Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người xuất gia với hiếu đạo

01 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10665)
Người xuất gia với hiếu đạo

Một mùa Vu Lan báo hiếu nữa lại trở về, gợi nhắc cho chúng ta gương hiếu hạnh của Tôn giả Đại Mục Liên cứu mẹ; nhất là hình ảnh của đức Phật Bổn Sư đã báo hiếu cho song thân như lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thân mẫu, ân cần chăm sóc và thuyết cho phụ vương đang lâm trọng bệnh về pháp lạc của thánh quả Dự lưu,… Kể từ ấy, đạo Phật đã đi vào lòng người, và thật sự trở thành Đạo hiếu hạnh nhân luân; đạo lý ấy phát xuất từ nghi biểu bậc thầy của trời người, một con người sống đời dung dị, nhưng tâm hồn thanh cao và nghị lực siêu việt, trở thành những mẫu người giáo dục cho thế nhân ở nhiều góc độ khác nhau; như thi sĩ dân gian từng ca ngợi:

“Chơn như đạo Phật rất màu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài”.
“… Trên thời hiếu báo sinh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sinh Ta Bà”[1].

Thật vậy, cũng là một con người bằng xương bằng thịt, không phải dưới đất chui lên hay trên trời rơi xuống, mà là một con người cũng có cha mẹ, có một cuộc sống rất đổi thông thường như bao con người khác, nhưng có khác chăng cũng chỉ:

“Phàm đã là người xuất gia, đặt chân lên phương trời cao rộng, tâm hình khác tục, nuôi lớn dòng thánh, chấn nhiếp ma quân, báo đáp bốn ân, giúp cùng ba cõi”. (Văn Cảnh sách)

Cha mẹ là người đã cưu mangtrưởng dưỡng chúng ta nên vóc nên hình, nên con người trưởng thành, cất bước vững vàng và hoà nhập vào cuộc đời như ngày nay; nhất là với những người được mệnh danh là trưởng tử Như Lai, là bậc xuất trần thượng sĩ, với sứ mạng “Tác Như Lai sứ và hành Như Lai sự”, hoàn thiện nhân luân và viên mãn siêu thoát, thì không thể bỏ qua đạo lý cơ bản này. Ngay cả, công đức cao vời của đức Phật Thế Tôn, cũng có phần đóng góp không nhỏ của đấng dưỡng dục sinh thành.

“Thế Tôn chủ ba cõi,
Đại Hiếu Thích Ca Văn,
Nhiều kiếp báo thâm ân,
Thế nay thành Chánh giác.”
(Thế Tôn tam giới chủ, 
 Đại Hiếu Thích Ca Văn,
Trần kiếp báo thâm ân, 
Tích niên thành Chánh giác.)

Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường trong dàn nhạc giao hưởng, được trổi lên trong những buổi hoà nhạc trang trọng, nhưng khi kết thúc là chỉ đọng lại trong lòng mọi thính giả một kí ức mơ hồ man mác; mà nó chính là bản nhạc được tấu lên bằng những chuỗi âm thanh hoà quyện êm đềm du dương từ dòng máu theo nhịp tim của mẹ như dòng suối réo rắt chảy vào trong con, và những lời hát nỉ non hoà với tiếng kẻo kẹt võng đưa và xen lẫn tiếng xạc xào gió lướt từ quạt mo trên tay cha hiền ru con giữa trưa hè oi ả. Bản tình ca ấy mãi đệm theo bước chân con đi trên khắp nẻo đường nhân thế. Bản tình ca ấy cho con sự hiểu biết nơi cha và thương yêu nơi mẹ, cho con sức sống vượt chông gai gian khó để hướng đến thành công, cho con niềm tin yêu đối với cuộc sống, dù gì vẫn vui vẻ khi đời đã ban tặng cho mình những cái tốt đẹp hay đưa đến những điều xấu xa, dù được hay mất, dù buồn hay vui,… và dù gì đi nữa, con vẫn phải thành người. Cha mẹ cho con đầy đủ nghị lực ý chí sống: thất bại không thối chí, thành công không ngã lòng. Bởi, công cha và nghĩa mẹ đã đổ ra quá nhiều vì con:

“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Và: “Cha tôi tuy đã già rồi
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà
Cha tôi đã dậy để ra đi làm”.

Với tinh thần hiếu đạo theo Phật giáo tri ânbáo ân là một vấn đề cần phải lưu tâm. Đạo làm con phải biết hiếu dưỡng đối với song thân, nhưng hiếu dưỡng thế nào mới thật là chân chánh và thiết thực nhất để tốt đẹp cho cha mẹ cũng như lợi ích mọi người xung quanh. Phật dạy có 2 cách báo hiếuhiếu dưỡng và hiếu đức. Hiếu dưỡng là phụng dưỡng và an ủi vỗ về cha mẹ; hiếu đức là giúp cha mẹ tịnh tu giới đức và tác phước hành thiện.

Đức Phật cũng đã dạy rất nhiều cho các thầy Tỳ kheo về việc hiếu dưỡng đối với đấng sinh thành của mình. Tuy người xuất gia sống không gia đình, tài sản, nhưng chừng mực nào đó vẫn có thể phụng dưỡng cha mẹ già yếu, nếu cha mẹ không còn cháu con để nương tựa:

“Các thầy nên sớm hôm phụng dưỡng chăm sóc cơm nước và thuốc thang cho cha mẹ già yếu”. (Luật tạng & Kinh tạng)

 Đời cũng như Đạo, xưa cũng như nay, lúc nào ở đâu, cũng có nhiều lời phê phán những đứa con thất trách trong bổn phận đối với đấng sinh thành của mình về việc phụng dưỡng cha mẹ trong lúc già yếu:

“Cha mẹ sống chẳng cho ăn,
Chết lập đàn cỗ làm văn tế ruồi”.
Hoặc: 
“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Với những hạng người con này, cho dù họ có công thành, danh toại, có tiền tài và địa vị gì trong xã hội vẫn bị người đời mai mỉa; họ không đáng cho đời trọng dụng. Tình cha nghĩa mẹ là thứ tình cảm thiêng liêng, khơi nguồn cho mọi tình cảm nhân thế khác, vì còn gì quí báu hơn tình cốt nhục thâm ân; thứ tình cảm được nuôi nấng bằng dòng máu thắm và nắm ruột rứt ra, bằng cả tính mạng của chính cha mẹ, bằng cả tâm huyết trao cho con mình, vỗ về ấp ủ khi con ngủ, để mắt dõi theo khi con bước vào đời, con là những gì cao quí nhất của cả cha lẫn mẹ, vắt cạn cả sức sống của thân già cho con cháu có cuộc sống sung túc để xứng mặt với đời, mà không nghĩ đến bản thân mình quê mùa dân dã. Nếu không phải tấm lòng cao cả của mẹ cha, thì ai có thể chăm lo cho ta cuộc sống như vậy? Với những hạng người vong bản vô ơn, sẽ bị người đời chê trách. Còn nữa, có những người con nhiều tiền lắm của, nuôi cha mẹ với thái độ hững hờ theo kiểu thi ân, không hề có lòng chân thành thương mến. Một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả như vậy mà họ còn đạp đổ, thử hỏi mối quan hệ giữa họ và ta có nghĩa lý gì; nếu có thì cũng chỉ là thứ tình cảm man trá, dụng ý mưu mô. Mối quan hệ tình cảm huyết thống thiêng liêng mà họ còn chà đạp, thì không còn một mối quan hệ tình cảm xã hội nào họ thật lòng trân trọng.

Từ đó, chúng ta có thể nhận chân được, hiếu đạo là những gì được phát xuất từ tấm lòng chân thành của ta đối với đấng sinh thành của mình. Với khối óc hiểu biết và con tim yêu thương như vậy sẽ mách bảo cho chúng ta biết phải làm gì để báo đáp một phần nào ân sâu nghĩa nặng này. Tinh thần hiếu nghĩa này được phát xuất từ tấm lòng chân tình rất mực tôn kính ngay trong mỗi người con. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, người ta vẫn thể hiện được hiếu đạo của mình.

“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
“Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.

Vả lại, tinh thần hiếu đạo này còn cảnh báo cho chúng ta biết về đạo lý nhân quả tương tác tất yếu, nếu gieo thiện nhân thì gặt hái thiện quả, và ngược lại. Bài học đạogia phong này, mang tính đặc thù truyền thừa giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và cháu con trong mỗi gia đình:

“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì;
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công”.

Đức Phật khuyên, một trong những điều hiếu đạo cao cả nhất cần phải lưu tâm, giúp cho cha mẹ tránh xa con đường ác nghiệp, khả dĩ tạo ác nhân, để rồi lãnh lấy khổ đau cho hiện tạimai sau, là giúp cho cha mẹ có cuộc sống thanh cao bằng qui hướng Tam bảo và tác phước hành thiện, để rồi gặt hái hạnh phúcan lạc trong hiện tạimãi mãi về sau. Trong kinh Tăng chi bộ tập 1, tr. 75, đức Phật dạy về cách tri ânbáo ân cha mẹ như:

“Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới, đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích , hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích an trú vào thiện trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và trả đủ công ơn cho mẹ và cha”.

Hơn nữa, làm con cũng phải thực hiện những kỳ vọng của cha mẹ đặt nơi con, nếu không đồng nghĩa với đại nghịch bất hiếu. Đó là mong cho con được thành nhân, mong cho con thành danh, mong cho con nên cơ nghiệp để mở mặt mở mày với người. Vì những hoài bảo và kỳ vọng này mà cha mẹ không quản nại khó khổ, không ngại mình quê mùa, ra sức bươn chải nuôi con ăn học, dạy dỗ và khuyên lơn cho con phải sống cho xứng đáng đạo làm người.

Cũng vậy, tình cha và nghĩa mẹ đã cưu mang tôi trong thời thơ ấu; ngày tôi đi xuất gia còn bé lắm, cha mẹ nén nỗi đau phải xa con thơ mà nhìn nhau gượng cười, riêng tôi ngấn lệ suy nghĩ mông lung, tình cha nghĩa mẹ và tình cảm anh chị em gia đình đang chất chứa ngổn ngang trong lòng tôi. Tất cả với tôi như đang lưu luyến và không nỡ chia ly, nếu không có sự động viên của cha mẹ thì tôi khó bề rứt áo ra đi. Giờ này, suy nghĩ kĩ lại, cha mẹ nào lại không thương con thơ, nếu không phải vì tình thương cao cả, vì sự hy sinh cho ý nghĩa lớn lao thì cha mẹ tôi đâu nở xa đứa con bé nhỏ của mình. Ngày nay, tôi không dám tự phụ mình là đã hoàn thành tâm nguyện của cha mẹ, nhưng chừng mực nào đó tôi cũng đã làm cho cha mẹ mình vui lòng. Có lẽ đây chính là món quà nho nhỏ mà người xuất gia có thể dâng lên cho đấng sinh thành của mình. Nó không sang trọng hay cao quí trên phương diện vật chất, nhưng đây chính là món quà mà cha mẹ tôi hằng đợi mong.

Mong con thành danh, phải nỗ lực hết sức trong việc kiến tạo sự nghiệp bằng học tập, rèn luyện và làm việc, tự đứng trên đôi chân với khả năng chính mình để đi vào đời; không lêu lổng, bê tha, trác táng, hư đốn. Thật vậy, khi thấy con mình thành đạt trong cuộc sống, thì cha mẹ rất hài lòng, cảm thấy toại nguyện trong tuổi già. Đây cũng được xem là một nguồn hạnh phúc, an ủi tinh thần đối với bậc sinh thành. Do đó, lòng hiếu đạo đối với song thân là một đạo lý hết sức tế nhịsống động vô cùng, chỉ có cái đầu hiểu biết và tấm lòng thương yêu chân thành cùng với ý chí quả cảm chúng ta mới có thể thực hiện được đạo lý thâm trầm ấy bằng cách này.

Phật pháp cũng đã cảnh báo cho chúng ta, nếu không nỗ lực thật tu, thật học, thật hành trì và thật thân chứng giác ngộ giải thoát, hoàn thành đạo nghiệp cho chính mình và thực thi sự nghiệp lợi lạc cho thế nhân bằng dùng đuốc tuệ chánh pháp soi sáng thế gian u tối, thì cũng chỉ là kẻ tội đồ núp bóng cửa Phật mà thôi.

“Cha mẹ còn sống vẫn không thể nào nuôi dưỡng, cha mẹ quá vãng cũng không bạt độ nổi vong linh; tội bất hiếu như vậy sẽ không nơi nào dung thứ”. (Phát Bồ Đề Tâm Văn)

Thế nên, người xuất gia đúng nghĩa, phải nhập vai sứ mạng giáo hoá tha nhân, chính là mẫu người đạo đức, giữ cán cân đạo lý cho đời. Người xuất gia là người rất coi trọng hiếu đạo, nhưng cách thể hiện so với người đời có khác, đều hướng về đạo lý “Cội nguồn”. Tình yêu thương của người xuất gia không chỉ với cha mẹ trong hiện đời, mà còn xem “Chúng sinh trong tam giới đều từng là cha mẹ”. Chính vì lẽ đó, hiếu đạo đối với người xuất gia có phần mở rộng hơn, ứng biến hơn, thâm trầm và cao cả hơn rất nhiều so với người đời. Cũng bắt nguồn từ hiếu đạo ấy, nhưng từ phạm vi gia tộc huyết thống, bước sang lãnh vực pháp giới chúng sinh, mà trong tứ ân của người xuất gia đã dạy rõ. Phải là đoá hoa phạm hạnh ngát hương lan tỏa khắp các loài cỏ cây hoa lá trong ngôi vườn chánh pháp.

“Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng
Độc mộc khai hoa vạn thọ hương”.

Tháng bảy lại trở về, thêm rộn ràng lễ hội hiếu hạnh, làm thổn thức con tim của mọi ngườiPhật tử tại gia hay xuất gia hướng về ơn nghĩa sinh thành. Đây cũng là cách làm trong muôn ngàn cách thức của những người con hiếu hạnh hướng về song thân. Cho dù ân sâu nghĩa nặng ấy không thể nào đáp trả trong một sớm một chiều, nhưng cũng là tấm lòng chân thành báo đáp trong muôn một của người con hướng về cha mẹ. Nhưng thật ra cha mẹ mình có đòi hỏi gì đâu, chỉ cần thấy con cháu ngoan hiền hiếu thảohạnh phúc lắm rồi; mà làm cho cha mẹ hạnh phúc, cũng chính là cách tri ân và trả ân tốt đẹpý nghĩa nhất.

Với hiếu đạo, chúng ta phải có một cách nhìn toàn diện hơn. Chừng mực nào đó, người xuất giađời sống nặng về tinh thần hơn, nên khả năng “hiếu dưỡng” về cơm áo và gạo tiền cho cha mẹ rất hạn chế, nhưng không vì thế mà cho rằng người xuất gia không làm tròn hiếu đạo, mà hoàn thành một cách rất có hiệu quả nữa là khác, xuyên qua “hiếu nghĩa” và “hiếu đức” trong vai trò xuất thế, bằng trau dồi giới đức và tịnh tu phạm hạnh của mình, kiến tạo phước điền cho đời, trong đó có cha mẹ thân bằng quyến thuộc; giúp mọi người trút bỏ mọi ưu phiền khổ lụy, ngay phút giây hiện tiền giác ngạn đồng đăng; như cổ nhân đã từng xác chứng: “Nhứt nhơn đắc quả cửu huyền siêu thăng”.



[1] Thơ nhân gian: Nam Hải Quan Âm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20420)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22323)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18761)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27019)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18722)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19941)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38064)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20147)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28323)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46326)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15451)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65670)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13731)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18633)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14570)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18730)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12638)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17656)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25479)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38726)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17703)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11248)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18598)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17413)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13213)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13314)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17540)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24308)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12375)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13800)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12994)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12888)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14163)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14624)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21103)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22626)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29978)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13870)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18239)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17054)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12626)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30724)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22805)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14645)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13002)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12739)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12517)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13062)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16308)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15211)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23851)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16183)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28993)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20290)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15564)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37245)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45040)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36900)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant