Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiếp xúc và cúng dàng Phật đản

16 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10636)
Tiếp xúc và cúng dàng Phật đản


image


Tiếp Xúc Với Tâm Và Nguyện Bồ Đề:

đệ tử Phật, chúng ta tiếp xúc với sự ra đời của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng tachúng ta có cơ hội tiếp xúc với tâm Bồ đề nơi Ngài và ở nơi mỗi chúng ta.

Nếu Đức Phật không có tâm Bồ đề, thì Ngài đã và sẽ không có mặt với chúng ta. Vì Ngài đến với chúng ta bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài có tự do trong khi đến và có tự do trong khi đi. Chúng ta đến với Ngài cũng bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài mãi mãi có mặt ở trong mỗi chúng tachúng ta cũng mãi mãi có mặt ở trong Ngài.

Học hỏinghiên cứu các hệ thống kinh điển đã giúp cho ta biết rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát Bồ đề tâm hành Bồ tát đạo rất lâu xa. Lâu xa đến nỗi không thể dùng những con số của toán học để ước lượng hay tính đếm và cũng không thể nào dùng tri thức của con người để trắc lượng hay suy tưởng. Và cũng vì vậy mà Ngài đã thành Phật lâu lắm rồi, chứ không phải chỉ mới có đời nầy.

Đức Phật xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ, tại vườn Lâm tỳ ni, nước Nepal chỉ là vì bản nguyện độ sinhĐức Phật thị hiện đó thôi. Nên chuyện ghi lại ở trong các kinh điển, Bồ tát Tất đạt đa tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời bên hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen và nói:

Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”, có chư Thiên trỗi nhạc cúng dàng và dùng những vòi nước hoa để phun rửa, khi Bồ tát Tất đạt đa ra đời là chuyện hoàn toàn có thật, chứ không phải là huyền thoại.

Có thật, vì Ngài xuất hiện giữa cõi đời nầy với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, có đầy đủ đại bi, đại trí, đại nguyệnđại hạnh của tâm bồ đề, qua hình thức của một người phàm, mà không phải phàm, để đem lại lợi ích cho cuộc đời, chứ không phải là chuyện của một người phàm bình thường khi sinh ra giữa cuộc đời.

Nên, những đặc điểm khi Bồ tát Tất đạt đa xuất hiện được ghi chép ở trong kinh điển là chuyện có thật. Có thật, vì đó là chuyện của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ giáng trần, mà không phải là chuyện của một người thường. Và đó là chuyện có thật mà không phải là huyền thoại, vì mọi việc làm và biểu hiện của một người lớn trong đôi mắt trẻ thơ đều là khó hiểu và đều trở thành huyền thoại đối với chúng cả!

Chúng tanghiệp lực mà sinh ra, nên chúng ta không có được cái vinh hạnh đó như Bồ tát. Vì vậy, chúng ta không thể dùng con mắt phàm phu để mà nhìn Bồ tát, hoặc so sánh về một bậc Giác ngộ.

Nếu ta đem con mắt phàm phu, con mắt của nghiệp lực mà nhìn những biểu hiện của bậc Giác ngộchúng ta không thể nào hiểu nổi và hiểu hết. Do không hiểu nổi và hiểu hết bằng khả năng tri thức của con người, nên chúng ta cho là huyền thoại.

Nhưng, đúng với phẩm chất của một vị bồ tát có đầy đủ hạnh và nguyện lớn của tâm bồ đề, khi xuất hiện giữa thế gian, để đem lại lợi ích cho cuộc đời hay cho đa số, thì việc Bồ tát Tất đạt đa, khi ra đời từ hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất và tuyên bố; “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” là sự kiện chẳng huyền thoại chút nào.

Nên, những biểu hiện khác thường trong ngày đản sinh của Đức Phật, nếu chúng ta trầm tĩnh một chút là chúng ta có thể thấy, hiểu và tiếp xúc được. Chúng ta hãy tiếp xúc với những sự kiện đặc thù trong ngày Đức Phật đản sinh ấy, bằng tâm hạnh và nguyện bồ đề, chứ không nên tiếp xúc với những sự kiện ấy với tâm và hạnh mang đầy tham dụctri thức ngã tính.

Nếu chúng ta tiếp xúc với những sự kiện ấy bằng tâm đầy tham dụctri thức ngã tính, thì cái thấy và cái biết của chúng ta sẽ chuyển tải đến cho chúng ta những chất liệu đầy vô minh. Chúng ta sẽ hiểu Phật Đản theo cách hiểu vô minh của chúng tachúng ta sẽ hành hoạt theo vô minh trong ngày Phật Đản.

Thị Hiện Mà Không Phải Buộc Ràng:


Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này, rồi cũng phải vào thai mẹ để nằm, chúng ta nằm chín tháng mười ngày, còn Ngài thì ở trong bụng mẹ đến mười tháng. Nằm mười tháng là biểu tượng cho viên mãn hạnh nguyện độ sinh của Ngài trong mười pháp giới và có khả năng đưa chín pháp giới nhập vào nhất chân pháp giớiPhật giới.

Ngài nằm trong bụng mẹ với bản nguyện của bồ đề, nên Ngài thấy hạnh phúc, còn chúng ta nằm trong bụng mẹ bằng nghiệp lực, nên mất tự dođau khổ.

Không những chúng ta nằm trong bụng mẹ chín tháng mười ngày mới khổ, mà chỉ nằm một ngày thôi, một giờ thôi, cũng đã thấy khổ rồi, vì sao? Vì cái khổ của chúng ta là cái khổ do nghiệp bẩm sinh.

Đức Phật nói rằng, cái khổ bị sinh là sự thật của khổ và lại là cái khổ bậc nhất trong mọi cái khổ. Đức Phật thương cái khổ bị sinh của chúng sinh, nên Ngài mới thị hiện giữa cuộc đời này đề dạy dỗ chúng sinh, hướng dẫn cho chúng sinh, cách sống thế nào để thoát ly cái khổ do nghiệp bảm sinh ấy.

Chỉ vì chúng sinh không nghe hoặc nghe mà không hiểu, không thực tập để sống, không chịu thực hành xả ly, cứ bám víu hết cái này đến cái khác, nên bị khổ đau mãi hoài; và cũng vì thương cái khổ của chúng sinh, nên Đức Phật cũng phải kham nhẫn để giáo hóa chúng sinh, dưới nhiều hình thức và nhiều thời kỳ khác nhau.

Vì vậy, ở trên đời không ai thương chúng ta bằng Phật thương chúng ta. Cha mẹ chỉ thương chúng ta một đời và có thể giúp ta thoát khỏi khổ cơm áo, còn Phật thương chúng ta nhiều đời và có rất nhiều phương tiện giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau sinh tử, đến chỗ an toàn.

Kinh Pháp Hoa có dạy: Khi Phật giảng kinh Pháp hoa, có năm ngàn vị Thanh văn bỏ ra về. Phật thương họ, nhưng không cản. Vì Ngài biết nhân duyên của họ chưa đủ để tiếp nhận diệu pháp trong thời điểm nầy. Nhưng sau đó, Ngài cũng tìm đủ mọi cách giáo hóa và đưa họ về với Phật đạo, để tu tập và đều thọ ký cho họ thành những bậc Giác ngộ trong tương lai.

Ngài nói với các vị đó rằng: tôi đã từng giáo hóa các thầy khi các thầy là những vị Bồ tát, còn tôi là Sadi thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, vào thời ấy, vì quý vị ham chơi, nên quí vị mãi trôi lăn cho đến bây giờ. Quý vị cũng đã từng biết ít cho là đủ, bỏ điều cao quí, thỏa mãn với những thành quả tầm thường. Giờ đây, tôi đã thành Phậttiếp tục giáo hóa cho các vị và tôi không hề bỏ quí vị, vì quí vị là những người rất đáng thương và cần phải quan tâm để dìu dắt.

Chúng ta thấy tình thương của Đức Phật đối với chúng sinh là cao cả và hiếm có trong đời. Tình thương của Đức Phật do đâu mà có? Do từ nơi tâm bồ đề mà có; từ nơi trí tuệ mà hiện khởi và từ nơi hạnh kham nhẫn mà tựu thành. Vì tâm và hạnh của Ngài như vậy, nên Ngài đã được chư thiênloài người ca ngợi là đấng Đại Từ, Đại Bi đối với chư thiên, loài người và hết thảy muôn loài.

Vì vậy, cúng dàng Phật Đảnchúng ta tiếp xúc cho được ý nghĩa cao quí đó nơi tâm và hạnh Bồ Đề của Ngài và mỗi Phật tử chúng ta cũng phải thực tập hạnh thị hiệnkham nhẫn của Ngài để cúng dường Ngài nhân ngày Phật Đản.

Thuận Theo Chính Pháp:

Tại sao Đức Phật đản sinh từ hông phải của mẹ là Hoàng hậu Maya? Sinh ra phía hông phải là tượng trưng cho sự có mặt của Ngài là thuận theo chính phápdìu dắt chúng sinh đi theo chính pháp.

Chính pháp là pháp nêu rõ sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân sinh khởi khổ, sự thật về khổ chấm dứtsự thật về con đường thoát khổ.

Sự thật về khổ là nhân quả của khổ luôn luôn cùng nhau tiếp diễn trong đời sống của mỗi chúng sinh dưới nhiều hình thức biến hoạisinh thành luân chuyển khác nhau.

Sự thật nguyên nhân sinh khởi khổ là tham sân si, vô minhchấp ngã.

Sự thật về khổ chấm dứt là sự an lạc của Niết bàn.

Sự thật về con đường thoát khổ, chính là Bát chính đạo. Đi theo con đường diệt khổ, gọi là thuận theo chính pháp. Do thuận theo chính pháp mà mọi khổ đau đều được chấm dứt.

Nên khi nhập thai, Đức Phật đã nhập vào hông phải của hoàng hậu Maya và khi xuất thai, Ngài cũng xuất thai từ hông phải của hoàng hậu Maya, nhằm biểu hiện rằng, nhập hay xuất, ẩn hay hiện gì của Đức Phật giữa cuộc đời đều là thuận theo chính pháp hay phù hợp với chân lý.

Và chỉ có chính pháp mới có khả năng dựng đứng lại những gì do mọi tà thuyết giữa thế gian đã làm cho thế gian nghiêng ngửa, xiêu vẹo; chỉ có chính pháp mới có khả năng hàn gắn lại những gì do các tà thuyết giữa thế gian làm cho thế gian đỗ vỡ, mất đoàn kết; chỉ có chính pháp mới có khả năng dẫn đạo thế gian đi lên và chỉ có chính pháp mới là ánh sáng đích thật, giúp cho mọi người trong thế gian thấy rõ đâu là sự thật của khổ đau và hạnh phúc để tự chọn lấy con đườnglên đường.

Bảy Bước Chân Đi:


Bảy bước đi của Bồ tát Tất đạt đa trong ngày thị hiện đản sinh là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ. Hay nói theo thuật ngữ chuyên môn của Phật họcThất giác chi hoặc Thất bồ đề phần. Hễ bất cứ ai thực tập thành tựu được bảy yếu tố giác ngộ nầy, thì vị đó có cơ hội trở thành bậc Giác ngộ hay trở thành một vị Phật.

Qua các kinh điển cho chúng ta biết, không riêng gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thị hiện đản sinh Ngài đi bảy bước, trên bảy hoa sen, mà bất cứ Đức Phật nào dù trong quá khứ hay trong tương lai, khi thị hiện đản sinh với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, cũng đều đi bảy bước trên bảy hoa sen vậy.

Hoa sentiêu biểu cho sự vô nhiễm. Nghĩa là Bồ tát Nhất sinh bổ xứ sinh ra giữa thế gian, nhưng không bị những bụi bặm của thế gian làm cho ô nhiễm, mà trái lại còn có khả năng chuyển hóa những bụi bặm của thế gian thành hương thơm tinh khiết. Bảy bước trên bảy hoa sen ấy là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ mà một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ thực tập thành công và sẽ thành tựu bậc giác ngộ ngay trong cuộc đời đầy ô nhiễm nầy. Bảy yếu tố giác ngộ ấy gồm.

1. Trạch pháp giác chi:

Trạch pháp giác chichi phần dẫn đến Thánh đạo vô lậu, do nội dung giác chiếu, chọn lựa gồm có đủ Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực và có sự quyết trạch giác phần, khiến cho các phiền não đã sinh liền diệt, những phiền não chưa sinh, thì vĩnh viễn không sinh, khiến bồ đề chưa sinh thì liền sinh và nếu đã sinh thì sẽ dẫn đến viên mãn.

Nên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi có mặt nơi thế giới Ta bà này là Ngài đã lưu trú nơi cung trời Đâu suất để có cơ hội quán chiếulựa chọn cõi nước, dòng dõi, cha mẹ để giáng thần và vườn Lâm tỳ ni để đản sinh.

Như vậy, chúng ta thấy, yếu tố trạch pháp rất quan trọng. Khi xuât hiện nơi thế giới nầy rồi, Ngài chọn tiếp chỗ để Ngài hành thiền và thành đạoBồ đề Đạo tràng, nơi chuyển vận Pháp luânLộc Uyển, và nơi Niết Bàn là rừng Sa la ở Kusinaga.

Như vậy, chúng ta tiếp xúc với Phật đảnchúng ta tiếp xúc với khả năng trạch pháp của Ngài. Nhờ thực hành trạch phápĐức Phật đã thành công trên bước đường giác ngộgiáo hóa chúng sinh.

Do đó, trạch pháp giác chitiêu biểu cho bước đi thứ nhất trong ngày thị hiện đản sinh của Ngài.

Vì vậy, là Phật tử chúng ta phải thực tập trạch pháp giác chi, để có khả năng loại bỏ tham dục, chấp ngã, loại bỏ mê tín, cuồng tín; loại bỏ những tà sư ác hữu, thân cận những bậc thiện hữu tri thức, xuất hiện đúng thời, đúng chỗ đã chọn lựa để thăng tiến đời sống giác ngộ, giải thoát, làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.

Nếu chúng ta sống thiếu trạch pháp, thì chúng ta làm việc không đúng thời, nói năng không đúng lúc và không đúng chính pháp, chúng ta sẽ nhận thầy tà làm thầy chính, bạn ác làm bạn hiền, làm thân hữu để rồi đi dần vào con đường lầm lỗi ở trong sinh tử luân hồi, khó mong thoát khỏi.

Nên, trong mùa Phật Đản, phật tử chúng ta thực hành trạch pháp giác chi, để khởi sinh chất liệu giác ngộ, nhằm cúng dàng Đức Phậtphụng sự chính pháp.

2. Tinh tiến giác chi:


Tinh tiến giác chinỗ lực biến trạch pháp giác chi, trở thành hiện thực trong đời sống của mình, nên gọi là Tinh tiến giác chi. Nhờ có Tinh tiến giác chi mà các điều ác trong tâm đã sinh liền diệt, những điều ác chưa sinh, thì vĩnh viễn không sinh; những điều thiện nơi tâm chưa sinh, thì liền sinh; những điều thiện nơi tâm đã sinh, liền thăng tiến đến chỗ viên mãn.

Tinh tiến giác chitiêu biểu cho bước chân thứ hai trong ngày Đức Phật thị hiện đản sinh.

Lễ Phật Đản, chúng ta tổ chức dựng lễ đài để cúng dàng là đúng, tổ chức lạy Phật để cúng dàng là đúng, tổ chức tụng kinh để cúng dàng là đúng, nhưng tất cả những tổ chức đó phải có nội dung thật sự của trạch pháp giác chitinh tiến giác chi, chứ không phải chỉ là hình thức hay đối phó. Nếu ta tổ chức chỉ để đối phóhình thức, thì ta sẽ bỏ mất cơ hội tiếp xúc với ý nghĩa đích thật của Phật Đản.

Ngày Phật đản rất nhiều người thiếu may mắn, vì họ phải lao đầu vào công việc làm ăn vất vả, có những vị đang đắm chìm vào công việc sát sinh tại các lò mổ, lò quay, hồ cá, hay bận rộn với việc điều khiển đất nước, tính toán lợi hại ở nơi các doanh nghiệp hoặc ở nơi thương trường, thì quả thật là không may cho họ.

Nhưng cũng có những vị, ngày Phật đản có cơ hội đến chùa mà không hết lòng thực tập, trạch pháp giác, tinh tiến giác chi, khiến tâm ý không lắng yên, nói và làm không đúng chính pháp, thì quả thật không có sự phí phạmrủi ro nào có thể so sánh.

Ngày Phật Đản, ta đã phát tâm đi chùa lạy Phật, tụng kinh thì dứt khoát ta đi và đến chùa lạy Phật, tụng kinh một cách thấu đáo hết lòng, để cho cái đi chùa và cái lạy Phật, tụng kinh của ta, có kết quả như ta mong muốn và việc cúng dàng lên Đức Phật của ta có lợi lạc ngay cho bản thân của ta đời nầy và đời sau.

Nếu ngày Phật đản, ta không đủ điều kiện đến chùa, thì ngày hôm đó ta lạy Phật ở nhà, nếu ở nhà chưa có thờ Phật, thì ta ngồi thật yên để lạy Phật mười phươnglạy Phật trong tâm ta, khiến cho mọi ý nghĩ xấu ác nơi tâm ta rơi rụng. Nếu ta nỗ lực làm được như thế, thì ta vẫn có cơ hội tiếp xúc với bước chân thứ nhất và thứ hai của Đức Phật trong ngày đản sinh của Ngài. Đó là ý nghĩa của tinh tiến giác chi. Và ta đem chất liệu trạch pháp giác chitinh tiến giác chi ấy mà dâng lên cúng dàng Phật đản.

3. Hỷ giác chi:

Hỷ giác chichi phần giác chiếu đối với hỷ. Hỷ là vui thích. Sự vui thích do quá trình thực hành trạch pháp giác và tinh tiến giác mà sinh khởi. Như vậy, hỷ là niềm vui có cơ sở từ giác ngộ và để giác ngộ, chứ không phải niềm vui sinh khởi từ vô minhmù quáng. Nói cách khác, do thực tập đời sống tỉnh giác, khiến niềm vui sinh khởi.

Hỷ giác chitiêu biểu bước đi thứ ba của Đức Phật trong ngày Ngài đản sinh.

Nên, ngày Phật Đản, ta hãy thực tập đời sống tỉnh thức và đem niềm vui do sự tỉnh thức đem lại để cúng dàng ngày đản sinh của Đức Phật. Cúng dàng như vậy, gọi là sự cúng dàng tối thượng.

Mùa Phật đản các Giáo hội, nên tổ chức những ngày thực tập đời sống tỉnh thức, đời sống vị tha vô ngã, cho các giới Phật tử, để cho các giới Phật tử có niềm vui hỷ lạc ở trong chính pháp, khiến cho tâm thức của họ sáng lên ở trong Phật pháp, hơn là tổ chức cúng dàng Phật đảnhình thức khoa trương và bận rộn.

Tổ chức Phật đản mang tính hình thức khoa trương và bận rộn, thì tiêu hao tài lựcnhân lực rất nhiều, nhưng hiệu quả chuyển hóa tâm thức khổ đau cho chúng sinh cũng như đóng góp vào sự an bình cho xã hội thì lại rất khiêm tốn.

Vì vậy, hỷ giác chitiêu biểu cho bước chân thứ ba, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

4. Khinh an giác chi:

Khinh an là tâm nhẹ nhàng, thanh thoát do thực hành các pháp phần giác ngộ đem lại.

Trong ngày Phật Đản, ta muốn có tâm nầy để cúng dàng lên Đức Phật, thì ta phải thực tập buông bỏ những lời nói không dễ thương, những cử chỉ và hành động không dễ thương giữa ta với mọi người và ngay cả muôn vật nữa.

Và quan trọng hơn hết là ta phải thực tập buông bỏ triệt để những hạt giống tham dục, hận thù, hờn oán, trách móc, mù quáng, nghi ngờích kỷ ở nơi tâm ta, khiến cho tâm ta nhẹ nhàng và thanh thoát, ta hãy đem chất liệu nhẹ nhàng và thanh thoát ấy để cúng dàng ngày Phật Đản sinh. Ấy mới là sự cúng dàng tối thượng.

Khinh an giác chitiêu biểu cho bước chân thứ tư, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

5. Niệm giác chi:

Niệm giác chiduy trì năng lượng của ý thức tỉnh giác hiện tiền. Các yếu tố trạch pháp, tiến giác, hỷ và khinh an được duy trì bởi ý thức tỉnh giác hiện tiền, ta đem ý thức duy trì năng lượng tỉnh giác hiện tiền ấy do sự thực tập của ta mà có được, để cúng dàng Đức Phật trong ngày đản sinh của Ngài, ấy là sự cúng dàng Phật đản tối thượng.

Niệm giác chitiêu biểu cho bước chân thứ năm, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

6. Định giác chi:

Định giác chichi phần giác ngộ ở trong thiền định. Trong chi phần nầy có mặt của các niệm và định như niệm xứ, niệm như ý túc, niệm căn, niệm lực, định căn, định lực. Nhờ thực tập các niệm và định nầy sung mãn, chúng sẽ làm điều kiện để định giác chi sinh khởi.

Mỗi khi trong đời sống của mỗi Phật tử chúng ta đã có định giác chi, thì ta sẽ có những bước đi vững vàng trên con đường giác ngộ. Ta sẽ không bị các dục thế gian lôi cuốn, không bị mọi luận điểm thị phi của thế gian chi phốingăn cản.

Phật tử chúng ta phải thực tập giác chiếu, để trong đời sống của mỗi chúng ta có chất liệu của định giác chi và ta đem chất liệu của định giác chi ấy để cúng dàng Phật đản, thì hiệu quả cúng dàng của chúng tatác dụng làm cho Phật pháp trường tồn để chúng sinh lợi lạc. Cúng dàng như vậy chính là sự cúng dàng Phật đản tối thượng.

Định giác chitiêu biểu cho bước chân thứ sáu, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

7. Hành xả giác:

Hành giả giác chichi phần giác chiếu đối với xả. Xả là buông bỏ các tư niệm sai lầm liên hệ đến vô minh, liên hệ đến tham dục, liên hệ đến nhân duyên của sinh tử luân hồi. Hành xả là không đi theo hành nghiệp mê lầm của sinh tử, mà đi theo tỉnh giác, đi theo hạnh nguyện thoát ly sinh tử để độ đời.

Bất cứ ai thực tập được bảy chất liệu hay bảy bước đi trên con đường giác ngộ như thế một cách trọn vẹn, thì vị ấy có đủ điều kiện để tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa trên trời dưới đất, ta là vị độc tôn đối với bảy chất liệu giác ngộ.

Nên, ai thực hành đời sống giác ngộ viên mãn bảy chất liệu như vậy, là vị ấy độc tôn trong thế gian, được thế gian tôn kính, vì sao? Vì vị ấy, sẽ thoát ly sinh tử ngay trong đời nầy, thoát ly hoàn toàn khổ đau do tham dục đem lại, hoàn toàn không còn bị tái sinh đời sau; có khả năng chuyển vận bánh xe chính pháp để độ đời và có khả năng rống lên tiếng rống sư tử, khiến cho mọi sinh hoạt theo bản năng thú tính giữa thế gian đều bị rơi rụng, mọi tà kiến đều bị nhiếp phục, chính kiến hiển bày.

Như vậy, khi đản sinh, Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên bốthiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là có gốc rễ từ sự thực hành ở nơi bảy yếu tố giác ngộ nầy mà thuật ngữ chuyên môn của Phật học gọi là Thất bồ đề phần hay Thất giác chi.

Bảy yếu tố giác ngộ nầy là bảy tiến trình tu tập thiền định và quán chiếu dẫn đến đoạn trừ các lậu hoặc ở nơi tâm, khiến thành tựu các chất liệu của Thánh đạo vô lậu của tâm giác ngộ và giải thoát.

Nên, khi ra đời Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bước đi bảy bước, trên bảy hoa sentiêu biểu cho tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành tựu Phật hay bậc Giác ngộ do bảy yếu tố giác ngộ đem lại, khiến không còn bị nhiễm ô phiền não ngay trong đời nầy.

Tuy nhiên, ta biết rằng ở trong thế giới trời người không một ai thành tựu được bảy bước đi giác ngộ ấy một cách dễ dàng, và không một ai có khả năng tuyên bốThiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” mang tính thuyết phụchấp dẫn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài mới đản sinh.

Vì sao? Vì chính như Ngài đã nói: “Những gì Ngài nói là Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm, thì Ngài mới nói”.

Vậy, mùa Phật Đản trở về, Phật tử chúng ta, cố gắng tu học một cách hết lòng, sống và thực tập theo lời Phật dạy một cách sâu sắc, để chúng ta có cơ hội tiếp xúc với những gì mà đức Phật đã hiến tặng cho chúng tachúng ta cũng có cơ hội dâng lên cúng dàng Ngài, nhân ngày đản sinh với những gì mà chúng ta đang có được trong sự thực tập.

Và nhất là chúng ta cần phải thực tập bảy bước đi của Ngài trong đời sống của mỗi chúng ta, cho đến khi nào chúng ta có khả năng tự do đối với sinh tử.

Thực tập bảy bước đi của Đức Phật trong đời sống của mỗi chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta có thể thực tập trong lúc thở vào, thở ra hay đi đứng nằm ngồi, nói cười, ăn uống, làm việc và suy nghĩ.

Qua những hành hoạt như thế, chúng ta có thể tiếp xúc với Đức Phật mỗi ngày và mỗi ngày ta đều cúng dàng lên Ngài bằng tất cả sự thực tập của mỗi chúng tachúng ta thực tập như vậy là chúng ta cũng đã làm cho Đức Phật trong ta đang và sẽ đản sinh vậy.

Vậy, ngày Phật Đản, chúng ta phải làm thế nào, để Đức Phật thật sự có mặt với chúng ta, ngay trong đời sống qua bảy bước đi của Ngài.

Chúng ta thực tập được như vậy là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày Phật Đản một cách có ý nghĩa. Trên đài sen, Đức Phật sẽ nhìn chúng tamỉm cười, tin tưởng và thương quý!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19412)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18525)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16044)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29862)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25455)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21602)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17805)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20810)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26314)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33319)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52134)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22869)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23404)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39633)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22373)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6835)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22721)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69794)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43999)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23060)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35026)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44081)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42903)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44409)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24906)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24351)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39199)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39224)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17250)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18026)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19248)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35648)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24207)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19581)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20397)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18296)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18985)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18933)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17465)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19307)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30825)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19176)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20506)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19536)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19758)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29812)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17824)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19384)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19867)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58755)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24400)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23503)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39752)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26705)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40756)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22855)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22912)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21583)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18605)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22586)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21068)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19204)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20927)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20324)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30548)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17458)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16581)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16844)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14952)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14831)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22860)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16037)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16200)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15246)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26097)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17185)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15784)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19764)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17667)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14674)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14730)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19119)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15108)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33038)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17485)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19124)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21814)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22995)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16617)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16504)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22979)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26362)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12738)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29506)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27707)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25903)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18455)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant