Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiếp xúc và cúng dàng Phật đản

16 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10637)
Tiếp xúc và cúng dàng Phật đản


image


Tiếp Xúc Với Tâm Và Nguyện Bồ Đề:

đệ tử Phật, chúng ta tiếp xúc với sự ra đời của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng tachúng ta có cơ hội tiếp xúc với tâm Bồ đề nơi Ngài và ở nơi mỗi chúng ta.

Nếu Đức Phật không có tâm Bồ đề, thì Ngài đã và sẽ không có mặt với chúng ta. Vì Ngài đến với chúng ta bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài có tự do trong khi đến và có tự do trong khi đi. Chúng ta đến với Ngài cũng bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài mãi mãi có mặt ở trong mỗi chúng tachúng ta cũng mãi mãi có mặt ở trong Ngài.

Học hỏinghiên cứu các hệ thống kinh điển đã giúp cho ta biết rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát Bồ đề tâm hành Bồ tát đạo rất lâu xa. Lâu xa đến nỗi không thể dùng những con số của toán học để ước lượng hay tính đếm và cũng không thể nào dùng tri thức của con người để trắc lượng hay suy tưởng. Và cũng vì vậy mà Ngài đã thành Phật lâu lắm rồi, chứ không phải chỉ mới có đời nầy.

Đức Phật xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ, tại vườn Lâm tỳ ni, nước Nepal chỉ là vì bản nguyện độ sinhĐức Phật thị hiện đó thôi. Nên chuyện ghi lại ở trong các kinh điển, Bồ tát Tất đạt đa tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời bên hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen và nói:

Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”, có chư Thiên trỗi nhạc cúng dàng và dùng những vòi nước hoa để phun rửa, khi Bồ tát Tất đạt đa ra đời là chuyện hoàn toàn có thật, chứ không phải là huyền thoại.

Có thật, vì Ngài xuất hiện giữa cõi đời nầy với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, có đầy đủ đại bi, đại trí, đại nguyệnđại hạnh của tâm bồ đề, qua hình thức của một người phàm, mà không phải phàm, để đem lại lợi ích cho cuộc đời, chứ không phải là chuyện của một người phàm bình thường khi sinh ra giữa cuộc đời.

Nên, những đặc điểm khi Bồ tát Tất đạt đa xuất hiện được ghi chép ở trong kinh điển là chuyện có thật. Có thật, vì đó là chuyện của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ giáng trần, mà không phải là chuyện của một người thường. Và đó là chuyện có thật mà không phải là huyền thoại, vì mọi việc làm và biểu hiện của một người lớn trong đôi mắt trẻ thơ đều là khó hiểu và đều trở thành huyền thoại đối với chúng cả!

Chúng tanghiệp lực mà sinh ra, nên chúng ta không có được cái vinh hạnh đó như Bồ tát. Vì vậy, chúng ta không thể dùng con mắt phàm phu để mà nhìn Bồ tát, hoặc so sánh về một bậc Giác ngộ.

Nếu ta đem con mắt phàm phu, con mắt của nghiệp lực mà nhìn những biểu hiện của bậc Giác ngộchúng ta không thể nào hiểu nổi và hiểu hết. Do không hiểu nổi và hiểu hết bằng khả năng tri thức của con người, nên chúng ta cho là huyền thoại.

Nhưng, đúng với phẩm chất của một vị bồ tát có đầy đủ hạnh và nguyện lớn của tâm bồ đề, khi xuất hiện giữa thế gian, để đem lại lợi ích cho cuộc đời hay cho đa số, thì việc Bồ tát Tất đạt đa, khi ra đời từ hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất và tuyên bố; “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” là sự kiện chẳng huyền thoại chút nào.

Nên, những biểu hiện khác thường trong ngày đản sinh của Đức Phật, nếu chúng ta trầm tĩnh một chút là chúng ta có thể thấy, hiểu và tiếp xúc được. Chúng ta hãy tiếp xúc với những sự kiện đặc thù trong ngày Đức Phật đản sinh ấy, bằng tâm hạnh và nguyện bồ đề, chứ không nên tiếp xúc với những sự kiện ấy với tâm và hạnh mang đầy tham dụctri thức ngã tính.

Nếu chúng ta tiếp xúc với những sự kiện ấy bằng tâm đầy tham dụctri thức ngã tính, thì cái thấy và cái biết của chúng ta sẽ chuyển tải đến cho chúng ta những chất liệu đầy vô minh. Chúng ta sẽ hiểu Phật Đản theo cách hiểu vô minh của chúng tachúng ta sẽ hành hoạt theo vô minh trong ngày Phật Đản.

Thị Hiện Mà Không Phải Buộc Ràng:


Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này, rồi cũng phải vào thai mẹ để nằm, chúng ta nằm chín tháng mười ngày, còn Ngài thì ở trong bụng mẹ đến mười tháng. Nằm mười tháng là biểu tượng cho viên mãn hạnh nguyện độ sinh của Ngài trong mười pháp giới và có khả năng đưa chín pháp giới nhập vào nhất chân pháp giớiPhật giới.

Ngài nằm trong bụng mẹ với bản nguyện của bồ đề, nên Ngài thấy hạnh phúc, còn chúng ta nằm trong bụng mẹ bằng nghiệp lực, nên mất tự dođau khổ.

Không những chúng ta nằm trong bụng mẹ chín tháng mười ngày mới khổ, mà chỉ nằm một ngày thôi, một giờ thôi, cũng đã thấy khổ rồi, vì sao? Vì cái khổ của chúng ta là cái khổ do nghiệp bẩm sinh.

Đức Phật nói rằng, cái khổ bị sinh là sự thật của khổ và lại là cái khổ bậc nhất trong mọi cái khổ. Đức Phật thương cái khổ bị sinh của chúng sinh, nên Ngài mới thị hiện giữa cuộc đời này đề dạy dỗ chúng sinh, hướng dẫn cho chúng sinh, cách sống thế nào để thoát ly cái khổ do nghiệp bảm sinh ấy.

Chỉ vì chúng sinh không nghe hoặc nghe mà không hiểu, không thực tập để sống, không chịu thực hành xả ly, cứ bám víu hết cái này đến cái khác, nên bị khổ đau mãi hoài; và cũng vì thương cái khổ của chúng sinh, nên Đức Phật cũng phải kham nhẫn để giáo hóa chúng sinh, dưới nhiều hình thức và nhiều thời kỳ khác nhau.

Vì vậy, ở trên đời không ai thương chúng ta bằng Phật thương chúng ta. Cha mẹ chỉ thương chúng ta một đời và có thể giúp ta thoát khỏi khổ cơm áo, còn Phật thương chúng ta nhiều đời và có rất nhiều phương tiện giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau sinh tử, đến chỗ an toàn.

Kinh Pháp Hoa có dạy: Khi Phật giảng kinh Pháp hoa, có năm ngàn vị Thanh văn bỏ ra về. Phật thương họ, nhưng không cản. Vì Ngài biết nhân duyên của họ chưa đủ để tiếp nhận diệu pháp trong thời điểm nầy. Nhưng sau đó, Ngài cũng tìm đủ mọi cách giáo hóa và đưa họ về với Phật đạo, để tu tập và đều thọ ký cho họ thành những bậc Giác ngộ trong tương lai.

Ngài nói với các vị đó rằng: tôi đã từng giáo hóa các thầy khi các thầy là những vị Bồ tát, còn tôi là Sadi thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, vào thời ấy, vì quý vị ham chơi, nên quí vị mãi trôi lăn cho đến bây giờ. Quý vị cũng đã từng biết ít cho là đủ, bỏ điều cao quí, thỏa mãn với những thành quả tầm thường. Giờ đây, tôi đã thành Phậttiếp tục giáo hóa cho các vị và tôi không hề bỏ quí vị, vì quí vị là những người rất đáng thương và cần phải quan tâm để dìu dắt.

Chúng ta thấy tình thương của Đức Phật đối với chúng sinh là cao cả và hiếm có trong đời. Tình thương của Đức Phật do đâu mà có? Do từ nơi tâm bồ đề mà có; từ nơi trí tuệ mà hiện khởi và từ nơi hạnh kham nhẫn mà tựu thành. Vì tâm và hạnh của Ngài như vậy, nên Ngài đã được chư thiênloài người ca ngợi là đấng Đại Từ, Đại Bi đối với chư thiên, loài người và hết thảy muôn loài.

Vì vậy, cúng dàng Phật Đảnchúng ta tiếp xúc cho được ý nghĩa cao quí đó nơi tâm và hạnh Bồ Đề của Ngài và mỗi Phật tử chúng ta cũng phải thực tập hạnh thị hiệnkham nhẫn của Ngài để cúng dường Ngài nhân ngày Phật Đản.

Thuận Theo Chính Pháp:

Tại sao Đức Phật đản sinh từ hông phải của mẹ là Hoàng hậu Maya? Sinh ra phía hông phải là tượng trưng cho sự có mặt của Ngài là thuận theo chính phápdìu dắt chúng sinh đi theo chính pháp.

Chính pháp là pháp nêu rõ sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân sinh khởi khổ, sự thật về khổ chấm dứtsự thật về con đường thoát khổ.

Sự thật về khổ là nhân quả của khổ luôn luôn cùng nhau tiếp diễn trong đời sống của mỗi chúng sinh dưới nhiều hình thức biến hoạisinh thành luân chuyển khác nhau.

Sự thật nguyên nhân sinh khởi khổ là tham sân si, vô minhchấp ngã.

Sự thật về khổ chấm dứt là sự an lạc của Niết bàn.

Sự thật về con đường thoát khổ, chính là Bát chính đạo. Đi theo con đường diệt khổ, gọi là thuận theo chính pháp. Do thuận theo chính pháp mà mọi khổ đau đều được chấm dứt.

Nên khi nhập thai, Đức Phật đã nhập vào hông phải của hoàng hậu Maya và khi xuất thai, Ngài cũng xuất thai từ hông phải của hoàng hậu Maya, nhằm biểu hiện rằng, nhập hay xuất, ẩn hay hiện gì của Đức Phật giữa cuộc đời đều là thuận theo chính pháp hay phù hợp với chân lý.

Và chỉ có chính pháp mới có khả năng dựng đứng lại những gì do mọi tà thuyết giữa thế gian đã làm cho thế gian nghiêng ngửa, xiêu vẹo; chỉ có chính pháp mới có khả năng hàn gắn lại những gì do các tà thuyết giữa thế gian làm cho thế gian đỗ vỡ, mất đoàn kết; chỉ có chính pháp mới có khả năng dẫn đạo thế gian đi lên và chỉ có chính pháp mới là ánh sáng đích thật, giúp cho mọi người trong thế gian thấy rõ đâu là sự thật của khổ đau và hạnh phúc để tự chọn lấy con đườnglên đường.

Bảy Bước Chân Đi:


Bảy bước đi của Bồ tát Tất đạt đa trong ngày thị hiện đản sinh là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ. Hay nói theo thuật ngữ chuyên môn của Phật họcThất giác chi hoặc Thất bồ đề phần. Hễ bất cứ ai thực tập thành tựu được bảy yếu tố giác ngộ nầy, thì vị đó có cơ hội trở thành bậc Giác ngộ hay trở thành một vị Phật.

Qua các kinh điển cho chúng ta biết, không riêng gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thị hiện đản sinh Ngài đi bảy bước, trên bảy hoa sen, mà bất cứ Đức Phật nào dù trong quá khứ hay trong tương lai, khi thị hiện đản sinh với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, cũng đều đi bảy bước trên bảy hoa sen vậy.

Hoa sentiêu biểu cho sự vô nhiễm. Nghĩa là Bồ tát Nhất sinh bổ xứ sinh ra giữa thế gian, nhưng không bị những bụi bặm của thế gian làm cho ô nhiễm, mà trái lại còn có khả năng chuyển hóa những bụi bặm của thế gian thành hương thơm tinh khiết. Bảy bước trên bảy hoa sen ấy là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ mà một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ thực tập thành công và sẽ thành tựu bậc giác ngộ ngay trong cuộc đời đầy ô nhiễm nầy. Bảy yếu tố giác ngộ ấy gồm.

1. Trạch pháp giác chi:

Trạch pháp giác chichi phần dẫn đến Thánh đạo vô lậu, do nội dung giác chiếu, chọn lựa gồm có đủ Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực và có sự quyết trạch giác phần, khiến cho các phiền não đã sinh liền diệt, những phiền não chưa sinh, thì vĩnh viễn không sinh, khiến bồ đề chưa sinh thì liền sinh và nếu đã sinh thì sẽ dẫn đến viên mãn.

Nên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi có mặt nơi thế giới Ta bà này là Ngài đã lưu trú nơi cung trời Đâu suất để có cơ hội quán chiếulựa chọn cõi nước, dòng dõi, cha mẹ để giáng thần và vườn Lâm tỳ ni để đản sinh.

Như vậy, chúng ta thấy, yếu tố trạch pháp rất quan trọng. Khi xuât hiện nơi thế giới nầy rồi, Ngài chọn tiếp chỗ để Ngài hành thiền và thành đạoBồ đề Đạo tràng, nơi chuyển vận Pháp luânLộc Uyển, và nơi Niết Bàn là rừng Sa la ở Kusinaga.

Như vậy, chúng ta tiếp xúc với Phật đảnchúng ta tiếp xúc với khả năng trạch pháp của Ngài. Nhờ thực hành trạch phápĐức Phật đã thành công trên bước đường giác ngộgiáo hóa chúng sinh.

Do đó, trạch pháp giác chitiêu biểu cho bước đi thứ nhất trong ngày thị hiện đản sinh của Ngài.

Vì vậy, là Phật tử chúng ta phải thực tập trạch pháp giác chi, để có khả năng loại bỏ tham dục, chấp ngã, loại bỏ mê tín, cuồng tín; loại bỏ những tà sư ác hữu, thân cận những bậc thiện hữu tri thức, xuất hiện đúng thời, đúng chỗ đã chọn lựa để thăng tiến đời sống giác ngộ, giải thoát, làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.

Nếu chúng ta sống thiếu trạch pháp, thì chúng ta làm việc không đúng thời, nói năng không đúng lúc và không đúng chính pháp, chúng ta sẽ nhận thầy tà làm thầy chính, bạn ác làm bạn hiền, làm thân hữu để rồi đi dần vào con đường lầm lỗi ở trong sinh tử luân hồi, khó mong thoát khỏi.

Nên, trong mùa Phật Đản, phật tử chúng ta thực hành trạch pháp giác chi, để khởi sinh chất liệu giác ngộ, nhằm cúng dàng Đức Phậtphụng sự chính pháp.

2. Tinh tiến giác chi:


Tinh tiến giác chinỗ lực biến trạch pháp giác chi, trở thành hiện thực trong đời sống của mình, nên gọi là Tinh tiến giác chi. Nhờ có Tinh tiến giác chi mà các điều ác trong tâm đã sinh liền diệt, những điều ác chưa sinh, thì vĩnh viễn không sinh; những điều thiện nơi tâm chưa sinh, thì liền sinh; những điều thiện nơi tâm đã sinh, liền thăng tiến đến chỗ viên mãn.

Tinh tiến giác chitiêu biểu cho bước chân thứ hai trong ngày Đức Phật thị hiện đản sinh.

Lễ Phật Đản, chúng ta tổ chức dựng lễ đài để cúng dàng là đúng, tổ chức lạy Phật để cúng dàng là đúng, tổ chức tụng kinh để cúng dàng là đúng, nhưng tất cả những tổ chức đó phải có nội dung thật sự của trạch pháp giác chitinh tiến giác chi, chứ không phải chỉ là hình thức hay đối phó. Nếu ta tổ chức chỉ để đối phóhình thức, thì ta sẽ bỏ mất cơ hội tiếp xúc với ý nghĩa đích thật của Phật Đản.

Ngày Phật đản rất nhiều người thiếu may mắn, vì họ phải lao đầu vào công việc làm ăn vất vả, có những vị đang đắm chìm vào công việc sát sinh tại các lò mổ, lò quay, hồ cá, hay bận rộn với việc điều khiển đất nước, tính toán lợi hại ở nơi các doanh nghiệp hoặc ở nơi thương trường, thì quả thật là không may cho họ.

Nhưng cũng có những vị, ngày Phật đản có cơ hội đến chùa mà không hết lòng thực tập, trạch pháp giác, tinh tiến giác chi, khiến tâm ý không lắng yên, nói và làm không đúng chính pháp, thì quả thật không có sự phí phạmrủi ro nào có thể so sánh.

Ngày Phật Đản, ta đã phát tâm đi chùa lạy Phật, tụng kinh thì dứt khoát ta đi và đến chùa lạy Phật, tụng kinh một cách thấu đáo hết lòng, để cho cái đi chùa và cái lạy Phật, tụng kinh của ta, có kết quả như ta mong muốn và việc cúng dàng lên Đức Phật của ta có lợi lạc ngay cho bản thân của ta đời nầy và đời sau.

Nếu ngày Phật đản, ta không đủ điều kiện đến chùa, thì ngày hôm đó ta lạy Phật ở nhà, nếu ở nhà chưa có thờ Phật, thì ta ngồi thật yên để lạy Phật mười phươnglạy Phật trong tâm ta, khiến cho mọi ý nghĩ xấu ác nơi tâm ta rơi rụng. Nếu ta nỗ lực làm được như thế, thì ta vẫn có cơ hội tiếp xúc với bước chân thứ nhất và thứ hai của Đức Phật trong ngày đản sinh của Ngài. Đó là ý nghĩa của tinh tiến giác chi. Và ta đem chất liệu trạch pháp giác chitinh tiến giác chi ấy mà dâng lên cúng dàng Phật đản.

3. Hỷ giác chi:

Hỷ giác chichi phần giác chiếu đối với hỷ. Hỷ là vui thích. Sự vui thích do quá trình thực hành trạch pháp giác và tinh tiến giác mà sinh khởi. Như vậy, hỷ là niềm vui có cơ sở từ giác ngộ và để giác ngộ, chứ không phải niềm vui sinh khởi từ vô minhmù quáng. Nói cách khác, do thực tập đời sống tỉnh giác, khiến niềm vui sinh khởi.

Hỷ giác chitiêu biểu bước đi thứ ba của Đức Phật trong ngày Ngài đản sinh.

Nên, ngày Phật Đản, ta hãy thực tập đời sống tỉnh thức và đem niềm vui do sự tỉnh thức đem lại để cúng dàng ngày đản sinh của Đức Phật. Cúng dàng như vậy, gọi là sự cúng dàng tối thượng.

Mùa Phật đản các Giáo hội, nên tổ chức những ngày thực tập đời sống tỉnh thức, đời sống vị tha vô ngã, cho các giới Phật tử, để cho các giới Phật tử có niềm vui hỷ lạc ở trong chính pháp, khiến cho tâm thức của họ sáng lên ở trong Phật pháp, hơn là tổ chức cúng dàng Phật đảnhình thức khoa trương và bận rộn.

Tổ chức Phật đản mang tính hình thức khoa trương và bận rộn, thì tiêu hao tài lựcnhân lực rất nhiều, nhưng hiệu quả chuyển hóa tâm thức khổ đau cho chúng sinh cũng như đóng góp vào sự an bình cho xã hội thì lại rất khiêm tốn.

Vì vậy, hỷ giác chitiêu biểu cho bước chân thứ ba, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

4. Khinh an giác chi:

Khinh an là tâm nhẹ nhàng, thanh thoát do thực hành các pháp phần giác ngộ đem lại.

Trong ngày Phật Đản, ta muốn có tâm nầy để cúng dàng lên Đức Phật, thì ta phải thực tập buông bỏ những lời nói không dễ thương, những cử chỉ và hành động không dễ thương giữa ta với mọi người và ngay cả muôn vật nữa.

Và quan trọng hơn hết là ta phải thực tập buông bỏ triệt để những hạt giống tham dục, hận thù, hờn oán, trách móc, mù quáng, nghi ngờích kỷ ở nơi tâm ta, khiến cho tâm ta nhẹ nhàng và thanh thoát, ta hãy đem chất liệu nhẹ nhàng và thanh thoát ấy để cúng dàng ngày Phật Đản sinh. Ấy mới là sự cúng dàng tối thượng.

Khinh an giác chitiêu biểu cho bước chân thứ tư, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

5. Niệm giác chi:

Niệm giác chiduy trì năng lượng của ý thức tỉnh giác hiện tiền. Các yếu tố trạch pháp, tiến giác, hỷ và khinh an được duy trì bởi ý thức tỉnh giác hiện tiền, ta đem ý thức duy trì năng lượng tỉnh giác hiện tiền ấy do sự thực tập của ta mà có được, để cúng dàng Đức Phật trong ngày đản sinh của Ngài, ấy là sự cúng dàng Phật đản tối thượng.

Niệm giác chitiêu biểu cho bước chân thứ năm, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

6. Định giác chi:

Định giác chichi phần giác ngộ ở trong thiền định. Trong chi phần nầy có mặt của các niệm và định như niệm xứ, niệm như ý túc, niệm căn, niệm lực, định căn, định lực. Nhờ thực tập các niệm và định nầy sung mãn, chúng sẽ làm điều kiện để định giác chi sinh khởi.

Mỗi khi trong đời sống của mỗi Phật tử chúng ta đã có định giác chi, thì ta sẽ có những bước đi vững vàng trên con đường giác ngộ. Ta sẽ không bị các dục thế gian lôi cuốn, không bị mọi luận điểm thị phi của thế gian chi phốingăn cản.

Phật tử chúng ta phải thực tập giác chiếu, để trong đời sống của mỗi chúng ta có chất liệu của định giác chi và ta đem chất liệu của định giác chi ấy để cúng dàng Phật đản, thì hiệu quả cúng dàng của chúng tatác dụng làm cho Phật pháp trường tồn để chúng sinh lợi lạc. Cúng dàng như vậy chính là sự cúng dàng Phật đản tối thượng.

Định giác chitiêu biểu cho bước chân thứ sáu, trong ngày thị hiện đản sinh của Đức Phật.

7. Hành xả giác:

Hành giả giác chichi phần giác chiếu đối với xả. Xả là buông bỏ các tư niệm sai lầm liên hệ đến vô minh, liên hệ đến tham dục, liên hệ đến nhân duyên của sinh tử luân hồi. Hành xả là không đi theo hành nghiệp mê lầm của sinh tử, mà đi theo tỉnh giác, đi theo hạnh nguyện thoát ly sinh tử để độ đời.

Bất cứ ai thực tập được bảy chất liệu hay bảy bước đi trên con đường giác ngộ như thế một cách trọn vẹn, thì vị ấy có đủ điều kiện để tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa trên trời dưới đất, ta là vị độc tôn đối với bảy chất liệu giác ngộ.

Nên, ai thực hành đời sống giác ngộ viên mãn bảy chất liệu như vậy, là vị ấy độc tôn trong thế gian, được thế gian tôn kính, vì sao? Vì vị ấy, sẽ thoát ly sinh tử ngay trong đời nầy, thoát ly hoàn toàn khổ đau do tham dục đem lại, hoàn toàn không còn bị tái sinh đời sau; có khả năng chuyển vận bánh xe chính pháp để độ đời và có khả năng rống lên tiếng rống sư tử, khiến cho mọi sinh hoạt theo bản năng thú tính giữa thế gian đều bị rơi rụng, mọi tà kiến đều bị nhiếp phục, chính kiến hiển bày.

Như vậy, khi đản sinh, Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên bốthiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là có gốc rễ từ sự thực hành ở nơi bảy yếu tố giác ngộ nầy mà thuật ngữ chuyên môn của Phật học gọi là Thất bồ đề phần hay Thất giác chi.

Bảy yếu tố giác ngộ nầy là bảy tiến trình tu tập thiền định và quán chiếu dẫn đến đoạn trừ các lậu hoặc ở nơi tâm, khiến thành tựu các chất liệu của Thánh đạo vô lậu của tâm giác ngộ và giải thoát.

Nên, khi ra đời Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bước đi bảy bước, trên bảy hoa sentiêu biểu cho tư cách của một vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành tựu Phật hay bậc Giác ngộ do bảy yếu tố giác ngộ đem lại, khiến không còn bị nhiễm ô phiền não ngay trong đời nầy.

Tuy nhiên, ta biết rằng ở trong thế giới trời người không một ai thành tựu được bảy bước đi giác ngộ ấy một cách dễ dàng, và không một ai có khả năng tuyên bốThiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” mang tính thuyết phụchấp dẫn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài mới đản sinh.

Vì sao? Vì chính như Ngài đã nói: “Những gì Ngài nói là Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm, thì Ngài mới nói”.

Vậy, mùa Phật Đản trở về, Phật tử chúng ta, cố gắng tu học một cách hết lòng, sống và thực tập theo lời Phật dạy một cách sâu sắc, để chúng ta có cơ hội tiếp xúc với những gì mà đức Phật đã hiến tặng cho chúng tachúng ta cũng có cơ hội dâng lên cúng dàng Ngài, nhân ngày đản sinh với những gì mà chúng ta đang có được trong sự thực tập.

Và nhất là chúng ta cần phải thực tập bảy bước đi của Ngài trong đời sống của mỗi chúng ta, cho đến khi nào chúng ta có khả năng tự do đối với sinh tử.

Thực tập bảy bước đi của Đức Phật trong đời sống của mỗi chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta có thể thực tập trong lúc thở vào, thở ra hay đi đứng nằm ngồi, nói cười, ăn uống, làm việc và suy nghĩ.

Qua những hành hoạt như thế, chúng ta có thể tiếp xúc với Đức Phật mỗi ngày và mỗi ngày ta đều cúng dàng lên Ngài bằng tất cả sự thực tập của mỗi chúng tachúng ta thực tập như vậy là chúng ta cũng đã làm cho Đức Phật trong ta đang và sẽ đản sinh vậy.

Vậy, ngày Phật Đản, chúng ta phải làm thế nào, để Đức Phật thật sự có mặt với chúng ta, ngay trong đời sống qua bảy bước đi của Ngài.

Chúng ta thực tập được như vậy là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày Phật Đản một cách có ý nghĩa. Trên đài sen, Đức Phật sẽ nhìn chúng tamỉm cười, tin tưởng và thương quý!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15568)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23015)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14046)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12975)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55094)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9156)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14431)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14197)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13877)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36309)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19873)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18163)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19207)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19133)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20279)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17631)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31523)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15930)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15009)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46170)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35929)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21046)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21590)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23389)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34371)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19482)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18942)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22931)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20175)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18361)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19836)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19521)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33402)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34473)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54508)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37712)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17870)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63632)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17377)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49648)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27429)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20270)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23017)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18888)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16318)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17909)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20933)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17353)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14463)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16859)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15990)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17461)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21975)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15093)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13499)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14361)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15381)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14982)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12694)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13347)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27386)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12509)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13184)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14483)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16229)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12400)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15403)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12862)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12194)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13194)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21640)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11276)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22718)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15078)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14941)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46178)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22444)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14567)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12615)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18896)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14726)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43853)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56964)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13833)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47478)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13648)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14565)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29002)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33304)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38373)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15394)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31224)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12522)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40383)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46652)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant