Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 5

26 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12004)
III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 5

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 B. GIẢNG GIẢI
III- KỆ KIẾN TÁNH (Ðoạn 5)

Hỏi: Ở trong ba cõi, trên trời dưới đất, cõi này phương khác, sáu đường bốn châu, quần sanh muôn loài, tất cả đều học Phật, chẳng biết thuở xưa Phật trước học ai mà chứng Bồ-đề, đời tôn là Phật ?

Câu hỏi này nói gọn cho dễ hiểu: Hiện giờ tất cả chúng ta tôn sùng Phật, học theo đức Phật. Vậy khi xưa Phật học ai mà thành Phật ?

Ðáp: Phật vốn không học, do tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư, pháp thân rộng lớn, tròn đồng thái hư, chân không trong lặng nhiệm mầu, lặng sáng không gì trên, cao vượt khỏi ba cõi, ngang khắp mười phương, suốt cả xưa nay, nghiễm nhiên thường trụ, vô vi vô tướng, chánh giác Bồ-đề, chẳng sanh chẳng diệt, ứng hiện còn mãi, tuyệt khôngsánh bằng, đời tôn là Phật. Lại nói: Phật là tánh giác, chúng sanh là tình mê. Phật giác ngộ pháp tánh tròn sáng, lóng trong, nhất như không tịch; chúng sanh thì mê tình vọng khởi mãi mãi thọ thân trong ba cõi. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: "Thanh tịnh sẵn vậy, tại sao chợt sanh núi sông, quả đất ?".

Hỏi xưa đức Phật học ai, đáp rằng đức Phật không học ai, Ngài tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư rồi Ngài nhận ra Pháp thân rộng lớn tròn đồng thái hư, thường trụ chẳng sanh chẳng diệt, nên người đời tôn xưng Ngài là Phật.

Như chúng ta đã biết, ngày xưa đức Phật lúc còn là Thái tử, Ngài rời hoàng cung để đi tu, Ngài cũng tìm tới các vị đạo sĩ để tu. Ðầu tiên Ngài gặp nhóm đạo sĩ Bạt-già, nhóm này tu khổ hạnh để cầu sanh về cõi Trời chớ không cầu giác ngộ, giải thoát. Thái tử thấy cách tu của họ không đúng với mục tiêu mình nhắm, nên Ngài bỏ đi. Ngài tìm đến núi Tần-già gặp đạo sĩ A-la-lam, chỉ trong một thời gian ngắn Thái tử đã thâu nhiếp hết pháp yếu của A-la-lam chứng từ sơ thiền đến vô sở hữu xứ định. Nhưng hướng tu của A-la-lam không đạt đến chỗ giải thoát như ước nguyện của Thái tử, nên Ngài từ giã ra đi, tìm đến đạo sĩ lừng danh là Uất-đầu-lam-phất. Ở Uất-đầu-lam-phất Ngài tu không bao lâu đạt được tầng Thiền cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng định. Pháp tu Uất-đầu-lam-phất không khác đạo sĩ A-la-lam, nên Thái tử cũng từ giã vị này vào rừng tu khổ hạnh một mình. Thái tử tu khổ hạnh trong rừng theo sử kể lại đến sáu năm, thân thể còn da bọc xương mà vẫn không đạt được mục đích, cho nên Ngài từ bỏ. Sau cùng Ngài ăn uống lại bình thường rồi đến dưới gốc cây Bồ-đề ngồi Thiền, sau bốn mươi chín ngày đêm Ngài chứng đạo tức là tỏ ngộ pháp thân. Như vậy sự tỏ ngộ của Ngài không có ai dạy, nên Ngài tuyên bố ta học đạo không có thầy. Do thiền địnhtrí vô sư Ngài sáng tỏ, tức là ngộ được Pháp thân thành Phật. Ðiều này cho chúng ta thấy rằng mục đích của Thái tử đi tu là giải thoát sanh tử, muốn đạt được điều đó phải nhận ra Pháp thân bất sanh bất diệt. Thế nhưng các vị đạo sĩ dạy tu cuối cùng chỉ chứng đến phi tưởng phi phi tưởng định, nên Ngài không chấp nhận từ giã họ ra đi. Vì giác ngộ thành Phật tức là ngộ được trí vô sư hay Pháp thân không sanh không diệt tròn sáng trùm khắp. Từ đó Ngài tuyên bố thoát ly sanh tử, không còn sanh trở lại trong tam giới nữa. Mục tiêu mà Ngài tìm kiếm bao năm đã được khám phá. Như vậy thành Phật, tỏ ngộ trí vô sư, hay chứng pháp thân tên gọi tuy khác nhưng chỉ có một kết quả là giác ngộ giải thoát

Nơi Thái tửtrí vô sư, vậy nơi chúng ta có không? - Trí vô sư ai ai cũng có, muốn chứng được chúng ta phải thiền định như Thái tử Tất-đạt-đa khi xưa. Chúng ta tu chủ yếu là gạn lọc hết vọng tưởng cho tâm an định. Khi tâm an định trí vô sư hiển hiện rõ ràng, chúng ta thấy biết đúng như thật. Thấy biết như thế không ai dạy chúng ta cả, Phật Tổ, thầy bạn chỉ trợ duyên thôi, chính chúng ta phải tự tu, chớ không ai tu thế được. Chúng ta học nơi sách vở thì sách vở chỉ là phương tiện, còn tu để phát minh trí vô sư mới là đạt đến chỗ cứu cánh. Như những nhà bác học muốn có những phát minh mới, họ phải đóng cửa phòng thí nghiệm, ngồi trong đó nghiền ngẫm suốt tháng suốt năm, cho tới một lúc nào đó họ phát minh ra điều mà họ đang tìm kiếm. Vậy sự phát minh đó ai dạy? Nếu có người dạy thì không gọi là phát minh, không có người dạy mà biết là do trí vô sư phát sáng chớ gì? Như vậy bất luận là người thế gian hay người tu nếu dồn hết tâm lực vào một việc, tâm an định thì trí vô sư nơi mình hiện sáng, chớ không có gì lạ hết. Ai có trải qua những kinh nghiệm này thì không có nghi ngờ. Nếu ngộ lớn thì nhận ra pháp thân, ngộ nhỏ thì chợt hiểu nghĩa lý thâm sâu của câu kệ hay bài kinh mình học từ lâu mà không hiểu. Lúc đó đâu có thầy dạy, chỉ do tâm định rồi phát sáng, đó là trí vô sư đã có sẵn nơi mỗi người, không phải là cái mới lạ hay ai cho, cũng không phải một mình Thái tử mới có mà chính là cái có sẵn nơi mỗi người. Thái tử ngộ trí vô sư nên người đời mới tôn Ngài là Phật. Trí vô sư chỉ cho Phật pháp thân, Phật pháp thân mới không sanh không diệt. Còn Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ thì có sanh có diệt, nếu Ngài không diệt thì ngày nay chúng ta gặp Ngài. Như vậy, tất cả chúng ta ai cũng có Phật pháp thân và ai cũng có sắc thân phàm thế tục, sắc thân phàm thế tục thì tạm bợ sanh diệt, pháp thân thì bất sanh bất diệt thoát ly sanh tử mới là tối thượng, ai nhận ra Phật pháp thân và hằng sống với pháp thân gọi là chứng quả Phật. Còn nếu mang thân này mà không ngộ được Phật pháp thân, dù cho tài giỏi tới đâu cũng chưa phải là Phật. Sau đây Ngài dẫn kinh Lăng Nghiêm: Bản thể vốn thanh tịnh, tại sao chợt sanh ra núi sông, quả đất, con người muôn vật. Thì đây trả lời:

Dạy rằng:

Chân tánh lóng trong, vốn không có mờ tối. Vọng từ không dấy lên mà cảm đến gió thức. Song do gió thức thổi cho tâm động, nhân tâm lay động mà kích phát thêm gió cảnh. Nhân gió cảnh nổi dậy mãnh liệt nên khởi vọng niệm. Do một niệm vọng sanh mà ba cõi bắt đầu thành lập. Ba cõi bên trong là sắc thân của ta; ba cõi bên ngoài tức là trời đất, thế giới, núi sông, quả đất, hết thảy muôn vật.

Ðứng về mặt chân tánh thì bản thể lóng trong không mờ tối, nhưng vọng từ tâm rỗng lặng dấy khởi, do đó sanh ra gió thức, gió thức thổi làm cho tâm động, do tâm dao động kích phát thêm gió cảnh, nhân gió cảnh nổi dậy mãnh liệt nên khởi vọng niệm. Tại sao tâm đang yên lặng lại chợt sanh gió thức ? Ví dụ như chúng ta đang ngồi yên, tâm không suy nghĩ gì hết. Bất chợt nhớ đến chuyện hôm qua, vừa dấy niệm nhớ là thức phân biệt theo liền, nào là chuyện hôm qua hay dở, tốt xấu, đúng sai, thành ra có vọng tưởng nhất định. Ðó là gặp gió cảnh thổi tới làm tâm dao động. Tâm dao động rồi khởi suy nghĩ thêm về việc xảy ra hôm qua hay dở, đúng sai, tốt xấu... Vọng niệm dấy khởi liên miên, nên vọng sanh ra ba cõi. Ba cõi bên trong là sắc thân, ba cõi bên ngoài là trời đất núi sông muôn vật. Như vậy để thấy rằng có lúc tâm mình rất yên tỉnh, chợt có một niệm dấy lên tức là gió thức nổi dậy, nếu chúng ta chạy theo niệm phân biệt thì gió nghiệp cảnh thổi đến làm cho tâm ta dao động nhiều hơn.

Ví dụ chúng ta đang ngồi yên chợt nhớ hôm qua cô A nói mình câu: Cô đó giả bộ tu hành. Vọng niệm này vừa dấy lên chúng ta liền phân biệt cô A nói như vậy là khinh khi mình. Niệm phân biệt tiếp theođộng lực thúc đẩy mình đứng dậy đi kiếm cô A để trách móc. Do đó sanh ra đủ thứ chuyện lôi thôi. Như vậy để thấy rằng chúng ta ai cũng sẵn có tâm thể thanh tịnh, nhưng chợt bất giác để vọng niệm dấy khởi, mà vọng niệm dấy khởi thì có đủ thứ âm thanh hình tướng, đủ chuyện phải quấy, hơn thua, vui buồn, sướng khổ v.v... Nếu người biết tu ngay lúc vừa dấy niệm biết nó là hư dối, không theo thì lần hồi vọng niệm sẽ thưa dần. Ðối với cảnh bên ngoài cũng bớt tâm phân biệt trở về với cái tâm nguyên thủy sẵn có của mình. Tóm lại khởi niệm phân biệt, nên tạo nghiệp đi trong sanh tử. Niệm khởi không theo thì sống với tâm như như dứt sanh tử, rất đơn giản. Thế nên biết thì thấy ý nghĩa của sự tu hành, không biết thì thấy cực nhọc, ngồi lâu đau chân, gục lên gục xuống không ích lợi chi cả. Tuy nhiên, tu đạt tới chỗ thông suốt rồi thì công phu nhẹ nhàng và tâm lúc nào cũng sáng suốt an vui.

Giải rằng:

Thanh tịnh đến tột cùng thì sáng thông, đạt tịch và chiếu thì bao gồm cả hư không, rồi nhìn trở lại thế gian, giống như việc trong mộng. Pháp thân trong trẻolặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Ðều bởi có mê ngộ, đến nỗi khiến thành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc. Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tròn sáng, rỗng lặng vô vi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kết quả, vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm thêm vào sự mê hoặcthành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo. Thức thần đã theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cõi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệp mà sanh, chẳng phải không nhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường, hãy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng. Ðạo vô thượng, tức là pháp tánh chân như. Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tròn đầy, rỗng rang vắng lặng, thì vọng tình dần dần dứt sạch, chánh giác trong sáng tròn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cõi, chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tròn đồng thái hư, bình đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.

Thanh tịnh đến tột cùng thì sáng thông, đạt tịch và chiếu thì bao gồm cả hư không, rồi nhìn trở lại thế gian, giống như việc trong mộng. Nếu tâm thanh tịnh thì thấu suốt lý tịch và chiếu. Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói "tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng sai". Tỉnh tỉnh là chiếu, lặng lặng là tịch. Ngược lại "lặng lặng tỉnh tỉnh phải, lặng lặng hôn trầm sai". Lặng lặng là tịch, tỉnh tỉnh là chiếu. Ðó là gốc của sự tu, nếu thiếu một trong hai cái thì sự tu không đạt kết quả. Tịch mà chiếu, chiếu mà tịch. Chúng ta ngồi Thiền tỉnh sáng mà không vọng tưởng thì đúng, còn tỉnh táovọng tưởng đủ thứ thì sai. Ngược lại nếu ngồi Thiền tâm lặng lẽ mà tỉnh sáng thì đúng, nếu tâm lặng lẽ nhưng mơ mơ ngủ gục thì sai. Như vậy chiếu mà tịch hoặc tịch mà chiếu thì đúng, nếu chiếu mà loạn tưởng hoặc tịch mà hôn trầm vô ký thì sai. Tự mình xét lại công phu của mình thì biết đúng sai, không nên để lệch hai yếu tố chính đó. Chúng ta rà soát lại pháp mình đang tu thì không lầm lẫn. Nếu đạt được tịch và chiếu thì bao gồm cả hư không, nhìn lại thế gian thấy như việc trong mộng.

Những pháp hữu vi hữu hình thì hữu hoại, vô thường chi phối không chừa một ai, từ những cảnh vật chung quanh cho đến thân này, chẳng khác nào nằm ngủ mê, mộng thấy đủ thứ, khi thức dậy thì không có gì cả. Ðó là lẽ thật mỗi người chúng ta nên chiêm nghiệm cho kỹ để lo tu.

Pháp thân trong trẻolặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Ðều bởi có mê ngộ, đến nỗi khiến thành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc.

Ý đoạn này nói rằng chúng ta có tánh giác sáng suốt mà bỏ giác chạy theo mê, tức là bối giác hiệp trần. Pháp thân hay chân tánh của chúng ta vốn trong trẻo lặng lẽ, không nhơ sạch không Thánh phàm, bởi có mê có ngộ nên chẳng đồng nhau. Thân tứ đại chẳng thật có, năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn không. Do từ cái thể chân không không giữ tự tánh, nên khởi vọng tưởng thành ra có đủ thứ sắc, như vậy đã trái với cái lẽ không sanh không hóa của pháp thân, cho nên sanh sanh hóa hóa liên tục. Chúng ta mãi buông tâm chạy theo ngoại cảnh, không chịu xoay lại tánh giác của mình - tức là không hồi quang phản chiếu. Chúng ta lầm cho cái sắc thân bốn đại năm uẩn tạm bợ giả dối này là thật, bỏ cái thể không, chạy theo hình sắc bên ngoài. Như trước có nói chúng ta chạy theo âm thanh sắc tướngquên mình có cái hay nghe hay thấy không tướng mạo, không có gì phá hoại được nó.

Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tròn sáng, rỗng lặng vô vi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kết quả, vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm thêm vào sự mê hoặcthành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo. 

Ðoạn này Ngài nói cũng hết tình hết lý. Từ ban sơ bản tánh của chúng ta vốn tròn sáng rỗng lặng, nhưng khi huyễn có sắc thân rồi thì sanh vọng thức, kết nhân kết quả và sanh ra đủ thứ vọng sau này. Ngài thấy thân là huyễn, còn chúng ta thấy thân huyễn hay thật? Trả lời được điều này là xác định rõ rệt hướng đi của mình. Nếu thấy thân huyễn thì đang đi trên con đường giác ngộ, nếu thấy thân thật thì đang đi trên con đường mê lầm. Tuy nhiên nhiều khi chúng ta tự mâu thuẫn với mình, miệng thì nói tôi muốn đi đường giác ngộ, nhưng ý lại tham đắm sắc thân, vì cho sắc thân là thật. Như vậy, tu thì muốn giác ngộ, mà thấy sắc thân này là thật, ý muốntồn tại lâu dài, thế là mê. Do đó chúng ta thường bị cái mâu thuẫn làm khổ mình: đi tu thì nguyện đi theo con đường giác ngộ của Phật Tổ, mà cứ quay đầu nhìn theo hướng mê của phàm phu, làm sao thấy đường giác mà đi ? Cho nên tiến không nổi mà lùi cũng không xong. Có người tu năm bảy năm mà chẳng thấy an lạc chỉ thấy toàn phiền não ! Thỉnh thoảng tôi nghe một số người tu kể người này sân giận nhiều, người kia lắm phiền não, người nọ hay cãi lẫy với huynh đệ, ít nghe họ nói đến tâm định trí sáng, thấy thân này như huyễn, mọi việc xảy ra không còn dính mắc. Nếu nói chuyện đang đi trên đường giác ngộ như ý nguyện ban đầu của mình thì vui lắm. Như vậy muốn tu tiến chúng ta phải khẳng định hướng nhắm của mình, đi đường nào phải hướng theo lối ấy. Việc này rất dễ và đơn giản, chúng ta nhất định phải chọn một bỏ một: hoặc thấy thân này huyễn, hoặc thấy thân này thật.

Thấy thân huyễn là thấy bằng tâm chớ không phải nói suông bằng miệng. Thấy thân huyễn thì bị mắng chưởi thậm tệ cũng không buồn, được khen ngợi tâng bốc cũng không mừng, khổ vui được mất không làm động tâm v.v... Nếu miệng nói thân tôi huyễn hóa, nhưng ai chê một câu là mặt bí xị ý không vui, ai khen một lời là mặt mày hớn hở, nhớ mãi không quên, đó là thấy thân tôi thật. Cứ lấy cây thước tám gió đo lòng mình thì biết rõ ta thấy thân huyễn hay thật. Chúng ta phải mạnh dạn chọn một bỏ một, để khẳng định hướng đi của mình. Trong số Tăng Ni ở đây (Thiền Viện Trúc Lâm), khi đi tu ai cũng phát nguyện đi trên con đường giác ngộ cho đến ngày viên mãn, quyết chí như vậy thật là phi thường. Song vào chùa một thời gian cạo tóc, thọ giới xong, lý đáng phải tu tiến, nhưng thỉnh thoảng cũng có người sụt lùi, hoặc lọt hẳn xuống hố mê. Tôi thấy thương quá đưa gậy kéo họ lên, đẩy đi một hồi lại lọt xuống nữa. Cứ kéo lên lọt xuống hoài, thật khổ cho kẻ rơi xuống mà cũng nhọc nhằn cho người kéo lên ! Thế nên tôi mong quí vị phát tâm đi tu phải giữ tâm nguyện như lúc ban đầu thì thành đạo có dư. Muốn thế phải thật sự thấy thân như huyễn. Chúng ta sống mấy mươi năm tưởng chừng dài lắm, thật ra ngày qua ngày, hết sáng tới tối, loay hoay nhìn lại mấy chục năm thấy như giấc mộng. Nếu thấy thân này như huyễn, cuộc sống như giấc mộng thì không có chuyện phiền não xảy ra. Tại không chịu hồi quang phản chiếu, cứ phóng tâm chạy theo cảnh, nên mới sanh ra các thứ: vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm sâu vào tạng thức trở thành mê hoặc, do hoặc tạo nghiệp, mà có thân thọ báo đi trong tam giới.

Thức thần đã theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cõi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệp mà sanh, chẳng phải không nhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường, hãy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng.

Ðây Ngài nói thêm, nếu chúng ta mê muội thì thần thức sẽ theo nghiệp thọ thân trong ba cõi sáu đường, tùy theo nghiệp đã tạo mà thọ quả báo tốt xấu khác nhau. Thế nên, trên thế gian từ thân người cho đến cảnh sống chung quanh không ai giống ai cả. Trong đoạn này có một câu. Muốn chứng chân thường, hãy xuất gia theo Phật, tôi xin sửa "Muốn chứng chân thường hãy khéo tu học Phật" cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Vì người tại gia hay xuất gia nếu khéo tu học Phật đều có lợi ích. Theo quan niệm của quần chúng, muốn giác ngộ giải thoát thì phải xuất gia, cạo tóc mặc áo nhuộm vào chùa ở. Như thế thì những người lỡ có gia đình con cái muốn giác ngộ giải thoát phải làm sao ? Bỏ gánh nặng cho người khác gánh để đi tu phải không ? Một người cho đến một ngàn người như thế thì ai lo cho gia đình, ai lo xây dựng xã hội đất nước ? Con cái lớn rồi nó tự lo liệu còn có thể được, nếu con mới năm ba tuổi bỏ lại cho vợ hoặc chồng nuôi làm sao nuôi nổi ? Có những trường hợp ban đầu ham tu quá bỏ vợ con vô chùa, tu một thời gian thấy vợ con nheo nhóc rồi hoàn tục lo cho vợ con. Như vậy đạo đời gì cũng dở dang không trọn vẹn. Cho nên tôi khuyên quí vị đã lỡ có gia đình, muốn giác ngộ giải thoát hãy noi theo gương ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, Ngài làm quan, thê thiếp nhiều, mà lúc sắp tịch, quí bà khóc lóc, Ngài vẫn tự tại ra đi không chút lưu luyến. Tu như Ngài mới giỏi, học tu theo Phật mà không xa lánh gia đình xã hội, tu như vậy không ai than phiền trách móc mình chi cả. Nếu ai cũng vô chùa tu hết thì nguy lắm.

Ðạo vô thượng tức là pháp tánh chân như. Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tròn đầy, rỗng rang vắng lặng thì vọng tình dần dần dứt sạch, chánh giác trong sáng tròn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cõi, chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tròn đồng thái hư, bình đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.

Ðoạn này nói về kiến tánh tức là nhận được bản tánh của mình, nên mới diễn tả bản tánh tròn sáng trong trẻo lặng lẽ. Nhưng vì dấy niệm tạo nghiệp mà có sanh tử. Nếu biết thân sanh tửhuyễn hóa, cảnh vật không thật thì trở về thể tánh trong sáng tròn lặng ấy. Ngược lại thì cứ chìm đắm không biết chừng nào ra khỏi.

Thân Phật siêu ba cõi,
Tịch quang đầy thái hư.
Hiện hình trăng trong nước,
Mãi làm thầy trời người.
Âm :
Phật thân siêu tam giới,
Tịch quang mãn thái hư.
Hiện hình thủy trung nguyệt,
Vĩnh tác thiên nhân sư.
Thân Phật siêu ba cõi, tịch quang đầy thái hưThân Phật tức là Pháp thân vượt ra ba cõi: dục giới, sắc giớivô sắc giới, lặng lẽ sáng suốt đầy cả thái hư. Tịch là lặng, quang là sáng tức là tỉnh, ai ngồi Thiền mà tâm lặng và tỉnh là đang sống với Pháp thân của chính mình. Hiện hình trăng trong nước, mãi làm thầy trời người. Báo thân hay ứng thân do Pháp thân ứng hiện, giống như có bóng mặt trăng hiện trong nước là do mặt trăng thật trên hư không. Ví dụ đêm rằm trời không mây, chúng ta nhìn vào hồ nước trong thấy có bóng mặt trăng hiện dưới đáy nước, mặt trăng dưới đáy hồ nước là bóng chớ không phải mặt trăng thật ? Nếu thật thì ta thử vớt xem có vớt được không ? Nếu nói không thì sao có mặt trăng dưới nước ? Thấy có mặt trăng mà vớt không được, cho nên không phải thật có. Thấy rõ ràng có bóng mặt trăng nên không phải thật không. Cũng vậy hóa thân, báo thân của Phật hiện ra để làm thầy trời người đó là từ pháp thân ứng hiện, giống như bóng mặt trăng hiện trong nước, không phải thật có cũng không phải thật không. Cho nên Phật Thích Ca đã thành Phật, thân ba mươi hai tướng tốt sáng chói như vàng ròng mà vẫn bị vô thường chi phối, ngày nay chỉ còn một chút ít xá lợi Phật thờ trong các bảo tháp rải rác trên khắp thế giới mà thôi.

Hỏi: Hai ngôi Phật và pháp, ngôi nào trước, ngôi nào sau ? Nếu nói Phật có trước, Phật nàynương theo pháp nào mà được thành đạo nên gọi là Phật ? Nếu bảo pháp có trước, pháp này do Phật nào nói nên gọi là pháp?

Lại hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?

Ðáp: Phật vốn có trước pháp, cũng có sau pháp.

Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau?

Ðáp: Nếu y cứ chân như thật tế, thì chân Phật không hình, tròn đồng thái hư, đối diệntrước mắt, lặng sáng không gì trên, đây là Phật thật không hình tướng, Phật có trước.

Ðoạn này nêu lên câu hỏi: Phật có trước hay pháp có trước, nếu Phật có trước thì Phật nương pháp nào tu để được thành Phật ? Nếu nói pháp có trước thì pháp này do Phật nào nói ? Câu trả lời không dứt khoát: Phật có trước pháp mà cũng có sau pháp. Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ? Ðáp rằng: Nếu y cứ Phật pháp thân thì Phật có trước.

Lại nói:
Ta có một thân Phật,
Người đời ít kẻ biết.
Không một giọt tro bùn,
Không một điểm màu sắc.
Vàng ròng khó đúc thành,
Gỗ đá khó chạm khắc.
Thợ trời tạo chẳng nên,
Trộm đất trộm chẳng được.
Nước lửa chẳng can chi,
Nghiễm nhiên gió chẳng khác.
Lặng sáng đầy thái hư,
Ðoan nghiêm rất kỳ đặc.
Tròn sáng có một thân,
Hóa thân ngàn trăm ức.
Âm :
Ngô hữu nhất khu Phật,
Thế nhân thiểu giả thức.
Vô nhất trích hôi nê,
Vô nhất điểm thái sắc.
Hoàn kim nan đào dung,
Mộc thạch nan tạc khắc.
Thiên công tạo bất thành,
Ðịa đạo thâu bất đắc.
Thủy hỏa bất thường can,
Nghiễm nhiên phong bất thắc.
Tịch quang mãn thái hư,
Ðoan nghiêm thậm kỳ đặc.
Viên minh hữu nhất khu,
Hóa thân thiên bá ức.
Ngài nói thêm bài kệ để giải thích ý nghĩa Phật có trước: Ta có một thân Phật, người đời ít kẻ biết. Ai cũng có một vị Phật mà ít ai biết đến vị Phật đó. Không một giọt tro bùn, không một điểm màu sắc. Vị Phật đó không do tro bùn làm nên, cũng không có điểm màu sắc gì cả. Vàng ròng khó đúc thành, gỗ đá khó chạm khắc. Dùng vàng ròng đúc không được vị Phật này, dùng gỗ khắc chạm cũng không được. Thợ trời tạo chẳng nên, trộm đất trộm chẳng được. Thợ khéo ở trên trời cũng không tạo được, mà kẻ trộmdưới đất cũng không ăn cắp được vị Phật này. Nước lửa chẳng can chi, nghiễm nhiên gió chẳng khác. Vị Phật này vào nước không chìm, gặp lửa không cháy, gió thổi chẳng rung rinh. Lặng sáng đầy thái hư, đoan nghiêm rất kỳ đặc. Phật pháp thân lặng lẽ rỗng sáng tròn đầy như thái hư, rất trang nghiêm và kỳ đặc. Tròn sáng có một thân, hóa thân ngàn trăm ức. Thể thì tròn sáng có một, khi ứng hóa thì có trăm ngàn muôn ức thân. Phật pháp thân là Phật thật có sẵn nơi mọi người, chớ không riêng của ai. Về sau, người đời không nhận được Phật pháp thân, nên mới dùng phương tiện đắp thành tượng Phật. Tượng Phật là Phật có hình tướng phỏng theo dáng hóa thân hoặc báo thân mà đắp, chớ Phật thật thì không có thân.

Nên Thiền sư Xuyên Lão nói: "Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước".

Tụng:
Ba Phật hình nghi chẳng phải chân,
Con ngươi trong mắt trước mặt xem.
Nếu hay biết được trong nhà báu,
Hoa núi chim kêu một dáng xuân.
Ứng Phật, Hoá Phật, đều không thật,
Bóng hình muôn thứ thảy là quyền.
Cái gì có tướng đều hư vọng,
Chân Phật không hình vốn tự nhiên.
Âm :
Tam Phật hình nghi tổng bất chân,
Nhãn trung đồng tử tiền diện nhân.
Nhược năng thức đắc gia trung bảo,
Ðề điểu sơn hoanhất vạn xuân.
Ứng Phật, Hóa Phật giai vô thật,
Ảnh tượng thiên bang tổng thị quyền.
Phàm sở hữu tướng giai hư vọng,
Chân Phật vô hình bổn tự nhiên.
Nên Thiền sư Xuyên Lão nói: "Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước. Câu này Thiền sư Xuyên Lão lặp lại câu nói của ngài Triệu Châu. Ngài Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong. Tượng Phật bằng vàng nếu để vào lò đúc thì không độ được lò đúc, mà bị lò đúc nung chảy ra nước; tượng Phật bằng gỗ đem để vào lửa bị lửa đốt thành tro. Tượng Phật bằng đất đem để vào nước, nước thấm ướt, đất rã ra. Bây giờ có thêm Phật xi-măng, Phật thạch cao không độ được cáicái búa, vì búa đập vào thì xi-măng bể, thạch cao bể. Chỉ có ông Phật ngồi ở trong điện Tỳ-lô của mỗi người, là không có thứ gì làm tiêu hoại được. Khi Phật ấy hóa hiện thân ra thì độ được tất cả mọi chúng sanh. Ngài Xuyên Lão tụng thêm: Ba Phật hình nghi chẳng phải chân, con ngươi trong mắt trước mặt xem. Ba hình chỉ cho Phật bằng vàng, Phật bằng gỗ, Phật bằng đất. Phật được tạc bằng một trong ba chất loại ấy dù có khéo đẹp thế mấy cũng không thật. Phật thật ở trong thân giả của mỗi người giống như con ngươi sáng nằm trong mắt ở trước mặt. Phải ngay đó mà nhận chớ đừng tìm kiếm ở đâu xa.

Nếu hay biết được trong nhà báu, hoa núi chim kêu một dáng xuân. Nếu biết được mình có kho báu, tức là nhận được tánh Phật chân thật của mình thì nhìn hoa dại mọc ở kẽ đá trên núi, nghe tiếng chim hót trên cành cây, thấy đâu đâu cũng là cảnh xuân tươi đẹp. Ai biết trở về tánh Phật chân thật của chính mình thì tất cả cảnh, tất cả hiện tượng bên ngoài đều tươi sáng đẹp đẽ như hoa chim trong mùa xuân.

Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật, bóng hình muôn thứ thảy đều quyền. Phật ứng thân, Phật hóa thân đều không phải Phật thật, vì có hình có bóng tất cả đều là quyền là tạm không phải thật. Cái gì có tướng đều hư vọng, chân Phật không hình vốn tự nhiên. Chỉ có vị Phật chân thật không hình tướngtự nhiên sẵn vậy. Ngài Xuyên Lão tụng như thế để nhắc chúng ta nhớ trở về với vị Phật thật của mình, không mắc kẹt nơi âm thanh, sắc tướng giả dối bên ngoài.

Hỏi: Thế nào Pháp có trước ?

Ðáp: Nếu y cứ pháp tánh tịch diệt, thì chân kinh không quyển, rỗng trơn bặt dấu vết, nghĩa ấy như sao trời sáng rực, lặng lẽ quên lời, biển chân giáo sóng bủa mênh mông, bao la pháp giới, lặng lẽ sáng soi tự tại, suốt tột xưa nay, dọc ngang khắp trời đất, đây là chân kinh không quyển, pháp có trước. Nếu y cứ pháp tịch diệt, đó là pháp trước Phật sau.

Thông thường ai cũng hiểu theo lịch sử thì, đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo nói pháp trong bốn mươi chín năm, dạy cho mọi người tu hành hiện còn ghi chép trong Tam tạng kinh điển, pháp đó có sau, Phật có trước, vì Phật thành đạo rồi mới nói pháp. Nhưng ngài Chân Nguyên lại nói pháp có trước, nên ở đây nêu câu hỏi: Thế nào là pháp có trước ? Ðây giải thích pháp có trước là pháp tánh tịch diệt sẵn có của tất cả chúng ta, do ngộ được pháp đó mới thành Phật, nên nói pháp có trước, Phật có sau. Pháp này cũng gọi là chân kinh không quyển. Bởi vì pháp này chỉ cho thể chân thật không có tướng mạo, nên không có dấu vết của văn tự, không có lời ghi chép, không có sách in thành quyển, đó là cái tịch diệt sẵn có muôn đời.

Kinh nói :
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự vắng lặng.
Phật tử hành đạo rồi,
Ðời sau được làm Phật.
Âm :
Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Phật tử hành đạo dĩ,
Lai thế đắc tác Phật.
Tất cả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: "Lìa tướng văn tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật". Nên biết, pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Vì vậy kinh nói: "Có Phật không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ. Có kinh không kinh, pháp thân vẫn hằng như vậy". Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, pháp tánh pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng, chóng ngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không hình, chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề. Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng, Phật tử hành đạo rồi, đời sau được làm Phật. Các pháp từ xưa tới giờ, tướngnóthườngvắng lặng, người Phật tử đời này hành đạo rồi, đời sau sẽ được làm Phật. Ngày xưa có một Thiền tăng nghe hai câu kệ đầu: "Các pháp từ xưa nay tướng thường tự vắng lặng", Ngài nghi ngờ tại sao các pháp từ xưa đến nay tướng thường tự vắng lặng? Ngài ôm ấp thắc mắc mãi trong lòng. Một sáng mùa xuân đang ngồi trước cửa chùa, thấy muôn hoa đua nở và nghe chim hoàng oanh đậu trên cành hót líu lo, Ngài hoát nhiên ngộ đạo, liền đọc tiếp hai câu thơ:
Xuân đến trăm hoa nở,
Hoàng oanh hót trên cành.(1)

 

Ngài ngộ là vì nhận ra rằng, các pháp thể tánh nó vốn lặng lẽ, mà tướng của nó thì tùy duyên, duyên hợp thì muôn sự muôn vật hiện tiền, như hoa nở chim hót khi mùa xuân đến. Ngộ đạo là thấy cùng tột bản thể của sự vật, cũng như nhận ra thể tánh của chính mình, đồng thời cũng biết rõ tướng dụng sinh động của các pháp không lầm lẫn. Người học đạo thấu suốt cùng tột chỗ này thì không những đời sau thành Phật mà ngay hiện tại cũng đã giác ngộ.

Tất cả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: "Lìa tướng văn tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật". Chứng Phật quả là không mắc kẹtvăn tự, không mắc kẹtlời nói, cũng không mắc kẹt ở cái tâm duyên theo cảnh, dứt hết những bàn luận suông mới chứng được Phật quả. Chứng Phật quả là ngộ được pháp tánh tịch diệt, pháp tánh ấy lìa tất cả tướng văn tự, ngôn ngữ, tâm duyên, hí luận. Nên biết pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Phật do ngộ pháp tánh tịch diệtthành Phật, nên nói pháp có trước, Phật có sau. Vì vậy kinh nói: Có Phật, không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ, có kinh không kinh, Pháp thân vẫn hằng như vậy. Dù cho có Phật ra đời hay không Phật ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ không biến đổi. Dù có kinh hay không có kinh, Pháp thân vẫn hằng như vậy. Pháp tánh hay Pháp thân không rời nhau. Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, Pháp tánh, Pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nói thì có nhiều tên như chân Phật, pháp tánh, pháp thân... nhưng thể của nó thì đồng không khác.

Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng chóng ngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không hình, chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề. Nếu người có trí tuệ lớn bậc thượng thì mau ngộ được lý chân không. Ðây nói chân Phật không hình, chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời. Bây giờ chúng ta thấy tượng Phật đúc bằng đồng hay thạch cao, xi-măng, hoặc gỗ, đó là Phật tượng, có tướng giả dối. Còn chân Phật thì không hình tướng, vì Phật thật là Phật pháp thân bất sanh bất diệt. Còn Phật hóa thân như Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ sống tám mươi năm cũng là Phật sanh diệt. Chân kinh không quyển là chỉ cho pháp tánh, không phải quyển kinh bằng giấy mực chữ nghĩa. Chân đạo thì không có lý lẽ còn lý lẽ không phải là chân. Chân pháp không có lời, lời nói ngôn ngữ là do niệm khởi; niệm khởi lời nói là tướng sanh diệt không phải là chân. Người ngộ được như thế thì chứng quả Phật viên mãn.

Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng,
Tịch quang tròn lặng đồng hư không.
Hình nghi chẳng mượn dùng tiếng cầu,
Dung mạo dính gì với sắc pháp.
Muôn pháp đồng về biển tánh chân,
Một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh.
Rành rành hiển hiện chân thân Phật,
Lồ lộ Như Lai đối mặt luôn.
Âm :
Thanh tịnh pháp thân vô tướng Phật,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.
Hình nghi phi giả dĩ thanh cầu,
Dung mạo khởi quan ư sắc pháp.
Vạn tượng đồng qui chân tánh hải,
Nhất trần bất nhiễm bổn linh nguyên.
Ðường đường hiển hiện Phật chân thân,
Lộ lộ Như Lai thường đối diện.
Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng, tịch quang tròn lặng đồng hư không. Pháp thân tức Phật thân không tướng mạo, nhưng ánh sáng lặng lẽ trùm cả hư không. Hình nghi chẳng mượn dùng tiếng cầu, dung mạo dính gì với sắc pháp. Hình tướng không thể dùng tiếng mà cầu được, dung mạo không dính dáng gì với sắc pháp. Tóm lại: Pháp thân thanh tịnh lặng lẽ, hằng giác hằng tri không có tướng mạo nên không dính dáng gì với mọi hình sắc, âm thanh. Muôn pháp đồng về biển tánh chân, một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh. Biển pháp tánh chân thật là thể của muôn pháp, nên muôn pháp thảy đều trở về đó. Nếu không nhiễm một tí bụi trần ấy là trở về nguồn linh của chúng ta. Rành rành hiển lộ chân thân Phật, lồ lộ Như Lai đối mặt luôn. Người trở về nguồn linh thì chân thân Phật hiện rõ ràng, không bị che khuất, cho nên nói: Như Lai luôn luôn đối diệntrước mắt. Như Lai là tên khác của Pháp thân, Pháp thân thường hiển lộ ngay trước mắt của mọi người. Trong nhà thiền có một từ ngữ kiến tánh, kiến tánh tức là nhận ra Pháp thân hay thấy tánh, nhưng thấy bằng cách nào, bằng cái nhìn của con mắt phải không ? Thấy tánh tức là nhận ra nơi mình có tánh thấy chân thật, nếu khôngtánh thấy thì chúng ta không thể nhận thấy được tất cả người vật chung quanh. Tuy nhiên, người sáng mắt thấy người thấy vật biết mìnhtánh thấy, vậy người mù mắt không thấy cảnh vật họ có tánh thấy không ? Họ không thấy sự vật nhưng họ thấy tối đen, cái nhận biết của họ hiển lộ ở các cơ quan khác như mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm v.v...

Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy Ngài A-nan về tánh thấy qua ví dụ nắm tay và con mắt. Phật dạy người không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay, còn người mù mắt thì không phải hoàn toàn không thấy. Cho nên Phật bảo ngài A-nan:

- Ông thử ra đường hỏi những người mù anh thấy cái gì ? Chắc chắn người mù trả lời: thấy trước mắt tối đen.

Ngài A-nan bạch Phật:

- Người mù thấy tối đen sao gọi là thấy ?

Phật dạy:

- Người mù thấy tối đen so với người sáng mắt ở trong phòng tối, hai cái tối ấy có khác nhau không ?

- Không khác.

- Nếu người mù khi chữa lành bệnh, mắt sáng thấy được cảnh vật, cũng giống như người mắt sáng ở trong nhà tối có đèn sáng, họ cũng thấy cảnh vật.

Như vậy, ai cũng có cái thấy hết, nhưng người sáng mắt thì nhìn thấy người thấy vật rõ ràng, người mù thì thấy ở trước tối đen. Tánh thấy lúc nào cũng hiện tiền trước mắt mình, nhưng không bao giờ mình dùng mắt thấy nó được, song biết mìnhtánh thấy là khi mình thấy người vật bên ngoài. Vì nó không có hình tướng làm sao thấy được nó ? Như vậy thì mọi người đều có cái hay thấy, tức là có tánh thấy, mà có tánh thấy là một phần Pháp thân hiển lộ, đó là Như Lai lồ lộ ngay trước mặt. Nên nhớ lồ lộ trước mặt không phải Phật hiện trước mặt mình thấy bằng mắt, mà Như Lai lồ lộ ở sáu căn của mình, tại mình không chịu nhận. Chúng tathói quen hễ thấy người thì khởi nghĩ người đó tên gì, đẹp xấu, tánh tình dễ chịu hay khó chịu, dòng suy tư kéo đi một mạch, cái thấy không dừng ngang chỗ thấy, mà cái thấy theo dòng nghĩ tưởng nên quên mất tánh thấy, nên chư Tổ dạy chúng ta đối duyên xúc cảnh thấy như mù, nghe như điếc. Nếu thấy người thấy vật mà không khởi niệm đẹp xấu, nghe mà không phân biệt dở hay đó là thấy như mù nghe như điếc. Giả sử chúng ta thấy có một người đi ngang qua, nếu không để ý phân biệt, có ai đó hỏi: Cô có thấy người đi ngang qua không ? - Có. Nhưng hỏi: Người ấy đẹp hay xấu, cao hay thấp... ? Ðáp: Không biết. Như vậy là thấy tức như không thấy. Chúng ta thì không như thế mà thấy cái gì là phải phăng tìm cho ra gốc rễ, đó là chạy theo vọng tưởng phân biệt, mà quên Như Lai ở nơi mình đang hiển lộ.

Nếu luận về pháp văn tự đó là Phật trước, pháp sau. Vì sao ? Bởi chư Phật lúc tột ban đầu tu hành, là tự chứng căn bản trí tuệ, pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Ðến khi thành Phật xong, mới nương nơi hóa thân trăm ức ở cõi biến hóa, vận dụng thần thông, thị hiện mọi thứ, sau đó nói rộng các thứ ngôn từ, các thứ thí dụ, các thứ cơ quan, các thứ nghĩa lý, sắn bìm lá bối, kết tập văn tự, nương sự mà đặt tên, kinh này luận nọ, sắp xếp thứ tự rồi gom lại làm từng quyển, thành tạng kinh mười hai bộ, rồi để lại lời dặn dò, lưu truyền ở đời, mở rộng phương tiện chỉ đường, chỉ lối mà tiếp hóa chúng sanh.

Nếu căn cứ vào ba tạng giáo điển thì Phật có trước, pháp có sau, vì đức Phật Thích Ca thành Phật rồi mới thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Pháp do Phật nói được ghi chép lại thành pho thành quyển, đó là Phật trước pháp sau. Trong đoạn này có những từ ngữ hơi khó hiểu đó là "sắn bìm lá bối". Ngày xưa ở Ấn Ðộ ghi chép những lời Phật dạy trên lá bối rồi kết lại thành thiên. Sau này con người văn minh tiến bộ, sản xuất giấy mực, những lời Phật dạy được in trên giấy thành quyển hẳn hoi, lưu truyền cho chúng ta học đến ngày nay. Chữ sắn bìm là chỉ cho những dây leo, ý nói những lời Phật dạy dù được ghi chép để lại thành ba tạng Kinh, Luật, Luận, cũng chỉ là phương tiện để cho chúng sanh nương theo tu hành, nó không phải là Pháp thân chân thật của chúng ta.

Lời Phật dạy được kết tập lại thành tạng gồm mười hai bộ.

1- Khế kinh: Là những lời Phật dạy đúng với chân lý được ghi lại bằng văn xuôi.

2- Ứng tụng: Khi có duyên cớ gì đó, Phật phát lên những lời tụng.

3- Ký biệt: Thọ ký riêng từng đệ tử tu hành bao nhiêu kiếp thành Phật ở đâu... 

4- Trùng tụng: Khi giảng xong bài kinh, Phật lập lại ý trên bằng bài tụng.

5- Tự thuyết: Phật tự kêu các Tỳ-kheo lại thuyết giảng, không chờ thưa hỏi.

6- Nhân duyên: Tùy theo nhân duyên mà Phật giải thích về nhân duyên các pháp.

7- Thí dụ: Khi giảng muốn cho dễ hiểu Phật cho ví dụ.

8- Bổn sự: Kinh kể lại những đời quá khứ của Ngài.

9- Bổn sanh: Kinh Phật kể lại những đời quá khứ của đệ tử.

10- Phương quảng: Những bài kinhý nghĩa rộng lớn.

11- Vị tằng hữu: Kinh nói lên điều chưa từng có ở đệ tử. Ví dụ ngài A-nan là thị giả chưa từng có. Phật cần cái gì vừa ngó là Ngài biết đem tới liền.

12- Luận nghị: Kinh bàn luận, phán đoán đúng sai, chân giả để cho người học nắm vững để tu.

Mười hai bộ kinh không phải là mười hai bộ riêng biệt, mà là mười hai thể loại nói kinh của Phật, trong một quyển kinh có nhiều thểloạinhưkinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm... Trong kinh có mỗi phần riêng nói về lý nghĩa riêng gọi là một bộ. Kinh điển có mấy ngàn quyển, Phật nói không ngoài mười hai thể loại này.

Chúng sanh ban đầu nương theo kinh giáoxuất gia học đạo, minh tâm kiến tánh, thành công chứng quả, đây là Phật trước pháp sau. Nếu người lượng cao, đủ đại trí tuệ, liền chóng ngộ trí tự nhiên, không Phật, không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng, quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Bởi, quán thật tướng của thân, tức là Pháp thân rỗng rang diệu hữu, Phật và ta đều vô tướng, trong lặng nhiệm mầu, nhất như, tròn đồng thái hư, chân không bình đẳng. Dù học ngàn kinh muôn luận, rốt ráo cũng không vượt ngoài lý này, cuối cùng là viên chứng Phật Pháp thân.

Chúng sanh nương theo Pháp Phật dạy tu hành ngộ đạo chứng quả Phật cũng gọi là Phật trước pháp sau. Nếu người nào có trí tuệ rộng lớn, chóng ngộ trí vô sư không Phật không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng. Chúng ta học tất cả Kinh tất cả Luận và tu để chứng được Pháp thân, Pháp thân thì không còn ngôn ngữ, không còn giáo lý để học, chỉ là thể tánh tịch diệt sẵn có của tất cả chúng ta. Phật chứng được Pháp thân, chúng ta tu cũng chứng được Pháp thân, đó là chỗ bình đẳng rốt ráo.

*


(1) Pháp Hoa Giảng giải (Thích Thanh Từ) trang 112
III- KỆ KIẾN TÁNH (Ðoạn3)

VI-

Ðạt-ma Tây đến một chữ không,
Toàn y tâm địa để dụng công.

Chín năm ngó vách không lời nói,

Một sớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm :

Ðạt-ma Tây lai nhất tự vô, 
Toàn bằng tâm địa dụng công phu.
Cửu niên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhất đán truyền tâm Huệ Khả sư.
Ðạt-ma Tây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công.Chín năm ngó vách không lời nói, mộtsớm truyền tâm Huệ Khả thông. Tổ Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa không truyền dạy một chữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môn tâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phật thường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất. Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặt đất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơi đất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điều thấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từ tâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ. Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách không nói một lời, một hôm ngài Thần Quang tìm tới cầu chỉ dạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổi tên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trước khi gặp Tổ đã dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ. Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Ðộ sang ở tại chùa Thiếu Lâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổ vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngài tự nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấy nhằm tiết Ðông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Tổ ? Ðến sáng tuyết ngập đến đầu gối mà gương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương tình, xoay ra hỏi: - Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì ?

Ngài Thần Quang thưa:

- Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổ quở:

 - Diệu đạo vô thượng của chưPhật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn, còn không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc này mà cầu được sao ?

Thần Quang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen:

- Chư Phật xưa vì pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánh tay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổ nhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câu chuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưa kiểm chứng được. Nhưng hình ảnh đứng trong tuyết lạnh thấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gương sáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầu đạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câu cuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổ vị này.

VII-

Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyền nhau bốn mắt đã phân rành.
Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soi khắp đất trời độ hữu tình.
Âm :
Nhất điểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tương truyền tứ mục thái phân minh.
Liên phương tục diệm quang vô tận,
Phổ chiếu càn khôn độ hữu tình.
Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đã phân rành.một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh.Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi, soi khắp đất trời độ hữu tình.VIII- Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nên khi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Ðạt-ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượng trưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Ðèn tâm, đuốc trí tuệ cho nên câu đầu nói Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm, đuốc tuệ chớ không riêng gì ngài Huệ Khả. Ðèn tâm đuốc tuệ được truyền bằng bốn mắt nhìn nhau. Khi xưa, ở hội Linh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nhìn khắp đại chúng, nhìn tới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, liền được truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi "Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao ?". Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Ngài, Ngài nhìn lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. Còn bây giờ thầy trò nhìn nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ? Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy, tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng. Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cái ngộ của mình tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọi là nối hương tiếp lửa. Bởi vì đạo đức ví như mùi hương, mùi hươngđạođức không bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nói mùi hương của thế gian thì theo gió thổi đi, còn mùi hương của đạo đức thì gió hướng nào cũng không ngại hết, mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cả muôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngại gió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửa là mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng mãi ở cõi nhân gian. Vì đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và ví ánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặt trời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộ thì thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ thì thế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu là phải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèn trí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cõi thế gian nhiều tăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độ chúng hữu tình.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm,
Kho báu nhà mình chớ chạy tầm.

Có ai thử hỏi đâu là Phật ?
Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Âm :
Chân Phật chân kinh tổng tại tâm,
Tự gia bảo tạng mạc tha tầm.

Hữu nhân thí vấn Phật hà tại,
Ứng đối đương thời tại nhãn âm.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà mình chớ chạy tầm.Có ai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời). Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu của mình đừng chạy ra ngoài để tìm kiếm. Chúng tathói quen hễ nói đến Phật thì nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nói đến kinh thì chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lời Phật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh để trong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyên nói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nhìn Phật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của mình, ông Phật của mình thì giác và linh động nói năng đi lại là Phật thật. Còn Phật tượng thì ngồi im lìm không nói năng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằm trong tủ thì ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạy ấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bản tâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. Kinh Viên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phật dạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúng ta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm thì chưa phải là chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. Vì Phật là giác, mà giác là tâm mình giác, Phật tượng vô tri không giác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằng giấy mực văn tự không tri giác, nên không phải là chân kinh. Chân Phật chân kinh, kho báu gốc từ tâm mình mà ra chớ không phải ở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật, thì ngay nơi tâm mình là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ. Quay lại kho báu nhà mình thì có đầy đủ tất cả chớ chạy tìm ở đâu cho nhọc. Nếu hỏi đâu là Phật thì đáp: Lời hỏi mắt nhìn, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đến chỗ Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:

- Ông đi đâu ?

Sư thưa:

- Con đến cầu Phật pháp.

Tổ bảo:

- Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì ?

Sư thưa:

- Thế nào là kho báu nhà mình ?

Tổ bảo:

- Chính khi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Cái thưa hỏi là kho báu, vì lời nói phát xuất từ tâm, nên mới phát ra âm thanh, phát ra cái nhìn đều từ tâm Phật, nhưng tại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi vì từ thuở bé cho đến lớn chúng tathói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghe tiếng thì phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ý cũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt, phân biệt rành rẽ thì gọi là người khôn. Ví dụ hôm nay Phật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phật tử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngon không ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon thì họ vui, còn nói tôi ăn chỉ biết ăn thì họ buồn. Bởi vì họ cố tình nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mà nói ăn chỉ biết ăn thì họ buồn, nếu nói ngon thì họ rất là hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngon nhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạtthế gian đều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, mà phân biệt thì đã rơi vào tình thức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.Nếu tâm giác ngộ thì thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà không có tình thức phân biệt xen vào, điều này nói nghe thì dễ nhưng rất khó làm. Vì, môi trường gia đình xã hội luôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạy theo thức tình phân biệt. Do đó, ông Phật của chính mình ẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũng rất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngay nơi bốn mắt nhìn..., nếu mê chạy theo tình thức phân biệt hay dở, khen chê tốt xấu thì không bao giờ nhận ra kho báu của chính mình. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúng ta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm mình, đó là kho báu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xa lạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghe của chính mình, đừng nên chạy đi đâu tìm kiếm nhọc nhằn.

IX-

Chân kinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất,
Một chữ vô sanh thẳng thừa đương.
Âm :
Chân kinh bất dịch bổn như thường,
Vị tằng khai khẩu hiển đường đường.
Bất khả nghĩ trì sai thác quá,
Vô sanh nhất cú trực thừa đương.
Chân kinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳng thừa đương.X- Chân kinh là chỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề thay đổi. Nó đã có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mới có kinh, mà kinh đã hiện đầy đủ không có ẩn giấu chút nào cả. Cho nên nói "chưa từng mở miệng hiện tỏ tường". Vừa khởi nghĩ tìm chân kinh, thì lầm qua mất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằng tri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngay nơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sống với tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏi hiệu gì, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền... Thấy không nhớ mình có cái hay thấy, mà khởi lên nhiều niệm là sanh chớ không còn vô sanh. Ví dụ có người đi từ trên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có người kêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh được không ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanh những cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứ dữ dằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyện đơn giản dễ làm. Ngồi một mìnhmột mình khả dĩ giữ được, còn khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi vì gặp cảnh thì niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng được, cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệt chi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốc của sự tu.
Không văn không chữ đấy chân kinh,
Một quyển trường không quá phân minh.
Miệng nói còn xa ba ngàn dặm,
Tai nghe thêm tiến chục vạn trình.
Âm :
Vô văntự thị chân kinh,
Trường không nhất quyển thái phân minh.
Khẩu tuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩ thính tăng dao thập vạn trình.
Không văn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quá phân minh.Miệng nói còn xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn trình.XI- Chân kinh thì không có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưng quyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không. Kinh này vì không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói thì xa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe thì càng xa hơn đến mười vạn trình, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùng ngôn ngữ để diễn đạt chân kinh, không dùng tai nghe để nghe chân kinh mà chỉ có tâm vô sanhhiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ý bốn câu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nó trùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được, dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh là đầy đủ chân kinh.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng,
Tịch quang tròn lặng suốt hư không.
Thật tế nhất như gồm mọi lý,
Tạm bày muôn pháp độ quần mông.
Âm :
Chân Phật chân kinh bổn nhất đồng,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.

Thật tế nhất như bao chúng lý,
Quyền khai vạn pháp độ quần mông.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tròn lặng suốt hư không.Thật tế nhất như gồm mọi lý, tạm bày muôn pháp độ quần mông.

XII-
Phật thật kinh thật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyên suốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tên mà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trong sáng trùm khắp cả hư không chớ không có gì lạ. Bờ mé chân thật thì nhất như không lý lẽ, nhưng bao trùm mọi lý lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ người mê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp". Nghĩa là chỗ chân thật thì không dính một mảy bụi, mà trong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) thì không xả bỏ một pháp nào. Ðể thấy rằng mọi phương tiện đều y cứ nơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là vì kẻ mê muội giáo hóa cho họ thức tỉnh.
Lý mầu Phật pháp không văn tự,
huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộng tiếp người sau thông một tuyến,
Thượng căn mắt thấy đạo tâm còn.
Âm :
Phật pháp diệu lý vô văn tự,
Tổ đạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằng tiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượng căn mục kích đạo tâm tồn.
Lý mầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn. Lý nhiệm mầu của Phật pháp thì không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ thì chẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lý nhiệm mầu của Phật pháp chỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích, và cơ huyền đạo của chư Tổ thì không dùng ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngài thường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạo nhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ để chỉ thì ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắc kẹt vào phân biệt đối đãi. Sau đây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiền sư. Có người tới hỏi Thiền sư Ðả Ðịa: Thế nào là Phật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Ðó là ngôn ngữ gì ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào là đại ý Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Ðó là ngôn ngữ gì ? Những cơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéo nhận thì nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéo nhận thì khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộng tiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạo tâm còn. Vì rộng độ người sau nên lập bày phương tiện, người thượng căn nếu nhận được cái chân thật thì tâm đạo của họ còn mãi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệ này ý nói, lý mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phương tiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùngngữ ngôn, nhưng vì độ người sau cho nên tạm lập bày phương tiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cái chân thật thì đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-

Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõ ràng tự tánh tức Như Lai.
Kẻ kẻ viên thành đồng chứng Phật,
Người người đầy đủ chẳng cầu ai.
Âm :
Bát-nhã tâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễu minh tự tánh tức Như Lai.
Cá cá viên thành đồng chứng Phật,
Nhân nhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ, rõ ràng tự tánh tức Như Lai.Kẻ kẻ viên thành đồngchứngPhật, người người đầy đủ chẳng cầu ai.

XIV-
Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳng lý Bát-nhã tột cùng, hỏi ai lãnh ngộ chỗ không có người không có pháp. Thì rõ ràng tự tánh mình tức là Phật, tức là Như Lai, tức là Bát-nhã. Nếu nhận được tự tánh của mình là Phật thì ai ai cũng thành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phật thì không còn cầu xin, không còn trông cậy vào người khác. Ý bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhã thì biết rõ tự tánh mình là Phật và tất cả mọi người đều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phật nên không cầu xin ai cả.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Một tông vô trụ tâm ấn Phật,
Muôn pháp hữu vi bọt nước xao.
Âm :
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện hải,
Phật Tổ cơ duyên giáo võng bao.
Vô trụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữu vi vạn pháp thủy phù bào.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.Một tâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháp hữu vi bọt nước xao.XV- Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hết Lục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạy của Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả. Còn cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáo bao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng ta thấy Ðại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển, nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng. Còn Lục của chư Tổ thì Thiền tạng gom lại có một trăm lẻ một quyển. Phương tiện thì nhiều. Nhưng: Chỉ một tâm vô trụ đó là tâm ấn của chư Phật, còn các pháp hữu vi sanh diệt ví như bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tóm lại ý bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá của Phật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa của Phật Tổ là lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiện tuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ, tâm vô trụtâm ấn của chư Phật. Người ngộ được tâm ấn của chư Phật thì thấy các pháp hữu vi chỉ là vô thường tạm bợ như hòn bọt ngoài biển cả.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Hai người bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồn linh nước pháp sa giới chảy,
Ðuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.
Âm :
Tam thế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhị nhân tứ mục nhãn tương giao.
Linh nguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệ chúc quang thông sát hải dao.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đối nhìn nhau.Nguồn linh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.Cho nên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma, mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người. Chúng sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mình chẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. Ba đời chư Phật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nhìn nhau. Nếu bốn mắt nhìn nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo thì: Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằng sa cõi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hết tất cả chỗ. Ý bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyền diệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nhìn nhau mà ngộ được thì nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả cõi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộ ở chỗ bốn mắt nhìn nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ, ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nhìn nhau là cái gốc nhận ra tâm mình là Phật. Sau đó truyền bá mãi không cùng tận.

Sau đây là dẫn lời ngài Ðại Huệ, một Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép,Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người.Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma.Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ. nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm căn bản. Bởi vì chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn có của mình thì chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làm khuôn phép. Người chỉ tin ngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lãnh ngộ như những người căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh của mình. Người nhận được bản tánh thì đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn được làm người. Người tin mình có tự tánh thì đời sau không sanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quân ma. Người tin mình có tự tánh đã sẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên còn bé (đồng tử) đã theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức là nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu. Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Như chúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ mà ngộ, thì một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Như vậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt, cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công án mà ngộ thì giải được tất cả các công án.

Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật, tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người.Chúngsanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy.Nếu tự mình chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay chẳng thể thành Phật ?phải biết tự tu tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này, hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. NgàiChân Nguyên nói: Giả sử ngườitham học như trên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuy tu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vịcõi trời cõi người. Chúng ta tu là phải tự độ mình, chớ Phật không thể độ được. Ở đây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại. Nếu mình chẳng thật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phật đến cứu độ thì không bao giờ có Phật đến cứu. Nếu tu mà cứ mong Phật tới cứu độ thì ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vô số sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tế thì chúng sanh còn nhiều mê lầm, vậy thì trông cậy Phật độ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ý không ? Chắc chắn là không. Cho nên Ngài nhắc chúng ta phải tự tu tự độ chớ Phật không thể độ mình được. Tuy nhiên phân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúng ta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ? Ví dụ đứa học trò đến trường học, nó học được là nhờ thầy dạy, nếu nó không học thì không thuộc bài. Như vậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộc bài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phân nửa của nó mà làm thành cho đứa học trò. Cũng vậy đức Phật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồi phải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phân nửa của chúng ta thì mới viên mãn sự tu hành, chớ không phải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiết lạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạy của Ngài, ứng dụng tu thì mới được thành tựu viên mãn. Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lý này để nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học trò ỷ lại vào ông thầy thì người học trò đó sẽ hư. Cũng vậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu thì sẽ không đạt kết quả.

Xưa đức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê, phước làm sao cứu? Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khó sanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô�i nước trèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưa đức Phật Bổn sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy.Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác.Nên biết người có trí phải lậpchí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích.Thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau, người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành thì mong khiến cho chóng thành. Ðây là dẫn lời Phật dạy trong kinh Di Giáo. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Vậy Phật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Ðộ, mà là Phật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng ta xưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tròn sáng, như như không động, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca còn tại thế cũng như vậy chớ không có lý nào khác. Ngài dạy rằng người có trí tuệ thì khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ song tu, phải chứng ngộ chân như của chính mình. Mỗi niệm mỗi niệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phương tiện thiện xảo để làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ. Ngài dạy rằng muốn làm lợi ích cho người sau, thì phải nói pháp nhiệm mầu của kinh Bát-nhã cho họ hiểu. Người chưa ngộ thì giúp cho họ tỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thành tựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên, trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phu tu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phu tu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, thì e rằng không có kết quả. Ðó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếu không hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt tình quá, muốn làm cho người ngộ mà chính mình chưa ngộ, dù có làm thế mấy cũng không tới đâu.

Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương.Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu. Ngài dẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống như ngọn đèn sáng để ở trong căn phòng, tuy có ánh sáng nhưng chỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. Còn pháp thí tức là đem Phật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, thì lợi ích rất nhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Ví dụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, thì chỉ giúp được một vài gia đình qua cơn thiếu thốn, vậy chỉ cứu được cái khổ tạm thời. Còn nếu chúng ta thâm nhập Phật pháp thì một buổi giảng, một hai ngàn người nghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họ nghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài thì chúng ta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí pháp Phật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mười phương. Bố thí tiền củagiới hạn nên ví như ngọn đèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rõ như thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đem ra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mới là việc quan trọng. Còn chúng ta làm ra tiền để giúp đỡ người nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi vì sức người có chừng mực, tiền củagiới hạn, biết bao nhiêu tiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùng không giới hạn. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánh Phật của mình thì dù có làm việc phước thiện bao nhiêu đi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu mình thì trước hết phảinhận ra tự tánh. Ví dụ như có người còn rất nhiều tham sân si, phiền não đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bố thí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thí là có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ, vì họ chưa nhận ra tánh giác của chính mình. Cho nên người tu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xem thường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phước là đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổ người kia, mà quên cứu mình, chuyện giác ngộ đối với họ rất là xa xôi.

Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hội ngộ. Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứ nhất. Cho nên Phật tử đã được thân người, sáu căn đầy đủ, mà gặp chuyện buồn khổ đòi tự tử là không hiểu đạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà còn bị người ta chê cười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tử gặp chuyện buồn tự tử còn bị người đời chê ngu, không xứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuất gia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đòi tự tử có thể tha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thân này khó được, nương thân giả tạm để tu hành như người nương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đòi phá bè là chuyện làm của kẻ ngu. Người tu mà đòi tự tử là ý phạm giới sát, mình tự sát mình đáng ăn đòn không biết bao nhiêu gậy. Chúng ta tu nếu chưa được an lạc thì phải khéo léo chuyển hóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân người rất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoại thân là người đáng chêtráchnhất. Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cái khó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốn gặp Phật pháp, thì đến các nhà phát hành kinh sách thỉnh bao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rất nhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừng hiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật, mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụng tu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, còn xem kinh bằng mắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phật lên xem thì buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảng thì ngủ gục, còn xem truyện, xem tiểu thuyết thì quên ăn bỏ ngủ, xem truyền hình suốt ngày, nhất là xem phim chưởng đấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy với người không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng là chuyện khó, huống là nhận hiểu Phật pháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cái khó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Ðiều này dĩ nhiên, nhất là ở thời kỳ mạtpháp, phàm Tăng thì dễ kiếm, chớ Thánh tăng thì rất khó gặp.

Cái khó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói "Thuốc đắng đã tật lời thật trái tai". Chánh pháppháp chân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người và sự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy là người có phước tướng, thông minh... nói như vậy rất là dễ nghe và cảm thấy vui trong lòng. Nếu họ nói thầy là cái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậy kín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật mà người nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghe là khó ở chỗ đó. Vì chánh pháp luôn nói lên sự thậtmọi người muốn che đậy.

Cái khó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sử tôi nói tụng kinh chừng bảy biến thì được phước nhiều, đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hãy tin tâm mình là Phật, đó là điều khó tin. Bởi vì có nhiều người khi nghe nói tâm mình là Phật thì lắc đầu từ chối con không dám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ở cõi nhơn thiên thôi. Tin tâm mình là Phật ít người dám tin cho nên nói lòng tin khó phát sanh.

Cái khó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lành khó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào là bạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện, nếu có một sư huynh thấy một sư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lý do sư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lần nào cũng trả lờilý do. Sư huynh biết sư đệ này đang mang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành gì mà lười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm, phải nỗ lực vượt qua chớ ! Nghenhưthếsư đệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có một sư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, thì lấy dầu xoa, nghe than buồn ngủ thì bảo đi ngủ, nghe nói đau chân thì bảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầy quở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạn lành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chục vị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai thì sư đệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậy người khó khăn rầy rà để thúc đẩy mình tiến lên đó là bạn lành. Người dễ dãi chìu chuộng theo cái sở thích của mình, làm cho mình tu không tiến đó là bạn chẳng lành. Tổ Qui Sơn có dạy "Gần gũi bạn lành như đi trong sương móc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận. Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tội lỗi, quả báo ngay trước mắt". Song theo thường tình thì bạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Ðó là chuyện trong chùa. Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử nam đi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượu trong quán kêu vô nài ép bảouống, Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằng đàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đàn bà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của người bạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai can rằng: Bạn là Phật tử đã thọ qui giới uống rượu là phạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uống rượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, người nào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiên là thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điều không tốt cho mình. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơn là bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng ta là người học đạo phải biết rõ ai là bạn lành, để gần gũi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳng lành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếu không đủ đạo lực thì không nên gần nhiều, gần nhiều sẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó được Ngài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy là quá tốt, nếu người nào chưa đủ thì hãy rán tạo nhân duyên cho đủ.

Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp thì hút vào nhau, ý muốn nói mừng cho mình đã có phước duyên tốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thực hiện được mà mình thực hiện được như: Phật pháp khó gặp mà mình gặp, chánh pháp khó nghe mà mình được nghe v.v...

May thay như rùa mù gặp bô�ng cây.Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ?Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi. thưa hỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổng một đời tu. Nếu đi tu vì mục đích an nhàn, sung sướng cho bản thân thì chưa phải là người thật tâm xuất gia cầu đạo giải thoát. Câu chuyện rùa mù gặp bộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộng cây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bên Ðông, mai qua bên Tây. Có con rùa mùdưới đáy biển, một trăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn tìm bộng cây để chui vào. Vậy rùa mù tìm được bộng cây dễ hay khó ? Rất khó. Ý đức Phật nói con người sau khi mất thân này, muốn được thân trở lại khó như rùa mù tìm gặp bộng cây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiều phúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ nhà, bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đích cầu cái gì? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầu giác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính mình và chúng sanh ? Ðây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Ngài răn những lời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đi tu đừng tham đắm danh lợidanh lợi làm chướng ngại sự tu hành. Ði tu thì phải cầu thầy sáng, để hướng dẫn mình tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợ những duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông. Phải vì Phật pháp quên thân mạng, phải vượt suốibăng rừng để tìm những bậc đạo cao đức trọng mà

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?

Dạy rằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là hai việc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện chỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi về đâu ?

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ?Song này các người do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo. Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thế gian không việc khó, lại nói thế gian có hai việc khó, nếu không việc khóthì làm gì có hai việc khó ? Ý Ngài muốn nói rằng trên thế gian không có việc gì khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó, đó là Ðây là hai việc rất khó, vì hai điều này là hai điều thắc mắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắc mắc mình từ đâu đến đây và sau khi chết mình sẽ về đâu ? Ðó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giải đáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Ca lúc còn là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và, Ngài quyết phăng tìm cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàng cung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đức Phật cũng phải quyết tâm tìm cho ra manh mối. Muốn thực hiện điều đó Ngài dạy: Muốn giải quyết hai mối nghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, tìm thầy sáng bạn lành cầu chỉ dạy cho mình tu, khi ngộ đạo thì giải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-ta ngồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngày đêm. Ðêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túc mạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trước nên giải quyết được câu hỏi "ta từ đâu đến đây". Khoảng canh ba Ngài chứng được thiên nhãn minh, thấy rõ con người sau khi chết theo nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuống v.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất người tu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phải chứng thiên nhãn minh. Ngày nay chúng ta tu còn mờ mịt thật là khó giải quyết được hai mối nghi "sanh từđâu đến, chết đi về đâu".

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi về đâu ? 

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Ðến từ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái gì ? "Vô vi" là từ ngữ của đạo Lão, khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, nói đến lý bất sanh bất diệt, các Ngài mượn từ vô vi của đạo Lão để dùng. Nhà Phật dùng từ vô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vật có hình tướngthế gian có sanh có diệt là hữu vi, pháp không sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanh ta từ đâu đến ? Ðáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bất sanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Ðáp rằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơi gượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sauđây tôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. Kinh Lăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên một niệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởi theo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vào sanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiện giờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghe mỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậy thử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnh táo hồi nãy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm gì có cái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thức chúng ta tỉnh lại thì không còn mê nữa. Như vậy cái mê nó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, có ai biết mình sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnh là bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm thì ngủ say mộng mị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân như thì sẽ dấy sanh vọng niệm, vì vọng niệm dấy khởi nên sanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ? Ðáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệm sanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau. Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt. Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũng trở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúng ta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗ không sanh diệt, nếu không tu thì vẫn tiếp tục đi trong sanh tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1191)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 1923)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4810)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4214)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 11954)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6477)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4171)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4615)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 5885)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12396)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 4994)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 5891)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 7943)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5193)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5491)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3534)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 4926)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7559)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7257)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 5887)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 4906)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4719)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5619)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12298)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11537)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12659)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8318)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8240)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6733)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8405)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6152)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 6888)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5415)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9115)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9370)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6068)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8620)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6339)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6484)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8142)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10446)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9171)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 7973)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6070)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8737)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 6908)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6508)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 9811)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 8870)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8357)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 8931)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7317)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7003)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6367)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 5940)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 7897)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7816)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11015)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11475)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7693)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10092)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 7960)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8128)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7477)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8146)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7090)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8165)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10105)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11616)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9671)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10209)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9129)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11390)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8209)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10159)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10529)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10294)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11469)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9256)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22653)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10338)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 9903)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10135)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10255)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10179)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10647)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 12988)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14540)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13225)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12561)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9569)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11060)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10633)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14402)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12287)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11581)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11548)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23204)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11192)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10365)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant