Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục A

18 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12347)
Phụ lục A

CHẾT AN LẠC, TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng

Phụ lục

 Một vài lễ nghi đơn giản cho người Phật tử khi qua đời.

Điều quan trọng để thực tập những hình thức lễ bái cầu nguyệnthiền định nơi một vị Phật và những vị Phật Tịnh Độ ở trước, trong khi hay sau khi của một người quá cố là phải lễ bái một vài vị Phật, tốt hơnđức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), đức Quán Thế Âm, đức Kim Cang Tát Đỏa, bằng 100 sự hòa bình và những vị thần phẫn nộ, Sarvavid Vairochana hoặc Vajrabhairava (Kim Cang Đại Sĩ). Trong đó sự giới hạn của quyển sách này, tôi không thể dụng ý làm rõ từng chi tiết về những lễ nhạc cho việc qua đời có tính cách truyền thống được. Thay vào đó, tôi sẽ đưa ra một vài nghi lễ đơn giản, nhưng những nghi lễ ấy có tính cách quan trọng mà có thể thực hiện bởi một vị Lạt Ma hay người trợ tử cho một người sắp chết hay đã qua đời.

Lễ cầu siêu được giới thiệu ở phần phụ lục A và B, những việc này rất phổ thôngTây Tạng và là căn bản chính cho việc cầu nguyện cũng như thiền định với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Những tài liệu đặc biệt mà tôi xử dụng ở đây được trích dẫn từ những công trình của các vị Lạt Ma lớn thuộc truyền phái Nyjingma.

Nếu các bạn thỉnh cầu để thực hiện một vài lễ nhạc như thế này thì hãy cố gắng đọc những chữ bằng tiếng Tây Tạng in đậm có đính kèm nếu các bạn có thể. Nếu các bạn thích thì thay vào đó các bạn cũng có thể đọc bằng bảng dịch tiếng Anh đi kèm, tuy nhiên những Thần chú và tên người cầu nguyện thì các bạn phải đọc bằng tiếng Tây Tạng hoặc tiếng Sanskrit mà những chữ ấy cũng sẽ hiện ra đậm kèm theo đó.

Một vài chú giải khi yêu cầu phát âm bằng tiếng Tây Tạng được thể hiện nơi đây được giản dị hóa qua cách phát âm để người đọc có thể đọc được và tụng kinh cầu nguyện. Tiếng Tây Tạng khác nhau giữa một vài âm điệu mà chẳng phải lúc nào những người nói tiếng Anh khó nhận ra được. Điều quan trọng được ghi nhận rằng những người nói tiếng Anh cần phải phân biệt cách phát âm của một vài phụ âm. Như vậy tôi mong trong sự trích dẫn đặc biệt này nên chú ý về những âm sau đây.

-Ph và Th: Tiếng Tây Tạng phát âm P và T nhưng được viết Ph và Th. Tùy theo những chữ giống như phowa và Thamel. Những âm này không đánh vần giống như tiếng Anh F và Th như Fat và That. Thay vào đó chúng phải được gần giống với tiếng Anh như P và T riêng lẽ cho phần phát âm ra hơi, có thể nghe bằng tiếng Anh trong âm P trong chữ “put’’, như trái ngược lại với P trong chữ paper và chữ T trong butter như là sự trái ngược lại với việc không nhiệt thành trong chữ but.

-Ch: điều quan trọng nên ghi nhớ những sự khác biệt ấy giữa tiếng Tây Tạng và tiếng Anh về cách phát âm và không phát âm theo bản dịch của tiếng Anh âm Ch. Ở trong bản phụ lục này việc phát âm tiếng Tây Tạng Ch như dưới đây bởi dấu nhấn như là chữ ch’o. Đây là điều nhấn mạnh hơn âm cho. Việc phát âm Ch’ có thể ngẫu nhiên gặp trong tiếng Anh là chesse như ngược lại và mềm hơn ch trong chữ chess. Chữ Ch’ hoặc Ch âm ấy chẳng hề đánh vần giống như chữ Ch nặng trong tiếng Anh như chord.

Zh- là ngang qua giữa tiếng Anh sh và z và được phát âm đại khái giống như một tử âm trong tên Zsa Zsa.

-Ts và được phát âm Tsh là những âm khó tìm ra trong tiếng Anh ở phần bắt đầu của một âm tiết; nhưng có thể được nghe chữ ấy giống như its và heats.

-Dz là giống với Ts; nhưng với âm của một chữ z

-Ng và Ny không phải lúc nào cũng được phân biệt như trong tiếng Anh từ chữ N. Tuy nhiên những âm thanh ấy có thể nghe giống như trong chữ Long Island (phát âm không mạnh như chữ G) và trong chữ can you.

* Ghi chú của dịch giả: để đơn giản hoá cách đọc tụng, chúng tôi chỉ dịch phần tiếng Anh đã được dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Việt và chúng tôi không kèm theo phần tiếng Tây Tạng trong sách này. Nếu quý vị nào cần tụng đọc tiếng Tây Tạng thì xin xem nguyên mẫu hoặc trong quyển sách tiếng Anh này đã được phiên âm cho các Phật tử Tây phương làm quen để đọc tụng.

 

Phụ lục A

 Thiền định về bốn nguyên nhân tái sanh cảnh giới Cực Lạc

 

Thiền địnhcầu nguyện được đưa vào bản phụ lục A này là từ sự cộng thông hoặc là những kinh điển, lời dạy của chư Phật (những điều căn bản này nằm ở trong kinh; những lời dạy của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni). Nếu tâm thức của bạn được hấp thụ bởi những sự thực tập này thì bạn sẽ sẵn sàng học để thực tập những điều ấy.

Chúng là những lời cầu nguyệnthực hành Thiền quán cho bốn nguyên nhân của việc sanh về cõi Cực Lạc. Những việc thực hành này sẽ mở ra một con đường cho bạn để sanh về cõi Tịnh độ. Chúng sẽ bổ sung cho bạn để thực hiện lễ cầu siêu cho những người khác.

Dựa theo những nguồn của các kinh điển Phật Giáo, vô số thời gian dài trước đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) đã trở thành một sự nương tựa cho con đường Bồ Tát đạo. Tên của Ngài là Dharmakara (Pháp Tạng). Trước đức Phật tên là Lokeshvara (Thế Tự Tại) Ngài đã khởi đầu con đường tinh thần qua những lời thệ nguyện của một vị Bồ Tát. Ngài thề rằng sẽ dẫn dắt cho tất cả những ai nghe, nhớ nghĩ và cầu nguyện đến tên của Ngài với sự tin tưởng và quy hướng về cõi Tịnh độ của Ngài thì lúc ấy Ngài mới thành Phật.

“Tất cả chúng sanh, ai nghe được danh hiệu ta sẽ đến cõi Tịnh Độ của ta”

Nếu bạn tin tưởng, tín cẩn vào những lời nguyện của đức Phật, trí tuệlòng từ bi của Ngài thì bạn sẽ mở cánh cửa cho kết quả năng lực của những lời thệ nguyện ấy. Bởi vì qua năng lực của sự hỗ tương nương tựa để tồn tạinguyên nhân của những lời nguyện của Đức Phật. Nếu bạn cầu nguyện qua danh hiệu Ngài thì sẽ hoan hỷ sanh về nơi cõi Tịnh độ của Ngài – bên trong bạn và cả bên ngoài bạn - sẽ được xác nhận. Ngài Shinran (Thân Loan) là người sáng lập nên Jodo Shinshu (Tịnh Độ Chơn Tông) vào thế kỷ thứ 12 là Tông Tịnh Độ Chơn Tông của Nhật Bản đã nói rằng: “Trong khoảnh khắc ấy nếu chúng ta vận chuyển toàn tâm Nembutsu (niệm Phật) (Thần chú của Đức Phật Vô Lượng Quang) bởi sự kiên cố chí thành thì việc tái sinh của chúng ta về cõi Tịnh độ sẽ đạt được chắc chắn bởi đức hạnh của những việc làm của đức Phật A Di Đà không thể rõ biết và đo lường được. Lời nguyện nguyên thỉ ấy, chúng ta có khả năng chia ra bởi sự lợi ích đó mà che chở cho tất cả cũng như không bỏ một người nào”.

 

Nếu với sự tin tưởng hoàn toàn của tâm thức bạn thì hướng về trọn vẹn ở nơi đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà); Ngài có tấm thân đầy lòng từ bitrí tuệ và ở nơi sức mạnh của sự cầu nguyện danh hiệu Ngài, cả cuộc đời của bạn sẽ trở nên hòa bình, trong sángtỉnh thức. Bạn sẽ trở thành một nguồn năng lượng giống hệt cho tất cả mọi người ở chung quanh bạn.

Khái niệm không tốt và những tình thức khổ não sẽ không có chỗ đứng yên ổn dễ dàng trong các bạn. Như vậy thì các bạn sẽ chẳng cần một vài cách nào khác để đạt thành sự giải thoát. Một tâm thức như vậy tự nhiên bao gồm phẩm chất của Lục độ ba la mật. Sự khoan dung, đạo đức, kiên nhẫn, sự siêng năng, sự chờ đợi và trí tuệ.

Nếu các bạn hoan hỷ tin tưởng hoàn toàn nơi đức Phật thì các bạn phải thích dụng nó như là ý nghĩa của sự cải thiện về cái chết cũng như sự tái sanh của các bạn như xuyên qua thiền định ở dạng thức phowa. Bạn phải chuẩn bị lâu dài trước khi cái chết của chính bạn và cũng như trước khi thực hiện lễ cầu siêu cho người chết. Nếu bạn chẳng có kinh nghiệm trầm tư trong sự tiến bộ thì bạn chẳng có thể nhận hoặc cho sự giúp đỡ xuyên qua việc cầu nguyện hay thiền định. Nếu bạn chẳng có sự nối kết mặc nhiên với đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài thì làm thế nào bạn có thể tái sanh vào cõi Tịnh độ hoặc hướng dẫn một vài người chết khác ở tại đó?

Người chết đã được thực tập thiền định trong sự tiến bộ có thể thiền quáncầu nguyện một mình, không cần tin tưởng vào sự trợ lực của những người khác nữa. Hoặc giả, nếu có một người chết với nhiều kinh nghiệm và người trợ tử thực tập tốt cùng nhau thực tập thiền địnhcầu nguyện thì sự sanh về nơi cõi Cực Lạc dễ dàng đạt được.

Như vậy điều đó thuộc về bản chất để huấn luyện cho việc xác nhận về bốn nguyên nhân ấy, để cho thành tựu qua việc lần lượt quyết định thuộc về kinh nghiệm của bạn. Bạn có thể luyện tập cho bốn nguyên nhân ấy như thực tập Thiền định hằng ngày của bạn cũng như sự cầu nguyện trong hằng tháng, hằng năm. Bạn nên giữ việc lập lại danh hiệu Ngài để cầu nguyện và tụng những Thần chú hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu lần như vậy.

Nếu các bạn đã thực tập trong bốn nguyên nhân ấy thì các bạn sẽ sanh về cõi Tịnh độ, ngay cả nếu bạn đã chìm sâu vào những hành vi tội lỗi ngoại trừ hai hành vi sai trái căn bản. Đầu tiên là hành động hủy báng giáo pháp. Nếu bạn đã chẳng tin vào giáo pháp, điều ấy sẽ chẳng thể được nương tựa với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà),vì nguyên nhân căn bản của việc tái sanh về cõi Tịnh độ là phải đặt niềm tin nơi giáo pháp. Hành vi sai trái thứ hai là phạm vào tội ngũ nghịch như: giết Mẹ, giết Cha, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng và làm cho thân Phật hư hoại. Tiêu điểm chính yếu của bốn nguyên nhân này là sự cầu nguyệnthiền định hướng về đức Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) cùng cõi Cực Lạc của Ngài. Đức Phậthóa thân của tất cả những bậc giác ngộ và sự biểu thị của chơn lý vũ trụ. Cõi Cực Lạc được hiện ra với ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ của chư Phật tại cõi Tịnh độ.

Ngay cả các bạn chưa quy y với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và ngay cả là một người Phật tử đang thực hành 4 nguyên nhân sẽ được tạo ra vô số phước đức. Giòng suối tâm thức của bạn và tất cả những sự biểu hiện trong ngôn từ và hành động sẽ trở thành sự hòa bình và an lạc an toàn hạnh phúc trong việc tái sanh.

 

Hãy quán tưởng một bầu không khí có tính cách an toàn ở trước bạn, như cảnh giới Cực Lạc được tường thuật ở chương 7 rằng: sáng chói tuyệt vờiđẹp đẽ; phồn vinh và trong sạch; hoan hỷ và hòa bình được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ. Ở giữa cõi kia được quán tưởng như một cung điện với sự hiện hữu của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), giống như một núi ánh sáng to lớn vĩ đại.

Vô lượng ánh sáng trí tuệ được lưu xuất từ thân thể của Ngài, chiếu sáng đến khắp các vũ trụ và những cõi Tịnh độ với sự hòa bình và an lạc to lớn. Ngài đang hướng về các bạn và nhìn xem bạn đồng thời ở mỗi chúng sanh với trí tuệ toàn tri của Ngài; sức mạnh vô địch, cũng như lòng từ bi không điều kiện, giống như một người Mẹ đối với chỉ có riêng cho con mình.

Các bạn có thể cầu nguyệnthiền quán về bốn nguyên nhân này cho chính bạn hoặc ngoài ra có một vài người nào đó có thể làm điều ấy cho bạn, cho chính sự tái sanh của bạn về cõi Cực Lạc. Bạn có thể thể hiện việc này cho những người khác, ngay như họ đang chết hoặc còn sống. Hoặc giả bạn và những người khác có thể thực hiện chung điều ấy với nhau cho chính bạn hoặc cho những người khác. Tuy nhiên những hình thức lễ bái sau đây được lập lại ngay cả nếu bạn thực hành cho chính bạn và cho sự lợi ích của chúng sanh.

Với sự tin tưởng lớn lao, sự quy ngưỡng, sự sẵn sàng và hoan hỷ tập trung vào nơi đức Phậtthiền quán cho bốn nguyên nhân. Hình thức lễ bái này có bốn phần. Đó là sự thực tậptính cách ban đầu; sự thực tập chính cho bốn nguyên nhân là sự tái sanh về cõi Cực Lạc; thần chúdanh hiệu; cuối cùngkết thúc việc thực tập.

 

Dự bị thực tập

Quy y

Từ nơi sâu thẳm của nội tâm bạn, dùng sự nương tựa tối hậu với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), trong giáo pháp, sự dạy dỗ, con đường luyện tập và sự đạt được thuộc về lãnh vực tinh thần và với Tăng Già; cộng đồngtính cách tinh thần của các vị Bồ Tát, các vị A La Hán và những người quy y.

Lập lại 3 lần như sau:

“Đối với đức Phật, giáo phápTăng già
Con xin nương tựa cho đến khi con đạt thành giác ngộ
Với phước đức của sự khoan dung và cho những người khác
Xin cho con đạt thành quả vị Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.

Phát Bồ đề tâm

Với tình yêu diệu hiền được phát sanh, lòng từ bi, sự hoan hỷ đồng tình và sự tĩnh lặng hướng đến tất cả những chúng sanh như là sự hướng về chính người Mẹ của bạn. Hãy suy nghĩ rằng bạn sẽ cầu nguyệnthiền quán cho sự lợi ích của tất cả chúng sanh để sanh về cõi giới Cực Lạc.

Lập lại 3 lần như sau:

“Xin nguyện cho tất cả chúng sanh vui với hạnh phúcnguyên nhân của hạnh phúc.
Cầu nguyện cho tất cả được thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của sự khổ đau.
Cầu nguyện cho tất cả chẳng hề phân chia những hạnh phúc cao cả, sự tự do từ những nổi khổ
Cầu nguyện cho tất cả sự bình tĩnh mãi mãi tồn tại, tự do cả hai sự chấp trước để quan hệ và ngược lại với sự sân hận”.

Bốn nguyên nhân vãng sanh cõi Cực Lạc

Để được sanh về một trong những cảnh giới Tịnh độ, các bạn phải chuẩn bị và cố gắng bởi chính bạn. Điều này kể cả sự Tẩy tịnh cho những nghiệp bất thiện và những hành vi tích chứa công đức với sự trắc định của bốn nguyên nhân. Sự lược thuật sau đây là những việc căn bản được viết bởi đại sư Dodrupchen Rinpoche thứ 3, người đã căn cứ vào kinhAmitabhavyuha Sutra (kinh A Di Dà), nhớ lại điều căn bản của 4 (hay ít nhất là 3) nguyên nhân cho sự tái sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà).

Nguyên nhân đầu tiên: Nhớ nghĩ về cảnh Tịnh độ

Nguyên nhân đầu tiên là nhớ về và hồi tưởng đến cấu trúc đẹp đẽ thật ngạc nhiên, không khí an lànhcảm giác hoan hỷ của cảnh giới Cực Lạc, cứ lập đi lập lại mãi như vậy.

Cõi Cực Lạc có một không khí tuyệt đối an bình cũng như hoan hỷ, phát ra ánh sáng tươi đẹp, là một cõi phồn vinh cũng như trong sạch, nơi đó không hề biết đến sự khổ. Ở đó không có khái niệm hay biểu hiện tính cách khổ não như tham lam, sự hỗn loạnsân si. Tất cả đều được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ của sự hòa bình tối caohoan hỷ. Đây là thiên đường không có giới hạn bởi núi non và những cánh đồng ánh sáng; sông núi ao hồ cũng bằng ánh sáng, vườn tược và hoa trái cũng bằng ánh sáng; cây trái bằng ánh sáng; đường xá và nhà cửa bằng ánh sáng. Được chứa đầy với vô số chúng sanh dự tri của những tia sáng ở hình thái khác thường cùng với y phục và những sự hoạt động. Họ bay đi qua không giandi chuyển xuyên qua vũ trụtrạng thái hòa bình và an lạc tuyệt đối. Những chúng sanh ấy thăm viếng vô số cõi Tịnh độ khác và nhận được những lời dạy cùng những sự gia trì. Bất cứ vật gì mà các bạn cần, đều được hiện ra. Âm thanh của những lời giáo huấn ấy cũng như pháp âm đầy dẫy khắp nơi. Tất cả những ai tồn tại nơi ấy đều ở trong trạng thái tối cao của hòa bình và hoan hỷ.

Ở ngay chính giữa, ở phía dưới cây giác ngộ vĩ đại ấy là đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Thân đoan chánh của Ngài và thân thể trẻ trung với ánh sáng đỏ được trang sức với những chứng tích của những chúng sanh thượng thặng. Ngài ở ngay chính giữa biển trí tuệ giác ngộ của chúng sanh cùng với tám vị Bồ Tát, các Ngài gồm đức Quán Thế Ấm và Ngài Đại Thế Chí. Toàn thể khung cảnh ấy chứa đầy những tia ánh sáng từ thân thể của Ngài. Tình yêu thương của Ngài không có giới hạn, trí tuệ toàn trinăng lực biến khắp để phụng sự cho tất cả chúng sanh không chấm dứt.

Bạn phải ứng dụng bốn năng lực ấy để chữa trị. Những hình ảnh thiện lương, ngôn từ, cảm giácniềm tin tưởng – qua khỏi và cao hơn nữa với thể lực hồi tưởng lại của bạn về cảnh Tịnh độ.

1) Hãy quán tưởng chi tiết của cõi Cực Lạc như đã giới thiệu trong chương 7

2) Hãy nghĩ về chi tiết của cõi Tịnh độ và phẩm chất của cõi kia với ngôn từ và sự cầu nguyện.

3) Hãy hoan hỷ với cảm giác của sự tồn tại kia và sự gia trì từ chỗ thẩm sâu nơi tâm thức của bạn

4) Hãy tin tưởng rằng cõi Cực Lạc với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) đang ở trước mặt bạn và hãy tin rằng với năng lực của lời nguyện của đức Phật sẽ hướng dẫn bạn tái sanh về thế giới Tịnh Độ.

Ở vào thời điểm quá vãng, tâm thức của bạn sẽ được tự do từ sự hạn chế phụ thuộc bởi thân thể vật lý của bạn cũng như nền văn hóa bao bọc chung quanh bạn. Như vậy trong khi bạn đang sống nếu bạn muốn gieo trồng tập quán xem xét cũng như cảm nhận về cảnh Tịnh Độ trong tâm của bạn thì khi chết sự lý giải của bạn sẽ có tính cách tự phát trổi dậy như là một cảnh Tịnh Độ chơn thật và bạn sẽ tìm lại được bởi chính bạn ở trong ấy. Thế rồi việc tái sanh về cảnh giới Cực Lạc sẽ là chuyện tự nhiên.

Không phải bất cứ ai cũng sẽ được diện kiến đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và cõi Cực Lạc của Ngài giống nhau. Sự lý giải của chúng ta từ sự đạt được tinh thần của chúng ta. Một vài người sẽ thấy cõi Tịnh độ như là hiện thực; những người khác sẽ thấy cõi ấy như là sự biểu thị của cõi Tịnh độ. Tuy nhiên trên thực tế của cõi Cực Lạc chỉ là một.

Nếu bạn giác ngộ thì bạn sẽ gặp đức Phật Vô Lượng Quang như là đức Phật trong hiện tại, với trí tuệ căn bản bạn sẽ nhìn thấy cõi Tịnh độ của Ngài như là cõi Tịnh độ hoan hỷ, sức mạnh và ánh sáng của trí tuệtính cách căn bản của chính nó. Tất cả những hình tướngkinh nghiệm sẽ hiện hữu một cách tự nhiên không khác hai. Tất cả đều thể hiện như là thiên nhiên chơn thật và chất lượng trong sáng. Những lời dạy của đạo Phật gọi cảnh Tịnh độ này là: “Cõi Tịnh độ với thân thể hỷ lạc’’ (báo thân của Phật quả). Sanh về thế giới tốt đẹp hơn bất cứ nơi nào khác. Đó là sự thể đắc của vũ trụ, sự phổ biến Phật quả với chính những điều không thể phân ly của Tịnh Độ.

Nếu bạn là một người quy ngưỡng bình thường thì ngược lại, bạn sẽ gặp đức Phật cũng như cõi Tịnh độ của Ngài như là một thế giới đầy an lạchoan hỷ được chứa đầy ánh sáng giác ngộ của chúng sanh với tình yêu thương không có điều kiện, trí tuệ toàn trinăng lực không giới hạn. Thế nhưng bạn sẽ nhận ra thế giới này như một thế giới nào đó ở bên ngoài, giống như là một cảnh giới khác vậy. Bạn cũng sẽ hoan hỷ không thể nói hết được sự hòa bình và an lạc. Thế nhưng bạn sẽ vẫn trải qua kinh nghiệm của những sự vật này với tâm hồntính cách nhị nguyên, hãy xử dụng những cảm giác và những sự cảm kích ấy. Tất cả mọi vật sẽ là chủ đề để thay đổi. Những lời giáo huấn gọi trạng thái này của cõi Tịnh độ là ‘Tịnh độ của ứng hóa thân’ (nirmanakaya). Việc vi diệucon người ở đó giống như bạn và tôi – Trên thực tế thì tất cả mọi chúng sanh – có thể sanh ra tại đây. Và khi ở đấy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thối lui, nhưng luôn luôn tiến hành với sự sanh trưởng tinh thần. Như thế một ngày nào đó chúng ta sẽ thể đắc được cõi Tịnh độ với thân thể hoan hỷ của Phật quả.

Để sanh về cõi Tịnh độ biểu thị này, chúng ta phải rèn luyện bốn (hay ba) nguyên nhân này.

Nguyên nhân thứ hai: Tích tụ phước đức

Bạn phải tạo ra phước đức như là những chủng tử để bạn tái sanh về cõi Cực Lạc. Với thiện nghiệp hoặc phước đức được tích chứa với hoàn toàn sự tin cẩn bởi tính chất lương thiện và những hành vi vật lý là có tính quan trọng cho một vài kết quả của sự hòa bình và hạnh phúc, đặc biệt để cho sự tái sanh về cõi Cực Lạc. Điều ấy có thể làm qua việc cúng dường, tặng quà cáp, phụng sự cho những người khác, tụng kinh cầu nguyện, sám hối những hành vi tội lỗi, bảo hộ mạng sống và sự đồng tình chăm sóc, sự dễ dãi, hòa bình, quy ngưỡng, sự chú ý và sự suy niệm.

Nguyên nhân thứ ba: Phát triển tâm giác ngộ.

Để phát triển tâm thức giác ngộ hay Bồ đề tâm, bạn phải thệ nguyện hoặc là quyết tâm hướng dẫn cho tất cả chúng sanh, không kể bất cứ họ là ai; cảnh giới Cực Lạc chẳng phải với một tâm ích kỷ và bạn phải thật là nhiệt thành và trong sự thực hiện xuyên qua thiền định và những hành vi hữu ích.

Tuy nhiên sự lập lại của kinh điển, Ngài Dodrupchen đã chỉ trích rằng sự phát Bồ Đề tâm là chẳng phải điều kiện thuộc về bản chất cho sự tái sanh cõi Cực Lạc. Thật vậy sự phát triển tâm thức giác ngộ sẽ giúp bạn chắc rằng sự tái sanh về cảnh giới Tịnh Độ và cũng sẽ làm cho bạn được nhiều hiệu quả hơn một khi mà bạn đã được sanh về đó. Ngài Dodrupchen còn thêm rằng tạo ra một sự hứa hẹn hay sự quyết tâm có nhiều năng lực hơn là tạo ra một sự nhiệt thành. Ngài còn viết rằng: Để hoàn thành một vài nhiệt vọng ấy, điều quan trọng là phát triển mạnh ý chí hoặc thệ ước như suy nghĩ rằng: “Trong hầu hết cuộc đời liên tục của tôi, tôi sẽ thực hiện trong bản chất của lòng từ bi và tánh Không, là con đường của đạo Phật”. Như các bạn biết đó, tư tưởngtôi sẽ dậy sớm trong buổi sớm mai” đã là một sức đẩy lớn trong sự đánh thức thời gian hơn là tư tưởngtôi có thể dậy sớm trong buổi sáng chăng?’’

Nguyên nhân thứ tư: Hồi hướngphát nguyện.

Nguyên nhân thứ tư là việc hồi hướng tất cả những công đức như là duyên khởi để được tái sanh về cõi giới Cực Lạc và tạo ra một sự nhiệt thành cho cùng mục đích ấy. Ngay cả nếu bạn có phước đức, bạn cần gia sức thêm vào đó cho mục đíchtính cách đặc thù bởi sự hiến dâng ấy và tạo nên việc nhiệt tâm cầu nguyện trong nhiều lần sự phụng hiến và sự nhiệt thành ấy chẳng phải là một cách đơn thuần để phát triển phước đức như là những chủng tử để tái sanh về Tịnh độ mà những việc ấy cũng có nghĩa là có tính cách mạnh mẽ của việc tạo ra phước đức của chính nó.

Nếu bạn tưởng tượng rằng đức Phật đang ở trước bạn, Ngài đang lắng nghe để gia hộ cho sự cầu nguyện và sự nhiệt thành của bạn, thì những kết quả về sự cầu nguyện của bạn sẽ đầy đủ năng lực hơn cũng như hiệu quả tốt hơn.

Để hoàn thành sự cầu nguyện chân thành, điều quan trọng để trả lời, đó là nguồn năng lực để nương vào. Như vậy thì rất là quan trọng cho việc nương vào một vị Thánh, như là đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Tâm Từ Bi hoặc là đạo sư Liên Hoa Sanh.

Những nguồn năng lượng này phải là những ai đã hướng về các Ngài và với người mà các bạn chắc chắn rằng nối kết được qua sự cầu nguyệnthiền định. Các bạn phải thừa nhận rằng nguồn năng lực ấy giống như việc cụ thể của một trong tất cả những đấng tối cao. Hãy cầu nguyện nơi các Ngài cho sự thành tựu của tất cả những sự nhiệt thành của các bạn.

Lời dạy về bốn nguyên nhân để được tái sanh về cõi Cực Lạc, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:

“Nầy A Nan ! ở đó có những người họ suy nghĩ chi tiết về đức Phật Vô Lượng Quangcõi Tịnh Độ của Ngài, lặp đi rồi lặp lại. Họ sáng tạo ra nhiều những phước đức không thể tính đếm được. Họ phát tâm Bồ đề nhiệt thành để được tái sanh về cõi Tịnh Độ. Khi mà họ chết, đức Phật Vô Lượng Quang trước họ hiện ra đầy đủ giác ngộ, – với vô lượng Thánh chúng - đối với những người hư hỏng Ngài sẽ thể hiện ra với một người theo cùng của vô số những người khổ hạnh, rồi nhìn nơi họ. Họ được gặp Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và họ chết với tâm hồn trong sáng lớn lao. Như vậy họ sẽ được tái sanh vào vũ trụ của cõi Cực Lạc.”

Hoặc giả cũng cùng kinh đó đã dạy rằng: Bạn cũng có thể cố gắng bởi chính bạn trong ba nguyên nhân (nguyên nhân đầu, thứ hai và thứ tư; không có phát Bồ đề tâm đi kèm) và cũng vẫn được sanh về cõi giới Cực Lạc. Hãy suy nghĩ về chất lượng của cõi Tịnh độ nhiều lần như vậy, hãy tạo ra nhiều phước đức như bạn có thể và hãy hồi hướng những phước đức ấy cùng với sự nhiệt thành và nói: “cầu xin chúng sanh con được tái sanh về cõi giới Cực Lạc’’.

Hình thức cầu nguyện của bốn nguyên nhân

Hãy suy nghĩ về hoặc quán tưởng sự hiện hữu của cảnh giới Cực Lạc, một thế giới với sự hoan hỷ tràn đầy và sự an lạc như đã mô tả trong chương 7. Ở chính giữa là đức Phật Vô Lượng Quang, đang đoái nhìn bạn và đang suy nghĩ về bạn và tất cả chúng sanh với trí tuệ, lòng từ bi cũng như hùng lực. Cõi Tịnh Độ này chứa đầy vô số chúng sanh giác ngộhình thức khác thường, hình dáng mạnh khoẻ và đa dạng. Với sự quy ngưỡng trọn vẹntỏ ra tôn kính.

Trong một đất nước cao cả ở về hướng phía Tây
Có cõi Cực Lạc của đức Phật , hoàn toàn chẳng ô nhiễm
Được thành tựu bởi năng lực cũng như sự nhiệt thành trong sáng và ở đó là đức Phật tối thượng.
Cũng như các đệ tử của Ngài. Tất cả đều không thể tưởng tượng được sự trang nghiêm một cách tuyệt đối. Với Ngài, con xin tôn kính.

Kế tiếp, với tâm quy hướng và với âm thanh ngọt ngào, tán, tụng những giòng chữ sau đây cũng như hãy Thiền tập êm dịu ở những ý nghĩa ấy, lặp đi lặp lại nhiều lần.

Con tôn kính sự gia trì của Ngài, đức Vô Lượng Quang

Suy nghĩ về chất lượng của cõi Tịnh độ

Con hồi tưởng lại cõi Cực Lạc, cứ thế và cứ thế
Con nhớ đến Ngài, đấng Vô Lượng Quang, từ nơi sâu thẩm của tâm con
Con hồi tưởng đến biển chiến thắng của các đệ tử với sự nhất tâm.
Sự câu hội ấy, canh phòng cho những ai chưa hề có được – xin gia hộ cho chúng con

Bảy lần tích tụ phước đức

Một đấng đại từ, người bảo hộ, đến với bạn

Con cúi đầu đảnh lễ với sự tôn kính. Con hiến dâng biển mây để cúng dường. Con tự hối tất cả những hành vi sai trái của con và những khuyết điểm. Con hoan hỷ trên tất cả những đức hạnh.

Hãy xoay chuyển bánh xe pháp, hãy ở lại, xin đừng vào Niết Bàn.

Phát Bồ Đề Tâm

Là động cơ cho tất cả chúng sanh, không giới hạn bởi vũ trụ
Để đạt thành trạng thái giác ngộ tròn đầy,
Sự thành tựu tổng thể của Phật Tịnh độ,
Với biển giác ngộ nhiệt thành và là những chủng tửcầu xin cho con được thành tựu.

Sự hồi hướngphát nguyện

Bởi năng lực của phước đức, kể cả điều này, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh và con,
Trong đời sống tiếp đến của chúng con, ở cõi giới Cực Lạc
Đẹp đẽ với sự vi diệu được phối trí của phép lạ
Xin được tái sanh và hưởng niềm vui của tối thượng thừa (đại thừa).

Thần chúhồng danh cầu nguyện

Thần chú của đức Phật Vô Lượng Quang

OM AMITABHA HRI (Án A Di Đà Hồng)

Ý nghĩa của thần chú là: “Thân thể, lời nói và tâm của chư Phật, đức Phật Vô Lượng Quang, xin hãy cho sự gia trì của Ngài lên chúng con’’.

Ý nghĩa của từng chữ của Thần chú ấy bằng tiếng Sanskrit được hiểu như sau:

OM (a,o, m): lời nói, thân thểtâm thức của chư Phật và ba cánh cửa của một hợp nhất (hoặc: ô!)

AMI (vô hạn): tất cả trải rộng ra, không hạn định

TABHA (ánh sáng): sự gia trì, chiếu tỏa, sức mạnh

HRI: dấu hiệu tâm chủng tử của đức Phật Vô Lượng Quang. Để nói chữ HRI bạn phải tiến xa hơn hoặc kêu gọi lòng từ bi và quả tim trí tuệ của đức Phật.

Hãy lặp lại thần chú này 100, 1.000 và 1.000.000 lần

Hồng danh cầu nguyện đến đức Phật và chư vị Bồ Tát

Gọi danh đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) (tiếng Sanskrist là Amitabha, tiếng Tây Tạng Opagme) tụng tên của người cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrist hay tiếng Việt Nam. Lặp lại 21 lần, 100 lần và hàng ngàn lần như vậy.

Để được một sự gia trì, đến một bậc Như Lai.

Tương ưng với một, hoàn hảo,

Đầy đủ giác ngộ, bảo hộ, Vô Lượng Quang, con xin quy kính, làm việc cúng dườngtrở về nương tựa.

Gọi danh của vị Bồ Tát Từ Bi (tiếng Sanskrist: Avalokiteshvara; tiếng Tây Tạng: chenrezig), đọc tên của Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sankrist hay tiếng Việt. Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7 hay 20 lần.

Với các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, với lòng từ bi của Ngài, cao quý đức Quán Thế Ấm, con xin quy kính Ngài, xin cúng dường và xin nương tựa.

Gọi tên vị Bồ Tát với sức mạnh (Đại Thế Chí) (tiếng Sanskrist : Mahasthama – prapta; tiếng Tây Tạng: Thuchenthob) khi đọc tên Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrist hay tiếng Việt.

Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7 hoặc 20 lần.

Với Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, đấng đầy đủ năng lực phi thường, con quy kính Ngài, xin cúng dường, xin về nương tựa.

Phần thực tập sau cùng: Sự hồi hướng và nhiệt vọng của người cầu nguyện

Như sự vinh quang thể đắc của Ngài Văn Thù Sư Lợi cũng như đức Phổ Hiền
Trong việc luyện tập bởi chính con bởi những điều sau
Con xin hồi hướng tất cả những phước đức đến tất cả những chúng sanh
Tất cả chư Phật trong ba đời
Với sự tán thán cao cả cho sự hồi hướng công đức cho kẻ khác. Như thế tất cả những hành vi đức hạnh của chính con
Tổng thể con đều phụng dâng cho những hành vi tuyệt hảo cho kẻ khác
Trong khoảnh khắc con ra đi,
Con xin nguyện cầu cho những nghiệp lực hắc ám của con sẽ đi khỏi.
Cầu nguyện cho con gặp được đức Phật Vô Lượng Quang, mặt đối mặt, và cho con bước sang cõi Tịnh độ.
Khi đến đó được rồi, tất cả lòng nhiệt thành của những hành vi tốt đẹp,
Con xin nguyện thể đắc và không có ngoại lệ nào .
Bởi tổng thể sự chứa đầy tất cả sự nhiệt thành không có ngoại lệ nào
Nguyện con phụng sự tất cả chúng sanh dài lâu khi vũ trụ này còn.
Trong sự hội tụ tuyệt đối an lạc của đấng Thắng Lợi
Cầu cho con được sanh về nơi tuyệt diệu của bông hoa Thánh thiện
Bởi đức Phật Vô Lượng Quang, trực tiếp
Cầu cho con được thọ ký để được ngộ.
Được đón nhận sự thọ ký tuyệt đối
Với trăm triệu lần biểu thị của con
Và với năng lực trí tuệ của con trong tất cả mười phương
Xin cầu cho con lợi lạc với vô số sự lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Với sự gia trì của đức Phật, Ngài có ba thân Phật
Bởi sự gia trì của giáo pháp tối hậu, không thể thay đổi được chân lý
Bởi sự gia trì của Tăng Già, là đoàn thể không thể chia cắt được
Cầu cho tất cả những sự hồi hướng này và những sự nhiệt thành sẽ thành tựu như con đã dụng tâm.

Sự giải thích về việc hữu ích của sự hồi tưởng và lặp lại hồng danh của đức Phật Vô Lượng Quang, đức Thích Ca Mâu Ni đã dạy rằng:

“Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào của những gia đình tốt đẹp, đã có lần nghe đến danh hiệu của đức Phật Vô Lượng Thọ (Vô Lượng Quang) hãy giữ tên Ngài trong tâm của họ không tán loạn trong một đêm, hai đêm, ba đêm, bốn đêm, năm đêm, sáu đêm, hoặc bảy đêm - rồi thì khi người con trai hay người con gái trong gia đình tốt ấy qua đời, ông ta hay bà ta sẽ làm như vậy không động loạn thì đức Phật Vô Lượng Quang sẽ cùng với những người đệ tử đều là những vị Bồ Tát sẽ hiện ra ở trước ông hay bà ta. Ông ta hay bà ta sẽ sanh về cõi Cực Lạc của sự gia trì, rồi ra đi, đến với đức Phật Vô Lượng Quang.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31645)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11222)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12745)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10805)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16650)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10811)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12018)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11490)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10681)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12333)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11191)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10010)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10326)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10695)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12371)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9803)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11267)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13838)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12623)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9696)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10455)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9898)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11050)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12007)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10139)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9541)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8776)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12550)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10414)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9082)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9332)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8796)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10506)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9190)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8355)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12015)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9695)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10225)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19131)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9406)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8977)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9586)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14741)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10083)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8347)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8947)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8974)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8736)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14592)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9032)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8759)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9034)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10529)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8637)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9989)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24278)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10165)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11015)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8001)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9262)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10336)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9568)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12158)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10232)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7974)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14776)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10630)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11347)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9530)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18672)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12345)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11875)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10740)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13340)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9986)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9265)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9368)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15887)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant