Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 7

26 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12381)
III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 7

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 B. GIẢNG GIẢI
III- KỆ KIẾN TÁNH (Ðoạn 7)

Hỏi: Thế nào là trên trời dưới đất, trong cõi nhân gian, quần sanh muôn loài, hết lòng cung kính, tôn xưng chư Phật, gọi là Giác Hoàng?

Ðáp: Phật là bậc thầy trong ba cõi, cha lành nơi bốn loài, đức to vòi vọi, hùng tôn bát ngát, quả chứng ba vô số kiếp, ân thấm cả chín loài, ba thân tròn hiển, mười hiệu cùng bày, đến Thánh thì làm vua trong muôn Thánh, làm Phật thì sáu thông tự tại, chín loài tối tăm đều được thấm nhuần, ba cõi đều tôn quí, đại bi đại nguyện, đại lực đại hạnh, khắp tiếp cả trời người, sang hèn đều dẫn dắt, ứng hóa trên trời, cõi người, cứu độ cõi này phương khác, quần sanh đều lợi lạc, tất cả đều nương về, vì vậy tôn Phật là "Giác Hoàng".

Ðây nêu lên câu hỏi tại sao từ cõi người cõi trời cho đến tất cả quần sanh đều cung kính tôn xưng chư Phật là Giác Hoàng ? Giác Hoàng là vua giác hay cũng gọi là Giác vương.

Ðáp rằng Phật là bậc thầy của ba cõidục giới, sắc giớivô sắc giới, cha lành của bốn loài, bốn loàithai sanh, noãn sanh, thấp sanhhóa sanh. Ðức độ Ngài rộng mênh mông, cao vòi vọi như núi, sức mạnh của Ngài bát ngát không thể diễn tả được, Ngài tu ba vô số kiếp mới chứng quả, khi chứng quả rồi ân đức của Ngài nhuần thấm trong chín loài. Chín loài: Noãn, thai, thấp, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng. Ba thân hiển bày đầy đủ. Mười hiệu là: Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Nếu ở trong hàng Thánh thì Ngài là bậc trên hết, Ngài đã được sáu thần thông, chín loài tối tăm đều được thấm nhuần ơn của Ngài. Như vậy sở dĩ hết thảy quần sanh đều tôn chư Phật là vua giác là vì công đức của các Ngài vô lượng, vô biên. Tuy nhiên có một câu mà ngày xưa học tôi cũng nghi: nói rằng quả chứng ba vô số kiếp, tức là Phật tu trải qua ba vô số kiếp mới chứng quả. Vô số kiếp thì không tính được tại sao nói ba ? Ðã vô số mà còn nói ba thì lấy đâu làm giới hạn để nói là ba vô số ? Vô số kiếp đã không thể tính, vậy lấy đâu làm chặng vô số kiếp thứ nhất, vô số kiếp thứ hai và vô số kiếp thứ ba ? Không có chặng mà nói ba vô số kiếp làm sao hiểu ? - Nói vô số kiếp chúng ta đừng lầm tưởng vô sốthời gian dài đăng đẳng không thể tính đếm, mà vô số là số thời gian không cố định. Ví dụ có người tu mười năm họ tỉnh. Có người tu cả đời không tỉnh. Như trong kinh nói: đức Phật Thích Ca và Bồ-tát Di Lặc đồng thời phát tâm tu, mà Phật Thích Ca đã thành Phật, còn Bồ-tát Di Lặc thì bao nhiêu kiếp nữa mới thành Phật. Như vậy căn cứ vào cái gì để tính số ? - Căn cứ vào hạnh tu của các Ngài mà tính, mà làm chuẩn, chớ không phải tính năm tháng tu. Nếu căn cứ trên năm tháng tu thì không thể nào tính được.Căn cứ trên công hạnh tu thì trong kinh nói: người tu từ sơ phát tâm cho đến tam hiền là bậc thứ nhất hay vô số kiếp thứ nhất. Nhưng trong giai đoạn này người thì tu nhanh, người thì tu chậm làm sao định được thời gian ? Như người đi học năm năm hết cấp một, bốn năm nữa hết cấp hai v.v... có thể tính được. Còn người tu siêng thì nhanh, lười biếng thì chậm, mà chậm thì cứ tu mãi cho nên không biết bao nhiêu mà tính, do đó gọi là vô số. Như từ Sơ địa tới Bát địa là bậc thứ hai hay vô số kiếp thứ hai, từ Bát địa đến đẳng giác diệu giác thành Phật là bậc thứ ba hay vô số kiếp thứ ba. Nói ba vô số kiếp là các Ngài căn cứ trên công hạnh tu vượt qua ba bậc gọi là qua vô số kiếp thứ nhất, vô số kiếp thứ hai, vô số kiếp thứ ba, chớ không phải căn cứ trên thời gian. Căn cứ trên thời gian tu thì không ai giống ai, người tu nhanh, người tu chậm, người tu vừa vừa, cho nên không nói số kiếp nhất định. Chúng ta thử xét lại, đức Phật Thích Ca và Bồ-tát Di Lặc đồng thời phát tâm tu, mà Phật Thích Cathì đã thành Phật nhập Niết-bàn, còn Bồ-tát Di Lặc thì đang làm Bồ-tát nhất sanh bổ xứ ở cung trời Ðao lợi. Cũng vậy, trong số Tăng Ni tu ở đây cùng tu một lượt mà năm bảy năm sau người làm Thiền sư, người làm pháp sư, cũng có người ngồi tu dài dài. Nói như thế để chúng ta hiểu trình độ tu rất sai biệt, đừng nghĩ rằng cùng phát tâm tu, thời gian tu và kết quả của mỗi người như nhau.

Bởi vì sao ? Vì nhân tu rộng lớn nên trăm ngàn công đức đã trang nghiêm, quả chứng chí tôn thì ở trên cả trăm ức hóa thân. Ðại nguyện của chư Phật, khi ra đời thường thị hiện làm vua. Làm Phật thì ba cõi đều tôn kính, làm vua thì muôn nước đều qui phục, là thảy do công phu tu hành từ nhiều kiếp, và nhân duyên phước huệ, lo cứu giúp cho mọi người.

Ðoạn này nói thêm cho rõ công đức của chư Phật quá cao siêu như vậy nên mới tôn xưng là Giác Hoàng. Nhưng tới đoạn sau thì an ủi vua Lê Hy Tông.

Lại hội lý rằng:

Giác là rất to, rất rộng, pháp tánh tròn sáng, chánh giác Bồ-đề. Hoàng là rất tôn, rất quí, ngôi vị độc tôn hết mức, là bậc đế vương trang trọng. Trong các kinh vẫn thấy Phật Phật hiện làm vua, việc xưa cũng truyền nghe vua vua thành Phật. Nên biết, chư Phật số cát sông Hằng, mỗi vị cũng thường thị hiện làm thân đế vương. Và nên biết, ở cung vua mà ứng ra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấy triều Lê, niên hiệu Chính Hòa, Ðức Giác Hoàng trí Phật thiên nhiên, biển tuệ tròn sáng, trang trọng ngự giữa đài hoa mà hiển dương Phật pháp. Cây Bồ-đề lớn cao, bóng che mát cả mười phương, hoa ưu bát nở ra, sáng rực đến muôn đời. Quần sanh đều được độ, khắp nơi thấm ơn sâu, đời tôn xưng là chân Phật Hoàng.

Hội lý là giải lý hay giải thích thêm. Ðoạn này tán thán công đức của vua Lê Hy Tông. Triều đại nhà Hậu Lê là thời trọng Nho khinh Phật, song có hai ông vua tin Phật rất sâu, trợ duyên tốt cho Tăng Ni tu hành, chùa chiền được phát triển nhiều hơn, Tăng Ni tu đông hơn, đó là vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông. Vua Lê Hy Tông, ban đầu cũng không tin Phật, đuổi hết Tăng Ni về núi tu hành, không cho ở lại kinh đô để mở mang Phật pháp. Sau nhờ Thiền sư Tông Diễn, viết sớ dâng vua, trình bày hết những cái hay cái quí của đạo Phật. Vua nghe xong, thức tỉnh thành tâm sám hối tội hủy báng Phật pháp. Từ đó về sau vua hết lòng tin và ủng hộ Phật pháp. Do vua sùng kính Phật pháp nên ngài Chân Nguyên được vua trợ duyên rất nhiều trong việc xây lại chùa Quỳnh Lâm, trong lúc xây chùa, vua cấp cho ba chục ngàn dân tới làm công quả. Do đó ngài Chân Nguyên nói ở cung vua mà ứng ra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấy triều Lê, niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Niên hiệu Chính Hòa là niên hiệu của vua Lê Hy Tông, công đức của vua rất xứng đáng được tôn xưng là Giác Hoàng.

Rỗng toang Phật tánh tợ hư không,
Thị hiện thân vua thể cũng đồng.
Quyền thật sáng ngời gồm mọi lý,
Mở mang Phật pháp độ quần mông.
Âm :
Hoát nhiên Phật tánh đẳng hư không,
Thị hiện vương thân thể diệc đồng.
Quyền thật tinh quang bao chúng lý,
Hiển khai Phật pháp độ quần mông.
Ngài nói thêm bài kệ để tán thán Giác Hoàng. Rỗng toang Phật tánh tợ hư không, thị hiện thân vua thể cũng đồng. Ðứng về mặt Pháp thân thì Phật tánh rỗng toang tợ hư không. Nhưng thị hiện hay ứng hóa ra hoặc là tu sĩ hay vua giáo hóa dân... đó là cái tướng của dụng, song thể vẫn đồng. Quyền thật sáng ngời gồm mọi lý, mở mang Phật pháp độ quần mông. "Quyền" là hiện làm vua, "thật" là chỉ Pháp thân, nghĩa là thị hiện làm vua hay sống với Pháp thân thì vẫn sáng ngời đầy đủ lý đó. Hiện ra để làm gì ? Thị hiện làm vua để mở mang Phật pháp độ những kẻ mê muội. Sau đây Ngài dẫn sách Trung Quốc.
Trước kia, vua Ðường Thuận Tông hỏi Ðại sư Phật Quang:
Phật từ phương nào đến ?
Diệt trở về nơi đâu ?
Ðã nói thường trụ thế,
Nay Phật ở chỗ nào ?
Âm :Phật tòng hà phương lai ?
Diệt hướng hà phương khứ ?
Ký ngôn thường trụ thế,
Phật kim tại hà khứ ?
Ðại sư Phật Quang đáp:
Phật từ vô vi đến,
Diệt trở về vô vi.
Pháp thân đồng hư không,
Thường ở chỗ không tâm.
Có niệm về vô niệm,
Có trụ về vô trụ.
Ðến vì chúng sanh đến,
Ði vì chúng sanh đi.
Biển chân như thanh tịnh,
Tròn lặng thể thường trụ.
Người trí khéo tư duy,
Lại chớ sanh nghi ngờ.
Âm :
Phật tòng vô vi lai,
Diệt hướng vô vi khứ.
Phật thân đẳng hư không,
Thường tại vô tâm xứ.
Hữu niệm qui vô niệm,
Hữu trụ qui vô trụ.
Lai vị chúng sanh lai,
Khứ vị chúng sanh khứ.
Thanh tịnh chân như hải,
Trạm viên thể thường trụ.
Trí giả thiện tư duy,
Cánh vật sanh nghi lự.
Trước kia vua Ðường Thuận Tông hỏi Ðại sư Phật Quang: Phật từ phương nào đến, diệt trở về nơi đâu? Ðã nói thường trụ thế, nay Phật ở chỗ nào ? Câu hỏi nêu lên là: Phật từ đâu đến, sau khi nhập diệt đi về đâu ? Và nói Phật thường trụ ở đời, nhưng nay Phật ở đâu? Ðó là câu hỏi của vua Ðường Thuận Tông.

Ðại sư Phật Quang đáp:

Phật từ vô vi đến, diệt trở về vô vi. Phật đến từ vô vi mà diệt cũng trở về vô vi. Tại sao vậy ? Vì vô vi là cái thể bất sanh bất diệt, Ngài thị hiện ra đời là Hóa thân hay Ứng thân, mà Hóa thân hay Ứng thân cũng từ Pháp thân hiện ra, cho nên nói đến từ vô vi. Ngài hóa thân tùy duyên độ chúng sanh, khi duyên hết, hóa thân diệt thì trở về Pháp thân, đó là trở về vô vi. Như vậy sanh ra từ Pháp thân, diệt cũng trở về Pháp thân cho nên câu sau nói:

Pháp thân đồng hư không, thường ở chỗ không tâm. Ở trên hỏi đã nói thường trụ, nay Phật ở chỗ nào ? Ở đây trả lời Phật thường ở chỗ không tâm. Vậy không tâm là ở chỗ nào ? Chúng ta có tâm hay không tâm ? Nếu tâm dấy niệm chạy theo trần cảnh thì có tâm, nếu lặng những vọng niệm đó là không tâm. Câu trả lời quá xác thực. Tuy nhiên quí vị có khả năng thấy Phật không ? Chịu khó không tâm là thấy, nếu có tâm thì chỉ thấy chúng sanh. Vì tâm chạy theo trần cảnh là tâm mê của chúng sanh; tâm chúng sanh là tâm hơn thua, phải quấy, tốt xấu v.v... Những thứ tâm chúng sanh lặng, chúng ta vẫn tri vẫn giác ngay đó là tâm Phật. Do đó hỏi: Phật thường trụ ở đời, vậy ở chỗ nào? Ðáp: thường ở chỗ không tâmchỉ thẳng không còn giấu giếm gì nữa.

Có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ. Ở chỗ không tâm đó nếu có niệm thì đưa về vô niệm, có trụ thì phải đưa về vô trụ, đó là chỗ Phật ở. Những câu kế Ngài giải thích thêm:

Ðến vì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh đi. Chúng sanh mê, Phật thương muốn độ họ mà thị hiện ra đời, khi duyên mãn, Phật vì chúng sanh thị hiện nhập Niết-bàn. Vì những gì cần dạy cho chúngsanh Ngài đã giảng dạy hết rồi, nếu ở đời thêm thời gian nữa thì chúng ta sẽ ỷ lại, mà không chịu nỗ lực tư duy những lời Phật dạy để ứng dụng tu. Như vậy Phật đến hay đi cũng vì chúng sanh cả, chúng sanh mê thì Ngài đem chánh pháp dạy cho tỉnh giác, hết duyên thì Ngài ra đi.

Biển chân như thanh tịnh, tròn lặng thể thường trụ. Nghĩa là Ngài trở về thể chân như thanh tịnh thênh thang như biển cả, luôn luôn lặng lẽ tròn đầy không sanh không diệt.

Người trí khéo tư duy, lại chớ sanh nghi ngờ. Người trí khéo nhận định suy xét, không nên sanh lòng nghi ngờ. Như vậy chúng ta thấy ngài Phật Quang đáp rất chí lý không còn giấu giếm gì cả. Bây giờ giả sử có ai hỏi Phật thường trụthế gian vậy Phật ở chỗ nào ? Quí vị chỉ được không ? Chỉ tâm không chạy theo cảnh đó là chỗ Phật thường trụ.

Vua lại hỏi:

Phật từ vương cung sanh,
Diệt về Song Lâm diệt.
Trụ thế bốn chín năm,
Lại bảo không pháp nói ?
Núi sông và biển cả,
Trời đất với nhật nguyệt,
Thời đến đều tiêu tan.
Ai rằng không sanh diệt ?
Nghi tình còn như trên,
Người trí khéo phân biệt.
Âm :
Phật tùng vương cung sanh,
Diệt hướng song lâm diệt.
Trụ thế tứ thập cửu,
Hựu ngôn vô pháp thuyết.
Sơn hà cập đại hải,
Thiên địa cập nhật nguyệt.
Thời chí giai qui tận,
Thùy vân bất sanh diệt ?
Nghi tình du nhược tư,
Trí giả thiện phân biệt.

 

Vua lại hỏi:Phật từ vương cung sanh, diệt về Song Lâm diệt. Trụ thế bốn chín năm, lại bảo không pháp nói? Vua nêu lên câu hỏi: Khi Phật còn là Thái tử sanh ở cung vua, đi tu thành Phật, nhập diệt ở rừng Sa-la, trụ thế bốn mươi chín năm, thuyết pháp độ sanh, sao lại bảo không nói pháp ? Ðó là ý thứ nhất.

Núi sông và biển cả, trời đất với nhật nguyệt, thời đến đều tiêu tan. Ai rằng không sanh diệt, nghi tình còn như trên, người trí khéo phân biệt. Ý thứ hai vua hỏi núi sông, biển cả, mặt trời, mặt trăng v.v... hết duyên cũng tan hoại, tại sao nói có cái không sanh diệt ?

Ðại sư Phật Quang đáp:

Thể Phật vốn vô vi,
Tình mê vọng phân biệt.
Pháp thân đồng hư không,
Chưa từng có sanh diệt.
duyên Phật ra đời,
Hết duyên Phật nhập diệt.
Nơi nơi độ chúng sanh
Giống như trăng trong nước.
Chẳng thường cũng chẳng đoạn,
Chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Sanh cũng chưa từng sanh,
Diệt cũng chưa từng diệt.
Tỏ ngộ chỗ không tâm,
Tự nhiên không pháp nói.
Âm :
Phật thể bổn vô vi,
tình vọng phân biệt.
Pháp thân đẳng hư không,
Vị tằng hữu sanh diệt.
Hữu duyên Phật xuất thế,
Vô duyên Phật nhập diệt.
Xứ xứ hóa chúng sanh,
Du như thủy trung nguyệt.
Phi thường diệc phi đoạn,
Phi sanh diệc phi diệt.
Sanh diệc vị tằng sanh,
Diệt diệc vị tằng diệt.
Liễu ngộ vô tâm xứ,
Tự nhiên vô pháp thuyết.
Vua nghe Sư giảng hoát nhiên ngộ đạo, tôn trọng Thiền tông.
Ðại sư Phật Quang đáp: Thể Phật vốn vô vi, tình mê vọng phân biệt, Pháp thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt. Ngài nói thể Phật tức là Pháp thân vốn không sanh diệt, do tình mê nên vọng thấy có sanh diệt, và Pháp thân ấy đồng với hư không nên không bao giờ có sanh diệt. Sở dĩ thấy Phật sanh ở cung vua Tịnh Phạn, nhập diệt ở Sa-la song thọ là do mê mà vọng thấy cái giả tướng, chớ Pháp thân thì đồng với hư không, không có tướng sanhdiệt.

duyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt, nơi nơi độ chúng sanh, giống như trăng trong nước. Ðức Phật Ứng Hóa thân để độ khắp chúng sanh, hết duyên Phật nhập Niết-bàn, ứng hóa thân giống như bóng mặt trăng trong nước. Vậy bóng trăng trong nước là hư ảo, chỉ có mặt trăng trên trời mới là thật. Cũng vậy Phật ra đời ở vương cung, nhập diệt ở rừng Sa-la là Hóa thân Phật, còn trở về thể bất sanh bất diệtPháp thân nên nói thể Phật là vô vi.

Chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng sanh cũng chẳng diệt, sanh cũng chưa từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Tỏ ngộ chỗ không tâm, tự nhiên không pháp nói. Pháp tánh không phải thường cũng không phải đoạn, chưa từng sanh diệt, và khi tâm không còn dấy động thì tỏ ngộ Pháp tánh. Bởi Pháp tánh không tướng mạo, không đối đãi, không dùng ngôn ngữ nói đến được nên tự nhiên không pháp nói, cho nên Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một lời. Không nói một lời là không nói pháp nào? Pháp Tứ-đế hay Thập-nhị-nhân-duyên? - Ðứng về mặt Pháp tánh thì không nói một lời, vì Pháp tánh thì không còn đối đãi, mà không đối đãi thì nói cái gì ? Chúng ta thử nói một câu không kẹt hai bên coi ? Nói được không ? - Vì còn đối đãi hai bên nên còn nói năng, đến chỗ dứt đối đãi thì không còn ngôn ngữ nói năng, do đó kinh Lăng Già đức Phật nói trong bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một câu. Vì trở về Pháp tánh thì không còn ngôn ngữ đối đãi, không còn ngôn ngữ đối đãi nên tuyên bố không nói một câu. Song, khi ở Lộc Uyển Ngài giảng pháp Tứ-đế, đây là khổ đế, đây là diệt đế v.v... khổ đếsanh tử, diệt đế là Niết-bàn vô sanh, là pháp còn đối đãi, nên nói Ngài có nói pháp. Lúc nói tới chỗ hết đối đãi Ngài tuyên bố ta không nói một lời. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy giáo lý của đức Phật uyên thâm sâu kín vô cùng. Bốn mươi chín năm nói pháp là nói pháp đối đãi, đến chỗ dứt đối đãi là chỗ không còn một câu để nói. Ðó là đi từ đối đãi đến chỗ tuyệt đối, chớ không phải Phật từ chối việc nói pháp của mình, hay như nhiều người hiểu rằng ban đầu đức Phật nói pháp Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, Lục-độ-vạn-hạnh... sau Ngài tuyên bố ta không nói một lời. Ngài nói như thế để người sau đừng chấp cứng vào lời dạy của Ngài. Hiểu Ngài nói pháp bốn mươi chín năm là thật thì chưa đạt đến chỗ cứu cánh, chỗ cứu cánh là từ đối đãi đến tuyệt đối, đối đãi thì còn ngôn thuyết, tuyệt đối thì không còn ngôn thuyết. Do đó các Thiền sư cũng nói chỗ tuyệt đối là chỗ không lời, chỗ không lời là chỗ hết đối đãi. Ni sư Diệu Nhân cũng nói "Uổng khẩu vô ngôn".

Vua nghe giảng, thấu suốt được chỗ đó nên ngộ đạotôn trọng Thiền tông. Vua nghe giảng thì ngộ còn chúng ta nghe có ngộ không ? Vì đọc qua câu hỏi và lời đáp chúng ta không nhận ra nên không ngộ, còn vua thấu suốt được lời đáp của Ngài nên vua ngộ và tôn trọng Thiền tông.

Sau đây Ngài dẫn kinh:

Kinh nói: "Tâm ta như nước, Di Ðà như trăng, nước trong thì trăng hiện, chẳng cần người khác nói". Trăng dụ Pháp thân, bóng dụ Hóa thân, trong và đục dụ nhiễm và tịnh.

Ở đây nói kinh mà tôi không nhớ kinh nào, chỉ nhớ một câu "Trì thành nguyệt hiện". Trì là cái ao, cái ao đào xong có nước lóng trong thì thấy mặt trăng hiện. Ðoạn này giải thích về Tịnh độ của tự tâm, Phật Di Ðà chỉ cho Pháp thân, tâm người ví như nước, nước tâm trong thì thấy Phật Di Ðà hiện, như mặt trăng hiện trong ao nước trong. Còn nước tâm đục thì Phật Di Ðà không hiện. Như vậy hồ tâm trong thì mặt trăng Di Ðà hiện, hồ tâm đục thì mặt trăng Di Ðà không hiện, cho nên chúng tôi đặt tên cái hồ ở trước chánh điện Trúc Lâm là hồ Tĩnh Tâm. Tĩnh là lặng, lặng thì mới trong, trong thì thấy bóng trăng hiện. Như vậy qua cái nhìn của các Thiền sư không có chống đối pháp môn nào, Tịnh độ cũng được, Thiền cũng được, vì tất cả đều qui về tự tâm, chủ yếu là nước tâm chúng ta phải trong, nên nói nước trong thì trăng hiện không cần người khác nói. Ngài nói thêm: Mặt trăng dụ cho Pháp thân, bóng mặt trăng dụ cho Hóa thân, tùy nước trong hay đục mà trăng hiện hay không hiện, tùy theo tâm nhiễm hay tịnh mà hóa thânchúng sanh hoặc Bồ-tát. Như kinh Di Ðà nói niệm danh hiệu Phật từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung thấy đức Phật A-Di-Ðà và chư Thánh chúng đến đón. Tâm không loạn là tâm tịnh, mà tâm tịnh thì Phật hiện. Thiền Tứ-niệm-xứ, đức Phật nói ai trụ tâm nơi pháp quán từ một ngày cho đến bảy ngày mà không dời chỗ trụ,� thì người đó chứng từ sơ quả đến tứ quả. Tu Tứ-niệm-xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Giả sử như chúng ta quán pháp vô ngã từ một ngày cho tới bảy ngày không có một tạp niệm, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Còn chúng ta tu theo pháp Thiền này thì sao ? Nếu tâm không dấy niệm, lặng trong sáng suốt thì Phật hiện. Vậy mà nhiều người than, đời mạt pháp Phật nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm, khó thấy Phật quá ! Phật ở gần một bên, tại chúng ta để tâm chạy theo cảnh nên không nhận ra, rồi khởi niệm đi tìm Phật ở núi này núi nọ, thật là xa, cho dù có tìm Phật ở Ấn Ðộ cũng không gặp. Tâm mình yên lặng trong sángPhật hiện tiền, không phải nhọc nhằn tìm đâu cả. Như vậy tu mà ngộ được lý đạo sâu xa rồi thì công phu rất là nhẹ nhàng và không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không ngộ thì than rằng Phật Niết-bàn hơn hai ngàn năm rồi, làm sao tìm cho ra, mà tìm Phật không thấy thì làm sao tu ?

Nước trong trăng hiện, trăng cũng chẳng đến. Nước đục trăng ẩn, trăng cũng chẳng đi. Chỉ do nước có trong đục, chẳng phải bảo trăng có đến đi. Trong pháp cũng như vậy, tâm sạch thì thấy Phật, chẳng phải là Phật đến, tâm nhơ thì chẳng thấy, chẳng phải là Phật đi. Bởi do chúng sanh có nhơ sạch, chẳng phải bảo chư Phật có ẩn hiện.

Ðoạn này giải thích thêm: nước trong thì mặt trăng hiện, nước đục thì mặt trăng ẩn, mặt trăng không có đến đi. Cũng vậy tâm thanh tịnh thì Phật hiện, tâm nhiễm nhơ thì Phật ẩn khuất, Phật không đến không đi. Chúng ta thấy mặt trăng trên trời có đến với nước hay có rời nước không ? -Không đến mà cũng không rời, chỉ tại nước trong thì trăng hiện, nước đục thì trăng khuất mà thôi. Cũng vậy, Pháp thân Phật không đến cũng không đi, chúng ta tu tâm trong lặng thì Phật hiện tiền, tâm ngầu đục thì Pháp thân Phật ẩn. Tưởng chừng như Phật có đến có đi, nhưng thật sự thì Phật không đến không đi bao giờ. Cũng thế, chúng ta ngồi Thiền để dừng tâm chạy nhảy lăng xăng, tâm lăng xăng đó lặng rồi thì ông Phật của chúng ta hiện tiền. Vậy ông Phật hiện ra sao ? Ngồi tòa sen hay tòa sư tử ? Nếu thấy Phật hiện ngồi tòa sen chúng tachấp nhận không ? Chỗ này phải hiểu cho kỹ kẻo lầm. Khi ngồi Thiền tâm thanh tịnh thấy Phật đến xoa đầu thọ ký hoặc tán thán công đức tu hành, tự cho là mình đã chứng quả, nhưng ít lâu phát điên, người ngoài không biết cho rằng tu Thiền điên. Tại sao thấy Phật lại phát điên ? Khi ngồi tu tâm đạt đến chỗ lặng lẽ thì thể chân thật hiện tiền, đó là Phật hiện. Phật tại tâm mình hiện thì không có tướng mạo, nhưng vì chúng ta chạy theo tướng Phật hư dối ở ngoài do tâm mình phóng hiện ra; tướng hư dối mà cho là thật nên lầm, điên đảo cuồng loạn rồi phát điên.

Trong sử Thiền Ấn Hoa có ghi câu chuyện: Tổ Ưu-ba-cúc-đa hàng phục được ma vương bèn trao Tam qui cho nó. Sau khi thọ Tam qui xong, Tổ bảo ma vương:

- Xưa ngươi thường thấy đức Như Lai giờ đây hiện thử cho ta xem.

Ma vương thưa:

- Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn giả trông thấy đừng lễ. 

Tổ khả hứa. Ma vương vào rừng ẩn mất, chốc lát bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau là đoàn Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, Tổ vừa trông thấy cúi mình đảnh lễ. Mavương hoảng kinh biến mất.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy ma hiện Phật, mà Tổ còn lầm tưởng Phật thật, quì xuống lạy. Chúng taphàm phu thường mơ ước được thấy Phật, ma biết được nên nó hiện hình Phật. Chúng ta thấy mừng quá lễ lạy, nhân cơ hội ấy nó nhập vào khiến chúng ta phát cuồng phát điên. Nên nhớ, Phật là tâm thanh tịnh sáng suốt ở mỗi người chớ không phải Phật ở bên ngoài.

Trong Thiền sử Trung Hoa có ghi câu chuyện: ngài Văn Hỷ đi đến núi Ngũ Ðài để tìm Bồ-tát Văn Thù, Ngài không gặp Bồ-tát Văn Thù chỉ gặp một ông già dắt trâu đi, mời Ngài vào chùa uống trà. Qua câu chuyện đối đáp, trời tối Ngài xin nghỉ lại đêm không được, ông già cho một đồng tử đưa Ngài xuống núi. Ngài hỏi đồng tử mới biết đó là chùa Bát-nhã trong hang Kim Cang, ông già gặp vừa rồi là Bồ-tát Văn Thù. Ngài buồn bãvìkhông thể nào gặp lại được. Lúc đó đồng tử và chùa cũng đều ẩn mất, chỉ thấy Bồ-tát Văn Thù cỡi sư tử vàng qua lại ở trên mây, Ngài đảnh lễ rồi đi về.

Sau, Ngài đến Thiền sư Ngưỡng Sơn học đạo, được sung chức Ðiển tọa. Ngài nấu cháo thường thấy Bồ-tát Văn Thù hiện trên nồi cháo, Ngài lấy cây giầm quậy cháo đập, nói:

- Văn Thù tự Văn Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tinh thần Thiền là trở về với Phật chính mình, không lệ thuộc vào Phật, Bồ-tát bên ngoài. Trong nhà Phật có câu "Phật cao một thước, ma cao một trượng", sống trong cõi dục này ma ở gần chúng ta rất nhiều, cho nên chúng ta nghĩ gì, mơ ước điều gì, ma biết hết và nó hiện đúng như ý mình mong cầu. Nếu chúng ta không biết thì bị nó lừa, tu một thời gian kết quả điên khùng là tại chỗ đó. Nếu chúng ta biết tất cả đều là giả tướng, thì không chấp nhận những tướng bên ngoài từ tâm phóng hiện rakhông chấp nhận thì không lầm, không bị hại. Giả sử chúng ta ngồi Thiền gặp Phật thật hiện ra, chúng ta không chấp nhận Phật cũng không rầy, vì biết mình có cái nhìn đúng. Nếu chúng ta gặp Phật không lễ sợ có lỗi, Phật thuyết pháp không nghe sợ có tội, sẽ bị lừa bị hại. Thỉnh thoảng có ít người tu ban đêm ngồi Thiền nghe bên tai có tiếng nói pháp, hoặc bên tai nghe có tiếng nói xì xào, muốn hết tiếng không biết làm sao, đến nhờ tôi chỉ cách để giải trừ. Những trường hợp như thế phần nhiều là do quỉ thần đánh lừa chúng ta. Ban đầu nó đem một hai câu kinh Phật ra nói, chúng ta nghe thích quá, tin theo cho là lời Phật Thánh nói pháp. Khi tin sâu rồi nó xúi chúng ta nói làm bậy bạ, lúc đó ý chí nhu nhược, trí tuệ lu mờ, nó bảo điều chi là nghe theo làm theo, không cưỡng lại được. Ðó là cái lầm của người tu không biết rõ những chứng thiền bệnh. Trong nhà Thiền có câu "Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma" (Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma). Nói nghe như vô lễ tàn nhẫn lắm, nhưng đó là điều tất yếu phải làm để trong khi tu chúng ta tránh được sự lầm lẫn tai hại. Nên nhớ ai tu mà ham Phật, Bồ-tát đến xoa đầu thọ ký thì người đó dễ bị điên cuồng.

rốt ráo tột cùng, cực tắc tuyệt diệu thì Pháp thân vốn rỗng lặng, tròn đồng thái hư, không đi không đến, không nơi không chốn, tùy cơ mà cảm đến, ứng hiện tự tại, nên gượng gọi là Như Lai.

Ðoạn này Ngài nói thêm để chúng ta hiểu rõ cái lý tột cùng không đến không đi của Pháp thân và danh từ Như Lai cũng gượng gọi chớ không có thật.

Chánh giác không nơi đến,
Ði cũng không chỗ nào.
Thân thanh tịnh diệu sắc,
Do thần lực hiển hiện.
Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới,
Rõ ràng trước mắt quần sanh loại.
Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi,
Tự do ứng hiện đều vô ngại.
Âm :
Chánh giác vô lai xứ,
Khứ diệc vô sở tùng.
Thanh tịnh diệu sắc thân,
Thần lực cố hiển hiện.
Phật thân không tịch biến pháp giới,
Ðường đường đối nhãn quần sanh loại.
Tùy cơ phó cảm mỵ bất chu,
Tự như ứng hiện lực vô ngại.
Ðến đây Ngài nói thêm bài kệ để chúng tanghĩa lý không đến đi của Pháp thân. Chánh giác không nơi đến, đi cũng không chỗ nào. Thân thanh tịnh diệu sắc, do thần lực hiển hiện. Chánh giác là chỉ cho Pháp thân không đến đi, không có nơi chốn và cái thân đẹp đẽba mươi hai tướng tốt của Phật cũng do thần lực hiển hiện.

Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới, rõ ràng trước mắt quần sanh loại. Pháp thân Phật rỗng lặng trùm khắp pháp giới, luôn luôn hiện ở trước mắt chúng ta. Như vậy thân có ba mươi hai tướng tốt của Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ là Ứng thân hay Hóa Thân, còn Pháp thân Phật ai cũng sẵn có, nó rỗng lặng trùm khắp pháp giới và ở ngay trước mắt chúng ta, không hề xa cách.

Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi, tự do ứng hiện đều vô ngại. Nghĩa là Pháp thân không có tướng mạo, nhưng tùy duyên mà có cảm ứng. Tùy duyên cảm ứng như thế nào ? Giả sử chúng ta tu thể nhập được Pháp thân thanh tịnh, nhưng không phải an trú mãi trong Pháp thân thanh tịnh, mà tùy chúng sanh nào có duyên với chúng ta sanh nơi nào thì chúng ta đến đó để độ họ. Như chúng tôi thường nói, lâu nay Phật tử ủng hộ tịnh tài tịnh vật để chúng tôi cất chùa và lo cho Tăng Ni tu học, Phật tử làm việc ấy với tâm nguyện mong rằng đời đời được gặp chánh pháp, gặp quí Thầy giáo hóa cho tu học, vì hiện tại Phật tửcư sĩ gia duyên ràng buộc nên tu không được bao nhiêu. Tâm nguyện như thế là Phật tử đã muốn gieo duyên sâu với Tam bảo, nhưng nếu chúng tôi tu giác ngộ thể nhập Pháp thân thanh tịnh, cảm thấy an lạc thảnh thơi quá, không trở lại thế gian giáo hóa những người có duyên với mình. Như vậy, nếu nói theo thế gian thì chúng tôi không muốn trả nợ, mặc tình Phật tử muốn tu như thế nào thì tu, mình không để ý tới, đó là vô trách nhiệm. Cho nên người tu tự giác rồi phải giác tha, không nên ích kỷ, tu liễu ngộ rồi không hưởng an lạc một mình, phải tùy duyên ứng hiện độ chúng sanh có duyên với mình, đó cũng là một hình thức trả nợ cơm áo cho Phật tử. Hơn nữa, khi tu đã giác ngộ, dù chúng taứng thân độ chúng sanh chúng ta vẫn tỉnh chớ không mê, do tỉnh cho nên thấy việc ứng thân để độ chúng sanhhư dối, không thật. Vì chúng sanh mê nên thọ thân giả dối cho là thật, còn người tỉnh đi vào trong cảnh giả biết là giả, mang thân giả làm việc lợi ích cho chúng sanh, dù có gặp cảnh thuận nghịch vui buồn cũng biết là giả dối, không động tâm, đó mới là tùy duyên cảm ứng. Nếu gặp cảnh thuận thì vui, gặp cảnh nghịch thì buồn khổ thở than, đó là theo nghiệp chiêu cảm.

Tùy duyên cảm ứng thì gặp cảnh thuận nghịch gì cũng vui, vì nó không thật, không thật cho nên không lo buồn sợ hãi. Do đó các Bồ-tát đi khắp thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh mà vẫn luôn ở trong Niết-bàn tự tại, vì đâu có gì bận tâm. Hạnh của Bồ-tát là như vậy, không hẳn Bồ-tát là phải có thần thông, có quyền lực phi thường, mà Bồ-tát vẫn ở tại thế gian và sinh hoạt như mọi người. Tuy nhiên, người thế gian gặp cảnh khổ thì than khóc, Bồ-tát gặp cảnh khổ thì cười. Người thế gian gặp duyên tốt họ hãnh diện cho là vinh dự rồi sanh ngạo mạn, Bồ-tát gặp duyên tốt duyên xấu gì cũng thế thôi. Bồ-tát thật thì hành động như vậy, còn khác đi là thứ giả, dù có xưng là Bồ-tát cũng chỉ là giả mà thôi. Cho nên trên đường tu nếu chúng ta khéo ứng dụng thực hành thì đâu đâu cũng là Bồ-đề là Niết-bàn, nếu không khéo thì đâu đâu cũng là cõi khổ đau.

Kinh nói: "Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có ra vào, sức bổn nguyện đại bi thị hiện như hoa trong không".

Ðoạn này giải thích về Pháp thân thanh tịnh của Phật không ra không vào, nhưng vì do sức bổn nguyện đại bi mà có ra có vào, sự ra vào đó giống như hoa đốm trong hư không. Thường chúng ta chỉ biết Phật là Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ, có lịch sử, sanh ra trong cung vua Tịnh Phạn và nhập Niết-bàn ở rừng Sa-la, Phật đó là Phật Hóa thân, hay Báo thân có sanh có diệt. Phật Pháp thân thì không sanh không diệt, tại sao Phật Hóa thân lại có sanh diệt ? Như Phật Thích Ca khi còn làm Thái tử phát tâm đi tu nguyện giải thoát sanh tử cho mình và cho tất cả chúng sanh. Giải thoát sanh tử là nhập Niết-bàn, mà nhập Niết-bàn tức là tử. Như vậy nói thành Phật giải thoát sanh tử tại sao đến tám mươi tuổi Ngài vẫn tử như mọi người. Ðoạn này ngài Chân Nguyên giải thích Phật có ba thân: thân có sanh có tử là Hoá thân hay Báo thân, thân không sanh tửPháp thân. Khi chứng quả Phật các Ngài sống với Pháp thân không sanh tử, còn thân tứ đại hiện có hình tướngHóa thân, thân này có sanh thì phải có tử. Vì nó là Hóa thân nên dụ như hoa đốm trong hư không, chợt hiện chợt mất không thật. Còn Pháp thân thì như hư không thênh thang không sanh diệt. Vì vậy mà nói Phật chứng được Pháp thân thì không còn sanh tử. Chúng ta tu giả sử kiếp này ngộ được Pháp thân, song thân tứ đại của chúng ta một ngày nào đó hết duyên nó cũng tan hoại. Nhưng có nhiều người quan niệm rằng không tu khi già cũng chết, cố gắng tu hành khổ cực tới già cũng chết, như vậy đâu có ai hơn ai. Ðó là lý lẽ mà người không muốn tu nêu lên để bào chữa. Phải thấy rõ người tu và không tu có khác, người tu biết thân này giả tạm, nhận ra nơi mình có Pháp thân chân thật không sanh tử thì thân giả tạm có hư hoại cũng không buồn không tiếc. Còn người thế gian không biết tu, thấy thân giả tạm này là thật cho nên khi thân này hoại tìm thân khác, theo nghiệp đi mãi trong luân hồi thọ quả báo. Ðó là chỗ khác nhau của người tu và không tu. Chúng ta phải hiểu cho thấu đáo để khỏi lầm lẫn như ở trên.

Bởi thị hiện có ra vào là ở cơ duyên, cơ duyên ứng thì hiện ra trong cung vua Tịnh Phạn, cơ duyên hết thì ở dưới gốc Sa-la(1) vào Niết-bàn.

Hóa thân thì ứng theo duyên mà thị hiện, sở dĩ Thái tử sanh vào cung vua là vì nơi đó có duyên với Ngài, thị hiện tu hành, thành đạo giáo hóa chúng sanh, cơ duyên viên mãn thị hiện vào Niết-bàn. Ứng theo duyên mà Hóa thân thị hiện chớ không phải Pháp thân. Ðoạn kế là ví dụ:

Do vì nước trong sạch vô tâm mà không hình tượng nào chẳng hiện. Hình tượng chẳng phải là ta vốn có, đây là hoa đốm trong không thuộc vật bên ngoài. Tướng chẳng phải là thân Phật, há Như Lai có ra vào ?

Ðoạn này nói do nước trong cho nên hình tượng hiện. Ví dụ như có một hồ nước thật trong, mọi vậthình tướng như núi rừng, cây cối, mặt trăng v.v... đều hiện bóng dưới hồ. Như vậy trong hồ thật có những thứ đó hay không ? Chỉ do hồ nước trong nên các thứ đó mới hiện. Cũng vậy nếu hồ tâm của chúng ta trong lặng thì tất cả hình tượng đều hiện rõ ràng. Hình tượng không phải là cái sẵn có mà nó là cái bóng hư ảo giả tạm, giống như hoa đốm trong hư không, nó là cái ở bên ngoài, hồ tâm mới thật là ta. Nếu hồ tâm chúng ta không trong lặng thì bao nhiêu nghiệp chướng lôi dẫn chúng ta lăn lộn trong sanh tử. Nếu hồ tâm trong lặng thì mọi hình tượng hiện trong đó chỉ là tướng huyễn hóa không thật, không làm xao động cái hồ. Tất cả tướng không phải là Pháp thân Phật, mà Pháp thân PhậtNhư Lai thì không có ra vào, vì Như Lai không hình tướng. Như vậy chúng ta tu thành Phật rồi chúng ta có chết không ? Nếu không chết thì hơn đức Phật rồi. Chúng ta cũng chết nhưng chết thân tứ đại hư dối, còn Pháp thân thanh tịnh bất sanh bất diệt thì đâu có mất. Vì Pháp thân không hình tướng nên không sanh diệt, sắc thânhình tướng có sanh ắt phải diệt. Vậy mục đích của người tu là hướng về Pháp thân hay hướng về sắc thân ? - Hầu hết chúng ta đều muốn sống với Pháp thân bất sanh bất diệt. Như vậy đối với Pháp thân thì sắc thân quí chừng bao nhiêu phần trăm ? Pháp thân bất sanh bất diệt nó không có tuổi, còn sắc thân tứ đại sống chỉ mấy mươi tuổi thì tan hoại, nó tạm bợ nên không phải là cái thân quí. Chúng ta không nên vì nó mà tạo nghiệp, rồi theo nghiệp chịu khổ liên miên trong sanh tử luân hồi. Cho nên người hiểu đạo nhận ra Pháp thân, đây gọi là Kiến tánh, thì những người này đối với thân tứ đại không cho là quí trọng, không còn cưng yêu nó nữa, mà thấy nó là phương tiện để tu và làm lợi ích cho chúng sanh. Thấy như vậy là thấy đạo. Nếu thấy thân là quí trọng, muốn cho nó mặc đẹp ăn sang, thụ hưởng tất cả mọi thứ tiện nghi sung sướng hiện có trên thế gian này là người không hiểu đạo. Như vậy người hiểu đạo và không hiểu đạo khác nhau ở chỗ đó. Hiểu đạo thì quay về sống với Pháp thân, thấy sắc thân chỉ là phương tiện tạm bợ để tu và làm lợi ích cho chúng sanh, không hiểu đạo thì cưng dưỡng sắc thân mà quên Pháp thân.

Ðó gọi là thân Phật vô vi, đầy khắp cả pháp giới, thanh tịnh tròn sáng, trong lặng thường trụ. Chân Phật thì vô tướng, vốn không có lý Niết-bàn. Quyền Phật thì giả hiện, huyễn có việc ứng hóa.

Ðó gọi là thân Phật vô vi. Vô vi là không có tướng sanh diệt. Thân Phật vô viPháp thân Phật không có tướng sanh diệt. Ðầy khắp cả pháp giới, thanh tịnh tròn sáng, trong lặng thường trụ. Pháp thân Phật của mỗi người thanh tịnh tròn sáng trong lặng trùm cả pháp giới không sanh không diệt nên thường trụ. Chân Phật thì vô tướng, vốn không có lý Niết-bàn. Phật thật thì không có tướng, cho nên không có cái lý nhập Niết-bàn. Nhập Niết-bàn không phải là Phật thật. Nói như thế, có thể quí vị hiểu thân mình là tướng có thật, cân nặng năm sáu chục ký, đi lại, nói năng, làm việc đủ thứ, như vậy là thật. Còn nói Pháp thân không hình tướng thì đâu có cái gì ? Không hình tướng thì như hư không, vậy tại sao coi thường thân thật có hình tướng đi đứng hoạt động mà quí trọng Pháp thân không hình tướng rỗng không ? Chỗ này có rất nhiều người hiểu lầm. Nghe nói Pháp thân Phật vô vi vô tướng... tưởng nó rỗng không như hư không, nếu như hư không thì vô tri không có giá trị. Tôi xin hỏi quí vị nơi chúng ta mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, nếu đứng về mặt thấy, biết, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, cái biết đó có hình tướng không ? Cái biết nghe không phải lỗ tai, cái biết sắc không phải con mắt v.v... Cái biết đó không hình tướng mà nó chỉ huy toàn thân này, vì nếu không có nó thì thân này không hoạt động được. Hiểu kỹ chỗ này rồi chúng ta mới thấy rằng Pháp thân không hình tướng không phải là rỗng không vô nghĩa, mà nó có diệu dụng vô cùng. Hiểu rồi chúng ta mới thấy giá trị chân thật của sự tu hành là hướng đến Pháp thân bất sanh bất diệt. Chúng tôi tạm mượn những hình tướng thế gian để quí vị thấy giá trị mạnh yếu của sự vật, để sáng tỏ giá trị thật của sắc thânPháp thân. Chúng ta thường thấy đất, đá, sỏi... những thứ đó thì cứng, còn nước thì mềm nhưng nước xoi mòn được đất, đá, sỏi... Như vậy, nước tuy mềm nhưng nó mạnh hơn đất đá. Nước có tướng chúng ta sờ mó và vốc nước thành bụm được, mà nó xoi mòn được đất đá cứng hơn nó. Còn gió thì sao ? Gió không có tướng mạo, nhưng gió thổi thì nước dâng lên, đất rung rinh bốc bụi. Như vậy thì gió mạnh hơn nước. Chúng ta xét kỹ những sự vật có hình tướng thô chừng nào thì yếu chừng nấy, những cái tế lại mạnh hơn. Như hiện giờ có những loại bom nổ một tiếng làm rung rinh cả trời đất, nó do những hạt nguyên tử rất nhỏ hợp thành. Nếu chúng ta đem đất đá dồn lại bằng quả bom nguyên tử thì tiếng nổ không bằng và gây tác hại cũng không bằng quả bom nguyên tử. Như vậy mới thấy những vật vi tế chừng nào nó lại có năng lực mạnh chừng nấy. Cũng vậy,tâm chúng ta vô vi không hình tướng, nhưng nó lại là cái chân thật điều khiển cả con người chúng ta, thế mà chúng ta lại quên, chỉ lo chạy theo những hình tướng giả dối cho là thật và khi nó bại hoại thì đau khổ. Thử hỏi mọi người chúng ta buồn khổ khi thân này sắp tan hoại, hay buồn khổ khi chúng ta quên thân quay về sống với tâm thể chân thật ? Có lúc nào chúng ta tự than trách: Sao mấy hôm rồi tôi cứ để tâm chạy đông chạy tây, hay chỉ than: thân này đau đủ thứ chẳng biết có qua khỏi không ? Cái tâm chân thật là quí mà bị bỏ quên để chạy theo những thứ giả dối bên ngoài, lý đáng phải buồn nhiều lắm! Cái thân hư dối tạm bợ mất đi lý đáng phải vui mừng. Giống như người giàu, có hột xoàn, có vàng bị mất cắp thì buồn, ngược lại có vài ba cục sỏi, cục đất bị mất thì đâu có buồn tiếc. Nói như thế để thấy chúng ta mê muội chỉ biết quí cái thân hư giả tạm bợ, mà xem thường cái tâm chân thật quí báu của mình, do đó mà bị trầm luân sanh tử. Vì vậy ngài Chân Nguyên nhắc chúng ta không nên lo lắng sự tan hoại của sắc thân, mà quên mất Pháp thân chân thật sẵn có nơi mình. Ngài cố giải thích cho chúng ta nhận ra rằng Pháp thân chân thật vốn thường trụ rỗng lặng, không dấu vết, mà diệu dụng vô cùng. Chúng ta không nên lo lắng cho cái thân này quá lắm, mà hãy khéo trở về sống với Pháp thân chân thật của mình. Muốn thế, hồ tâm chúng ta phải lóng lặng hết những bợn nhơ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... chúng ta mới sống được với Pháp thân chân thật của mình. Vậy, chúng ta có chịu gạn lọc những bợn nhơ đó bỏ đi, hay để dành rồi chịu nhơ chịu khổ suốt kiếp ? Chúng ta phải dùng trí tuệ quán xét coi cái nào là bợn nhơ của tâm thì loại bỏ, để hồ tâm chúng ta được trong sạch, hồ tâm trong sạch thì Pháp thân hiện tiền. Như vậy chúng tacan đảm tự hứa với lòng là học Phật pháp trong vòng một năm sẽ lọc bỏ hết những bợn nhơ tham sân si... không ? - Dạ không dám hứa. Tại sao biết những thứ đó là dở là tai hại mà không dám hứa bỏ ? Ðó là một điều khó khăn mà người tu Phật thường vấp phải. Chúng ta học Phật pháp thật nhiều mà lâu lâu tập khí phàm phu cũng hiện ra là tại sao? Tại hiểu mà không hành, hoặc hành mà không chuyên. Cho nên trong nhà Thiền có câu "Hạnh giải tương ưng danh vi viết Tổ" nghĩa là hiểu và hành giống nhau thì gọi là Tổ. Còn chúng ta hiểu và hành không giống nhau nên gọi là phàm phu. Nên nhớ tu không phải là chuyện huyền hoặc trên trời trên mây, mà là chuyện thực tế nơi mình, chỉ chịu khó lọc bỏ bợn nhơ nơi tâm thì Pháp thân hiện tiền, cũng như hồ nước trong thì bóng trăng hiện. Tất cả kiểm lại xem trong tâm chúng ta có những niệm tham sân si... không ? Chúng ta có quyền đuổi nó ra hay không? - Có đủ thẩm quyền đuổi nó ra tại sao không đuổi? Ðiều đó thật là khó hiểu ! Chúng ta biết mình có những điều dở, mình bỏ những điều dở đó thì ai cũng khen, thế mà không chịu bỏ, thật là mâu thuẫn, thật là lạ lùng ! Chúng ta thường có cái bệnh nói một đàng làm một nẻo, lạy Phật thì xin cho con đời này hết phiền não, nhưng biết tham sân siphiền não, là độc hại mà không chịu bỏ! Chủ yếu của việc tu hành là phải sáng suốt gan dạ và dứt khoát, nếu không thì tu cả đời vẫn y nguyên chẳng tiến bộ gì cả.

*


(1) Bản chữ Hán là Bồ-đề thọ.
III- KỆ KIẾN TÁNH (Ðoạn3)

VI-

Ðạt-ma Tây đến một chữ không,
Toàn y tâm địa để dụng công.

Chín năm ngó vách không lời nói,

Một sớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm :

Ðạt-ma Tây lai nhất tự vô, 
Toàn bằng tâm địa dụng công phu.
Cửu niên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhất đán truyền tâm Huệ Khả sư.
Ðạt-ma Tây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công.Chín năm ngó vách không lời nói, mộtsớm truyền tâm Huệ Khả thông. Tổ Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa không truyền dạy một chữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môn tâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phật thường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất. Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặt đất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơi đất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điều thấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từ tâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ. Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách không nói một lời, một hôm ngài Thần Quang tìm tới cầu chỉ dạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổi tên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trước khi gặp Tổ đã dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ. Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Ðộ sang ở tại chùa Thiếu Lâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổ vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngài tự nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấy nhằm tiết Ðông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Tổ ? Ðến sáng tuyết ngập đến đầu gối mà gương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương tình, xoay ra hỏi: - Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì ?

Ngài Thần Quang thưa:

- Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổ quở:

 - Diệu đạo vô thượng của chưPhật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn, còn không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc này mà cầu được sao ?

Thần Quang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen:

- Chư Phật xưa vì pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánh tay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổ nhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câu chuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưa kiểm chứng được. Nhưng hình ảnh đứng trong tuyết lạnh thấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gương sáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầu đạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câu cuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổ vị này.

VII-

Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyền nhau bốn mắt đã phân rành.
Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soi khắp đất trời độ hữu tình.
Âm :
Nhất điểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tương truyền tứ mục thái phân minh.
Liên phương tục diệm quang vô tận,
Phổ chiếu càn khôn độ hữu tình.
Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đã phân rành.một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh.Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi, soi khắp đất trời độ hữu tình.VIII- Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nên khi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Ðạt-ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượng trưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Ðèn tâm, đuốc trí tuệ cho nên câu đầu nói Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm, đuốc tuệ chớ không riêng gì ngài Huệ Khả. Ðèn tâm đuốc tuệ được truyền bằng bốn mắt nhìn nhau. Khi xưa, ở hội Linh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nhìn khắp đại chúng, nhìn tới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, liền được truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi "Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao ?". Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Ngài, Ngài nhìn lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. Còn bây giờ thầy trò nhìn nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ? Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy, tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng. Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cái ngộ của mình tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọi là nối hương tiếp lửa. Bởi vì đạo đức ví như mùi hương, mùi hươngđạođức không bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nói mùi hương của thế gian thì theo gió thổi đi, còn mùi hương của đạo đức thì gió hướng nào cũng không ngại hết, mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cả muôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngại gió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửa là mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng mãi ở cõi nhân gian. Vì đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và ví ánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặt trời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộ thì thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ thì thế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu là phải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèn trí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cõi thế gian nhiều tăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độ chúng hữu tình.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm,
Kho báu nhà mình chớ chạy tầm.

Có ai thử hỏi đâu là Phật ?
Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Âm :
Chân Phật chân kinh tổng tại tâm,
Tự gia bảo tạng mạc tha tầm.

Hữu nhân thí vấn Phật hà tại,
Ứng đối đương thời tại nhãn âm.
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà mình chớ chạy tầm.Có ai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời). Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu của mình đừng chạy ra ngoài để tìm kiếm. Chúng tathói quen hễ nói đến Phật thì nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nói đến kinh thì chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lời Phật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh để trong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyên nói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nhìn Phật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của mình, ông Phật của mình thì giác và linh động nói năng đi lại là Phật thật. Còn Phật tượng thì ngồi im lìm không nói năng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằm trong tủ thì ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạy ấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bản tâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. Kinh Viên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phật dạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúng ta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm thì chưa phải là chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. Vì Phật là giác, mà giác là tâm mình giác, Phật tượng vô tri không giác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằng giấy mực văn tự không tri giác, nên không phải là chân kinh. Chân Phật chân kinh, kho báu gốc từ tâm mình mà ra chớ không phải ở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật, thì ngay nơi tâm mình là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ. Quay lại kho báu nhà mình thì có đầy đủ tất cả chớ chạy tìm ở đâu cho nhọc. Nếu hỏi đâu là Phật thì đáp: Lời hỏi mắt nhìn, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đến chỗ Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:

- Ông đi đâu ?

Sư thưa:

- Con đến cầu Phật pháp.

Tổ bảo:

- Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì ?

Sư thưa:

- Thế nào là kho báu nhà mình ?

Tổ bảo:

- Chính khi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Cái thưa hỏi là kho báu, vì lời nói phát xuất từ tâm, nên mới phát ra âm thanh, phát ra cái nhìn đều từ tâm Phật, nhưng tại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi vì từ thuở bé cho đến lớn chúng tathói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghe tiếng thì phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ý cũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt, phân biệt rành rẽ thì gọi là người khôn. Ví dụ hôm nay Phật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phật tử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngon không ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon thì họ vui, còn nói tôi ăn chỉ biết ăn thì họ buồn. Bởi vì họ cố tình nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mà nói ăn chỉ biết ăn thì họ buồn, nếu nói ngon thì họ rất là hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngon nhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạtthế gian đều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, mà phân biệt thì đã rơi vào tình thức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.Nếu tâm giác ngộ thì thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà không có tình thức phân biệt xen vào, điều này nói nghe thì dễ nhưng rất khó làm. Vì, môi trường gia đình xã hội luôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạy theo thức tình phân biệt. Do đó, ông Phật của chính mình ẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũng rất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngay nơi bốn mắt nhìn..., nếu mê chạy theo tình thức phân biệt hay dở, khen chê tốt xấu thì không bao giờ nhận ra kho báu của chính mình. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúng ta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm mình, đó là kho báu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xa lạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghe của chính mình, đừng nên chạy đi đâu tìm kiếm nhọc nhằn.

IX-

Chân kinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất,
Một chữ vô sanh thẳng thừa đương.
Âm :
Chân kinh bất dịch bổn như thường,
Vị tằng khai khẩu hiển đường đường.
Bất khả nghĩ trì sai thác quá,
Vô sanh nhất cú trực thừa đương.
Chân kinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳng thừa đương.X- Chân kinh là chỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề thay đổi. Nó đã có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mới có kinh, mà kinh đã hiện đầy đủ không có ẩn giấu chút nào cả. Cho nên nói "chưa từng mở miệng hiện tỏ tường". Vừa khởi nghĩ tìm chân kinh, thì lầm qua mất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằng tri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngay nơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sống với tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏi hiệu gì, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền... Thấy không nhớ mình có cái hay thấy, mà khởi lên nhiều niệm là sanh chớ không còn vô sanh. Ví dụ có người đi từ trên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có người kêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh được không ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanh những cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứ dữ dằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyện đơn giản dễ làm. Ngồi một mìnhmột mình khả dĩ giữ được, còn khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi vì gặp cảnh thì niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng được, cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệt chi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốc của sự tu.
Không văn không chữ đấy chân kinh,
Một quyển trường không quá phân minh.
Miệng nói còn xa ba ngàn dặm,
Tai nghe thêm tiến chục vạn trình.
Âm :
Vô văntự thị chân kinh,
Trường không nhất quyển thái phân minh.
Khẩu tuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩ thính tăng dao thập vạn trình.
Không văn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quá phân minh.Miệng nói còn xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn trình.XI- Chân kinh thì không có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưng quyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không. Kinh này vì không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói thì xa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe thì càng xa hơn đến mười vạn trình, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùng ngôn ngữ để diễn đạt chân kinh, không dùng tai nghe để nghe chân kinh mà chỉ có tâm vô sanhhiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ý bốn câu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nó trùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được, dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh là đầy đủ chân kinh.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng,
Tịch quang tròn lặng suốt hư không.
Thật tế nhất như gồm mọi lý,
Tạm bày muôn pháp độ quần mông.
Âm :
Chân Phật chân kinh bổn nhất đồng,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.

Thật tế nhất như bao chúng lý,
Quyền khai vạn pháp độ quần mông.
Chân Phật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tròn lặng suốt hư không.Thật tế nhất như gồm mọi lý, tạm bày muôn pháp độ quần mông.

XII-
Phật thật kinh thật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyên suốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tên mà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trong sáng trùm khắp cả hư không chớ không có gì lạ. Bờ mé chân thật thì nhất như không lý lẽ, nhưng bao trùm mọi lý lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ người mê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp". Nghĩa là chỗ chân thật thì không dính một mảy bụi, mà trong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) thì không xả bỏ một pháp nào. Ðể thấy rằng mọi phương tiện đều y cứ nơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là vì kẻ mê muội giáo hóa cho họ thức tỉnh.
Lý mầu Phật pháp không văn tự,
huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộng tiếp người sau thông một tuyến,
Thượng căn mắt thấy đạo tâm còn.
Âm :
Phật pháp diệu lý vô văn tự,
Tổ đạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằng tiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượng căn mục kích đạo tâm tồn.
Lý mầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn. Lý nhiệm mầu của Phật pháp thì không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ thì chẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lý nhiệm mầu của Phật pháp chỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích, và cơ huyền đạo của chư Tổ thì không dùng ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngài thường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạo nhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ để chỉ thì ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắc kẹt vào phân biệt đối đãi. Sau đây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiền sư. Có người tới hỏi Thiền sư Ðả Ðịa: Thế nào là Phật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Ðó là ngôn ngữ gì ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào là đại ý Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Ðó là ngôn ngữ gì ? Những cơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéo nhận thì nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéo nhận thì khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộng tiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạo tâm còn. Vì rộng độ người sau nên lập bày phương tiện, người thượng căn nếu nhận được cái chân thật thì tâm đạo của họ còn mãi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệ này ý nói, lý mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phương tiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùngngữ ngôn, nhưng vì độ người sau cho nên tạm lập bày phương tiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cái chân thật thì đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-

Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõ ràng tự tánh tức Như Lai.
Kẻ kẻ viên thành đồng chứng Phật,
Người người đầy đủ chẳng cầu ai.
Âm :
Bát-nhã tâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễu minh tự tánh tức Như Lai.
Cá cá viên thành đồng chứng Phật,
Nhân nhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ, rõ ràng tự tánh tức Như Lai.Kẻ kẻ viên thành đồngchứngPhật, người người đầy đủ chẳng cầu ai.

XIV-
Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳng lý Bát-nhã tột cùng, hỏi ai lãnh ngộ chỗ không có người không có pháp. Thì rõ ràng tự tánh mình tức là Phật, tức là Như Lai, tức là Bát-nhã. Nếu nhận được tự tánh của mình là Phật thì ai ai cũng thành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phật thì không còn cầu xin, không còn trông cậy vào người khác. Ý bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhã thì biết rõ tự tánh mình là Phật và tất cả mọi người đều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phật nên không cầu xin ai cả.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Một tông vô trụ tâm ấn Phật,
Muôn pháp hữu vi bọt nước xao.
Âm :
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện hải,
Phật Tổ cơ duyên giáo võng bao.
Vô trụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữu vi vạn pháp thủy phù bào.
Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.Một tâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháp hữu vi bọt nước xao.XV- Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hết Lục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạy của Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả. Còn cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáo bao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng ta thấy Ðại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển, nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng. Còn Lục của chư Tổ thì Thiền tạng gom lại có một trăm lẻ một quyển. Phương tiện thì nhiều. Nhưng: Chỉ một tâm vô trụ đó là tâm ấn của chư Phật, còn các pháp hữu vi sanh diệt ví như bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tóm lại ý bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá của Phật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa của Phật Tổ là lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiện tuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ, tâm vô trụtâm ấn của chư Phật. Người ngộ được tâm ấn của chư Phật thì thấy các pháp hữu vi chỉ là vô thường tạm bợ như hòn bọt ngoài biển cả.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Hai người bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồn linh nước pháp sa giới chảy,
Ðuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.
Âm :
Tam thế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhị nhân tứ mục nhãn tương giao.
Linh nguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệ chúc quang thông sát hải dao.
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đối nhìn nhau.Nguồn linh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.Cho nên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma, mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người. Chúng sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mình chẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. Ba đời chư Phật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nhìn nhau. Nếu bốn mắt nhìn nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo thì: Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằng sa cõi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hết tất cả chỗ. Ý bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyền diệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nhìn nhau mà ngộ được thì nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả cõi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộ ở chỗ bốn mắt nhìn nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ, ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nhìn nhau là cái gốc nhận ra tâm mình là Phật. Sau đó truyền bá mãi không cùng tận.

Sau đây là dẫn lời ngài Ðại Huệ, một Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép,Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người.Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma.Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ. nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm căn bản. Bởi vì chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn có của mình thì chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làm khuôn phép. Người chỉ tin ngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lãnh ngộ như những người căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh của mình. Người nhận được bản tánh thì đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn được làm người. Người tin mình có tự tánh thì đời sau không sanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quân ma. Người tin mình có tự tánh đã sẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên còn bé (đồng tử) đã theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức là nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu. Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Như chúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ mà ngộ, thì một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Như vậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt, cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công án mà ngộ thì giải được tất cả các công án.

Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật, tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người.Chúngsanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy.Nếu tự mình chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay chẳng thể thành Phật ?phải biết tự tu tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này, hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. NgàiChân Nguyên nói: Giả sử ngườitham học như trên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuy tu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vịcõi trời cõi người. Chúng ta tu là phải tự độ mình, chớ Phật không thể độ được. Ở đây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại. Nếu mình chẳng thật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phật đến cứu độ thì không bao giờ có Phật đến cứu. Nếu tu mà cứ mong Phật tới cứu độ thì ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vô số sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tế thì chúng sanh còn nhiều mê lầm, vậy thì trông cậy Phật độ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ý không ? Chắc chắn là không. Cho nên Ngài nhắc chúng ta phải tự tu tự độ chớ Phật không thể độ mình được. Tuy nhiên phân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúng ta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ? Ví dụ đứa học trò đến trường học, nó học được là nhờ thầy dạy, nếu nó không học thì không thuộc bài. Như vậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộc bài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phân nửa của nó mà làm thành cho đứa học trò. Cũng vậy đức Phật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồi phải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phân nửa của chúng ta thì mới viên mãn sự tu hành, chớ không phải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiết lạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạy của Ngài, ứng dụng tu thì mới được thành tựu viên mãn. Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lý này để nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học trò ỷ lại vào ông thầy thì người học trò đó sẽ hư. Cũng vậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu thì sẽ không đạt kết quả.

Xưa đức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê, phước làm sao cứu? Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khó sanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô�i nước trèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưa đức Phật Bổn sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy.Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác.Nên biết người có trí phải lậpchí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích.Thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau, người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành thì mong khiến cho chóng thành. Ðây là dẫn lời Phật dạy trong kinh Di Giáo. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Vậy Phật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Ðộ, mà là Phật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng ta xưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tròn sáng, như như không động, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca còn tại thế cũng như vậy chớ không có lý nào khác. Ngài dạy rằng người có trí tuệ thì khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ song tu, phải chứng ngộ chân như của chính mình. Mỗi niệm mỗi niệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phương tiện thiện xảo để làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ. Ngài dạy rằng muốn làm lợi ích cho người sau, thì phải nói pháp nhiệm mầu của kinh Bát-nhã cho họ hiểu. Người chưa ngộ thì giúp cho họ tỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thành tựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên, trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phu tu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phu tu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, thì e rằng không có kết quả. Ðó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếu không hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt tình quá, muốn làm cho người ngộ mà chính mình chưa ngộ, dù có làm thế mấy cũng không tới đâu.

Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương.Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu. Ngài dẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống như ngọn đèn sáng để ở trong căn phòng, tuy có ánh sáng nhưng chỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. Còn pháp thí tức là đem Phật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, thì lợi ích rất nhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Ví dụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, thì chỉ giúp được một vài gia đình qua cơn thiếu thốn, vậy chỉ cứu được cái khổ tạm thời. Còn nếu chúng ta thâm nhập Phật pháp thì một buổi giảng, một hai ngàn người nghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họ nghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài thì chúng ta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí pháp Phật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mười phương. Bố thí tiền củagiới hạn nên ví như ngọn đèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rõ như thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đem ra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mới là việc quan trọng. Còn chúng ta làm ra tiền để giúp đỡ người nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi vì sức người có chừng mực, tiền củagiới hạn, biết bao nhiêu tiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùng không giới hạn. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánh Phật của mình thì dù có làm việc phước thiện bao nhiêu đi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu mình thì trước hết phảinhận ra tự tánh. Ví dụ như có người còn rất nhiều tham sân si, phiền não đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bố thí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thí là có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ, vì họ chưa nhận ra tánh giác của chính mình. Cho nên người tu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xem thường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phước là đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổ người kia, mà quên cứu mình, chuyện giác ngộ đối với họ rất là xa xôi.

Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hội ngộ. Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứ nhất. Cho nên Phật tử đã được thân người, sáu căn đầy đủ, mà gặp chuyện buồn khổ đòi tự tử là không hiểu đạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà còn bị người ta chê cười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tử gặp chuyện buồn tự tử còn bị người đời chê ngu, không xứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuất gia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đòi tự tử có thể tha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thân này khó được, nương thân giả tạm để tu hành như người nương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đòi phá bè là chuyện làm của kẻ ngu. Người tu mà đòi tự tử là ý phạm giới sát, mình tự sát mình đáng ăn đòn không biết bao nhiêu gậy. Chúng ta tu nếu chưa được an lạc thì phải khéo léo chuyển hóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân người rất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoại thân là người đáng chêtráchnhất. Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cái khó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốn gặp Phật pháp, thì đến các nhà phát hành kinh sách thỉnh bao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rất nhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừng hiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật, mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụng tu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, còn xem kinh bằng mắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phật lên xem thì buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảng thì ngủ gục, còn xem truyện, xem tiểu thuyết thì quên ăn bỏ ngủ, xem truyền hình suốt ngày, nhất là xem phim chưởng đấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy với người không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng là chuyện khó, huống là nhận hiểu Phật pháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cái khó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Ðiều này dĩ nhiên, nhất là ở thời kỳ mạtpháp, phàm Tăng thì dễ kiếm, chớ Thánh tăng thì rất khó gặp.

Cái khó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói "Thuốc đắng đã tật lời thật trái tai". Chánh pháppháp chân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người và sự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy là người có phước tướng, thông minh... nói như vậy rất là dễ nghe và cảm thấy vui trong lòng. Nếu họ nói thầy là cái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậy kín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật mà người nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghe là khó ở chỗ đó. Vì chánh pháp luôn nói lên sự thậtmọi người muốn che đậy.

Cái khó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sử tôi nói tụng kinh chừng bảy biến thì được phước nhiều, đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hãy tin tâm mình là Phật, đó là điều khó tin. Bởi vì có nhiều người khi nghe nói tâm mình là Phật thì lắc đầu từ chối con không dám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ở cõi nhơn thiên thôi. Tin tâm mình là Phật ít người dám tin cho nên nói lòng tin khó phát sanh.

Cái khó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lành khó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào là bạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện, nếu có một sư huynh thấy một sư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lý do sư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lần nào cũng trả lờilý do. Sư huynh biết sư đệ này đang mang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành gì mà lười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm, phải nỗ lực vượt qua chớ ! Nghenhưthếsư đệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có một sư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, thì lấy dầu xoa, nghe than buồn ngủ thì bảo đi ngủ, nghe nói đau chân thì bảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầy quở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạn lành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chục vị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai thì sư đệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậy người khó khăn rầy rà để thúc đẩy mình tiến lên đó là bạn lành. Người dễ dãi chìu chuộng theo cái sở thích của mình, làm cho mình tu không tiến đó là bạn chẳng lành. Tổ Qui Sơn có dạy "Gần gũi bạn lành như đi trong sương móc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận. Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tội lỗi, quả báo ngay trước mắt". Song theo thường tình thì bạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Ðó là chuyện trong chùa. Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử nam đi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượu trong quán kêu vô nài ép bảouống, Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằng đàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đàn bà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của người bạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai can rằng: Bạn là Phật tử đã thọ qui giới uống rượu là phạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uống rượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, người nào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiên là thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điều không tốt cho mình. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơn là bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng ta là người học đạo phải biết rõ ai là bạn lành, để gần gũi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳng lành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếu không đủ đạo lực thì không nên gần nhiều, gần nhiều sẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó được Ngài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy là quá tốt, nếu người nào chưa đủ thì hãy rán tạo nhân duyên cho đủ.

Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp thì hút vào nhau, ý muốn nói mừng cho mình đã có phước duyên tốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thực hiện được mà mình thực hiện được như: Phật pháp khó gặp mà mình gặp, chánh pháp khó nghe mà mình được nghe v.v...

May thay như rùa mù gặp bô�ng cây.Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ?Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi. thưa hỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổng một đời tu. Nếu đi tu vì mục đích an nhàn, sung sướng cho bản thân thì chưa phải là người thật tâm xuất gia cầu đạo giải thoát. Câu chuyện rùa mù gặp bộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộng cây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bên Ðông, mai qua bên Tây. Có con rùa mùdưới đáy biển, một trăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn tìm bộng cây để chui vào. Vậy rùa mù tìm được bộng cây dễ hay khó ? Rất khó. Ý đức Phật nói con người sau khi mất thân này, muốn được thân trở lại khó như rùa mù tìm gặp bộng cây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiều phúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ nhà, bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đích cầu cái gì? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầu giác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính mình và chúng sanh ? Ðây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Ngài răn những lời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đi tu đừng tham đắm danh lợidanh lợi làm chướng ngại sự tu hành. Ði tu thì phải cầu thầy sáng, để hướng dẫn mình tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợ những duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông. Phải vì Phật pháp quên thân mạng, phải vượt suốibăng rừng để tìm những bậc đạo cao đức trọng mà

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?

Dạy rằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là hai việc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện chỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi về đâu ?

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ?Song này các người do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo. Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thế gian không việc khó, lại nói thế gian có hai việc khó, nếu không việc khóthì làm gì có hai việc khó ? Ý Ngài muốn nói rằng trên thế gian không có việc gì khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó, đó là Ðây là hai việc rất khó, vì hai điều này là hai điều thắc mắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắc mắc mình từ đâu đến đây và sau khi chết mình sẽ về đâu ? Ðó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giải đáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Ca lúc còn là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và, Ngài quyết phăng tìm cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàng cung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đức Phật cũng phải quyết tâm tìm cho ra manh mối. Muốn thực hiện điều đó Ngài dạy: Muốn giải quyết hai mối nghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, tìm thầy sáng bạn lành cầu chỉ dạy cho mình tu, khi ngộ đạo thì giải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-ta ngồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngày đêm. Ðêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túc mạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trước nên giải quyết được câu hỏi "ta từ đâu đến đây". Khoảng canh ba Ngài chứng được thiên nhãn minh, thấy rõ con người sau khi chết theo nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuống v.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất người tu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phải chứng thiên nhãn minh. Ngày nay chúng ta tu còn mờ mịt thật là khó giải quyết được hai mối nghi "sanh từđâu đến, chết đi về đâu".

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi về đâu ? 

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Ðến từ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái gì ? "Vô vi" là từ ngữ của đạo Lão, khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, nói đến lý bất sanh bất diệt, các Ngài mượn từ vô vi của đạo Lão để dùng. Nhà Phật dùng từ vô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vật có hình tướngthế gian có sanh có diệt là hữu vi, pháp không sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanh ta từ đâu đến ? Ðáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bất sanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Ðáp rằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơi gượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sauđây tôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. Kinh Lăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên một niệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởi theo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vào sanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiện giờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghe mỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậy thử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnh táo hồi nãy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm gì có cái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thức chúng ta tỉnh lại thì không còn mê nữa. Như vậy cái mê nó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, có ai biết mình sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnh là bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm thì ngủ say mộng mị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân như thì sẽ dấy sanh vọng niệm, vì vọng niệm dấy khởi nên sanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ? Ðáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệm sanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau. Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt. Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũng trở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúng ta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗ không sanh diệt, nếu không tu thì vẫn tiếp tục đi trong sanh tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15481)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13950)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54948)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9057)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14081)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13808)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36148)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19039)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20187)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15847)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14893)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14609)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46042)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21470)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19403)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18818)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20081)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18265)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19736)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34301)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37543)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21042)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17793)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63447)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17274)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27254)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18809)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16247)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17787)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15922)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15295)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12587)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13273)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12422)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13112)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21501)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14938)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14370)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12518)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43695)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56805)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14460)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33166)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15324)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31097)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40204)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46467)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant