẫn nhục của Phật dù bị chặt đứt hết tay chân Phật vẫn mĩm cười ! Ðể cho kẻ thù địch chặt đầu không hề hối tiếc ! Ðem thân cứu đói cho cọp v.v... Oâi ! Muôn vàn đức hạnhchúng sanh, cho chúng sanh trong vô số kiếp xa xưa về trước và trên phạm trù Ta-Bà mãi mãi về sau. Con ngồi viết suốt đời cũng không kết luận được. Con chỉ biết khể thủ :

Nhứt Tâm Ðảnh Lễ, Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Ðản Sanh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Thế Tôn.

(Bài Giảng Theo Thể Cảm Niệm Mừng Phật Thích Ca Giáng Trần 2623)

Mùa Giáng-Thế năm 2627
Phật-Lịch 2547
Việt-Nam Quốc-Lịch 4882
Viết Năm Âm-Lịch năm Quý Mùi (Tây-Lịch 2003).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31658)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11225)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12753)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16657)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12022)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10684)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11195)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10019)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10328)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11907)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10698)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12626)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9699)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10457)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10549)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9900)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11058)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12016)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10142)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10785)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9896)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8778)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10424)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9085)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10559)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9336)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8798)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10513)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10228)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9587)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14755)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8348)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8950)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8740)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9369)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14595)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9034)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8771)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9048)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10531)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8640)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9991)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11026)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8996)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9266)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10338)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9582)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12165)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26045)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14787)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11349)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9532)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12357)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11886)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10752)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13342)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10000)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9379)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15900)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant