Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật - niềm hạnh phúc cho nhân loại

14 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12428)
Đức Phật - niềm hạnh phúc cho nhân loại


Đức Phật là một chúng sinh duy nhất, một nhà tư duy sâu sắc, một nhà diễn giả thuyết phục, một hành giả nhiệt tâm, một nhà cải cách thành công, một bậc đạo sư khoan dungtừ bi, và cũng là một nhà quản trị tài ba nhất trong lịch sử nhân loại. Điểm đáng chú ý nơi Đức Phật đó là sự thanh tịnh tuyệt đối và sự thánh thiện viên dung. Chính vì sự thanh tịnhthánh thiện đó mà ngài được tôn xưng là "Bậc thánh thiện nhất trong những người thánh thiện". Ngài là hiện thân của những đức tính siêu tuyệt mà Ngài đã từng giảng dạy. Không khi nào Ngài biểu hiện sự kém cỏi về đức hạnh. Bất cứ ai khi được tiếp xúc với Ngài đều nhận thấy được sự vĩ đại của Ngài thể hiện qua cá tính tuyệt vời của một đấng từ tôn.

Ý chí, tuệ giác, lòng từ bi, tinh thần phụng sự quên mình, đời sống mẫu mực, những phương pháp truyền giáo toàn thiện và sự thành tựu tối hậu của Ngài đã cho chúng ta thấy rằng Ngài là một vị đạo sư vĩ đại nhất.

Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức. Cho đến những giây phút cuối đời, Ngài vẫn hóa độ quần sanh qua tấm gương cao cả và những lời cao quí của Ngài. Hàng đệ tử kiệt xuất của Ngài đã tiếp bước đấng Từ Phụ. Với đời sống thanh đạm, họ đã đến những vùng đất xa xôi để truyền thừa giáo pháp mà không mong cầu sụ đền đáp nào cả. "Hãy liên tụckiên trì tinh tấn" là những lời di huấn tối hậu của Đức Phật. Sự giải thoát và thanh lọc không thể đạt được nếu thiếu sự tinh tấn của bản thân. Như vậy, Phật giáo không chủ trương cúng bái, khẩn cầu; mà thay vào đó thiền định là một pháp môn tu tập đưa đến tự chủ, thanh lọc vàgiác ngộ viên mãn. Sứ mệnh của Đức Phật là nhằm vào sự giải thoát chúng sanh khỏi nỗi khổ đau trói buộc bằng cách đoạn trừ cội gốc của khổ đau và chỉ dạy một con đường đưa đến chấm dứt sanh tử cho những ai mong muốn. Tuy nhiên đôi khi Đức Phật cũng thuyết giảng những bài kinh hướng đến sự tiến bộ vật chất. Cả hai sự tiến bộ vật chấttinh thần đều cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia. Một yếu tố không thể tách biệt với những yếu tố khác, cũng thế không nên hi sinh sự tiến bộ tinh thần để thành đạt sự tiến bộ vật chất như chúng ta đã chứng kiến tại các quốc gia thiên về đời sống vật chất trên khắp thế giới. Pandit Nehru thường ca ngợi Đức Phật là một người con vĩ đại nhất của Ấn Độ. Tiến sĩ S.Radha Krishnan, một nhà lãnh đạo của Ấn Độ đồng thời là một nhà triết gia, đã thể hiện lòng tôn kính đối với Đức Phật như sau: "Nơi Đức Phật Cồ Đàm, ta nhận thấy một mẫu người tinh hoa toàn thiện của phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởngđời sống nhân loại là một kỳ công hi hữu, nó tỏa rộng và sâu sắc hơn ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh từ tinh hoa các bậc hiền trí, bởi vì xét về phương diện lý trí thuần tuý, chuẩn mực đạo đứctuệ giác tâm linh, thì chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất trong lịch sử".

Trong tác phẩm: "The Tree Greatest Men in History", sử gia H.G.Well đã viết: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị, nhiệt tâm với đạo pháp, một mình phấn đấu cho ánh sáng tươi đẹp, một phẩm chất chói ngời, một con người thực thứ không phải nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài đã mang lại một bức thông điệp cho toàn thể nhân loại. Nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi, tương đồng với bức thông điệp ấy. Ngài dạy rằng tất cả những đau khổbất mãn trong cuộc sống đều do lòng ích kỷ sanh ra. Trước khi một người có thể trở nên thanh tịnh, anh ta cần phải thay đổi lối sống cho riêng mình. Rồi từ đó anh ta vươn lên trở thành vĩ nhân. Bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, Đức Phật đã kêu gọi con người hãy từ bỏ bản ngã của chính mình để sống một đời sống vị tha. Trong một vài chiều hướng, Đức Phật gần gũi với chúng ta hơn và cũng đáp ứng được những nhu cầu của chúng ta. Đối với tầm quan trọng của cá nhân trong tinh thần hi sinhphục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn đối với vấn đề trường tồn của kiếp người". Đức Phật thực sự là một con người, nhưng là một người phi thường bởi lẽ Ngài không phải bị sanh ra mà Ngài thị hiện nơi trần gian giả tạm. Ngài thấy được những khả năng tiềm ẩn cũng như sức mạnh sáng tạo của mọi người. Ngài không tự tôn mình là một đấng thần linh mà chỉ khuyên nhủ đệ tử của mình hãy noi gương Ngài mà tu tậpPhật tánh luôn tìm ẩn trong mỗi người.

Đức Phật được các đệ tử tôn kính như là một bậc đạo sưđức hạnh tối thượng, nhưng họ không thờ phụng Ngài như một vị thần linh để mong cầu những đặc ân về vật chất hay tinh thần. Ngài cũng không để cho các đệ tử nhiệt thành tôn sùng Ngài như một đấng thần linh. Tuy nhiên có một điểm đáng lưu tâm là không có một bậc đạo sư đức độ nào "phi thần linh như Đức Phật, nhưng không có ai thánh thiện như Đức Phật". Bertrand Russell, người được tặng giải Nôbel văn chương vào năm 1950 đã ca ngợi Đức Phật là "nhà vô thần kỳ vĩ nhất của mọi thời đại". Để tạo nên nền hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại, thì sự tỉnh thức thuần hậu về tôn giáo là một yếu tố hoàn toàn cần thiết trong thế giới mà nền đạo đức bị suy đồi trầm trọng như hiện nay. Điều quan trọng là không phải đức tin hời hợt vào giáo lý, tín điều hay sự quan sát cạn cợt đối với những nghi lễ truyền thống phục vụ cho quần chúng, mà chính là một đời sống hữu ích, thanh tịnh, chan chứa một tình thương dào dạt, hòa trong nguồn tuệ giác vô biên và lối hành xử cao đẹp dựa trên những nguyên tắc cao thượng mà các vị giáo chủ đã chỉ dạy. Giáo sư Joad cho rằng: "Vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, ở A? Độ và Trung Quốc đã xuất hiện ba vị đạo sư vĩ đại. Họ đã giúp nhân loại hiểu rằng việc thực hiện những gì đúng đắn mang lại lợi ích cho bản thânvô cùng quan trọng, dù rằng có Thượng đế hay không. Trong ba vị đạo sư ấy, Đức Phật Cồ Đàm là vị thầy siêu tuyệt nhất". Đức Phật nhấn mạnh rằng đạo đức là một phương tiện quan trọng để đạt đến cứu cánh. Ngài khuyên chúng ta nên trau dồi chánh tư duy vô ngã, lòng từvô hại; tu tập chánh ngữtừ bỏ lời dối trá, độc ác; thực hành chánh nghiệptừ bỏ sự sát sanh, trộm cướp dù trực tiếp hay gián tiếptừ bỏ tà hạnh; và chánh mạng là tạo ra tài sản của cải một cách hợp pháp, không bóc lột, đúng đạo lý. Tất cả những điều trên đều đặt trên nền tảng đạo đức. Đức Phật đã thuyết giảng bức thông điệp thấm nhuần luân lý đạo đức, chan chứa lòng từ bao latinh thần phụng sự vô ngã không chỉ cho các bậc vua chúa vương tử, các nhà quý tộc, triệu phú, mà còn giảng dạy cho những người hèn hạ, nghèo cùng, khốn khổ. Ngài mang lại sự bình đẳng cho mọi người và đề cao địa vị của con người. Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự thăng hoa tâm linh đang rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như ai, cao sang hay thấp hèn, bậc đạo đức hay kẻ phạm tội, những ai đang cố gắng sống một cuộc sống thuần thiện, hoàn hảo.

Hàng ngày, Đức Phật thuyết pháp cho chư Tỳ kheo và các vị cư sĩ . Nhưng những gì Ngài dạy chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì mà Ngài biết . Một lần nọ, Ngài cầm một nắm lá trong tay, và nói rằng những gì Ngài dạy giống như lá trong tay, còn những gì Ngài biết giống như lá trong rừng. Ngài chỉ dạy những gì cần thiết giải thoát của chúng ta. Trong cuộc sống thường nhật, Ngài quan sát những người cần được giúp đỡ, Ngài giảng dạy và khích lệ các đệ tử thành tâm với Ngài, và Ngài giảng pháp cho chư Thiên, cho những người dân chất phác và giới trí thức bác học. Lời dạy của Ngài như sữa cho trẻ thơ, như thức ăn bổ dưỡng cho người lớn. Trước khi thuyết giảng, Ngài quan sát thính chúng như người đói cần ăn. Thức ăn cho thân cũng cần thiết như thức ăn cho tâm. Ngài chăm sóc người bệnh bằng chính đôi tay của mình và Ngài tuyên bố rằng: "Ai chăm sóc người bệnh cũng chính là chăm sóc Như Lai".

Đức Phật đã tạo nên một mô hình xã hội không có giai cấp bằng cách thiết lập Tăng đoàn cho những người muốn kế thừa sự nghiệp của Ngài, không phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội, chỉ có sự phân định về giới phẩm như: Sa di, Tỳ kheo, Thượng tọa, Thượng tọa Trưởng lão và sự thành tựu thứ lớp chứng đắc bốn Thánh quả siêu thế. Các nguyên tắc của Tăng đoàn được hình thành cũng mang tính dân chủ. Liên hệ về điều này, Zetland đã nói: "Nhiều người rất ngạc nhiên khi nhận ra rằng các cuộc hội nghị của người Phật tử tại A? độ cách đây hơn 2500 năm đã trở thành những mô hình căn bản mà ngày nay chúng ta thực thi tại nghị trường. Cũng thế, lần đầu tiên trong lịch sử, Đức Phật đã thành lập giáo đoàn Tỳ kheo ni cho người phụ nữ, không phân biệt tầng lớp hay đẳng cấp xã hội. Ngài đã mang lại quyền bình đẳng cho người phụ nữ trong sự thăng tiến tâm linh".

Đức Phật cũng được xem là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại quyết tâm xoá bỏ chế độ nô lệ khi Ngài đưa ra quan niệm về tình thân ái cũng như chân giá trị của con người, Ngài kiên quyết chống lại các cuộc tế lễ đem những con vật xấu số ra cúng tế và Ngài luôn tỏa rộng lòng từ đến cho muôn loài. Một người Phật tử chân chính là người luôn mang lòng từ đến cho chúng sanh mà không hề có ý niệm phân biệt nào cả. Chính lòng từ là nền tảng tạo ra tình thân ái giữa các quốc gia và tôn giáo, từ đó phá vỡ tất cả những hàng rào chắn ngăn cản giữa quốc gia này và quốc gia khác, giữa tôn giáo này và tôn giáo khác. Nếu như những tín đồ thuộc các hệ thống tín ngưỡng khác nhau không thể cùng gắn bó trong tình huynh đệ chỉ vì họ theo các tôn giáo khác nhau, thì chắc chắn rằng những vị giaó chủ cao thượng của họ không làm tròn được sứ mạng thiêng liêng phục vụ cho sự nghiệp của nhân loại. Đức Phật là một người giàu lòng khoan dung. Thiếu khoan dung độ lượngkẻ thù lớn nhất của tôn giáo. Do đó Đức Phật khuyên các đệ tử Ngài không nên sân hận, bất mãn hay sầu buồn khi người khác phỉ báng Ngài, giáo pháp của Ngài hay các Tỳ kheo, Ngài dạy rằng: "Nếu các con biểu lộ sự bất mãn thì không những các con đã tự tạo ra những nguy hiểm về sự mất mát tinh thần mà các con cũng không thể xét đoán những gì mà người ta nói là đúng hay là sai". Tiến sĩ Radha Krishnan nói rằng: "Đó là một tình cảm toàn giác cao thượng nhất suốt 2500 năm sau khi Đức Phật giác ngộ". Đức Phật không hề giảng dạy những giaó lý để người ta mù quáng tin theo, không yêu cầu con người phải chấp nhận những giáo điều, tín ngưỡng nếu chưa dùng lý trí để soi xét. Ngài không đặt ra lễ nghi mê tín để dẫn dắt người vào đạo, không bày ra sự sám hối hay tế lễ vô nghĩa để cầu sự thanh tịnh hóa. Đức Phật chỉ trình bày những chân lý đơn giản cho quần chúng và giảng dạy những triết lý thâm sâu cho giới trí thức. Ngài khuyên những người tìm cầu chân lý không nên tin vào quyền năng của một ai mà hãy thực nghiệm bằng trí tuệ và tự mình xem xét điều đó là đúng hay sai.

Suốt chặng đường 2500 năm ôn hoà của Phật giáo, không giọt máu nào đổ xuống vì sự truyền bá chánh pháp, không có sự cảm hoá bằng võ lực hay bất kỳ một phương tiện cưỡng bách nào khác. Đức Phật mãi là nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất đã từng sống trên thế gian này. Những lời dạy cao siêu của Ngài, đã được hoằng truyền rộng rãi và đang tỏa rộng trên khắp thế giới, hòa nhập vào tất cả quốc gia bởi những lời dạy ấy luôn mang tính lý luận chặt chẽ, khả năng hiện thực, tính hữu hiệu, bất bạo động, đầy khoan dung và luôn khế hợp với các nguyên lý vũ trụ. Phật giáo đã có những đóng góp to lớn cho sự tiến hoá của nhiều quốc gia tại châu Á. Thực ra, tất cả những quốc gia Phật giáo đang lớn mạnh từ chiếc nôi Phật giáo.

Có những quốc gia hưng thịnh rồi suy tàn. Có những đế quốc được xây dựng trên bạo lực và cường quyền đã trở nên thịnh vượng rồi cũng bị tan rã, nhưng vương quốc chánh pháp do Đức Phật lập ra bằng tình thương, lòng từ bi và tuệ giác vẫn đang phồn thịnh và sẽ tiếp tục thịnh vượng trên thế gian này.

(Theo The Buddha, Minh Cảnh dịch)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31575)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10504)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12717)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16613)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11997)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11474)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10668)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12311)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10315)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10685)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12351)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9789)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13823)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10439)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10537)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10296)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11037)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11992)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10132)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9883)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14502)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8763)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12538)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10403)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9057)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10544)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9321)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10493)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9171)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8346)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19105)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9383)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9009)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10072)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8956)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9351)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14567)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9023)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8748)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9026)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10511)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8625)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10153)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11006)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15326)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25999)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7960)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14734)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10617)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11339)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18626)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11862)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13323)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant