Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 04 - Cuộc Chơi của Huyễn Tượng

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10417)
Bài 04 - Cuộc Chơi của Huyễn Tượng

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 4]
Cuộc Chơi của Huyễn Tượng
(Game of Illusion)
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Sinh tử lưu chuyển được tạo bởi nghiệp.
Nó là một phóng chiếu của nghiệp.
Các hữu tình được tạo bởi nghiệp.
Nghiệp là nguyên nhân của hữu tình và cái làm hữu tình khác biệt.
-- Kinh Đại bi liên hoa. Mahakarunapundarikasutra. 

Tâm là căn bản của tất cả sự sự vật vật, của viên giác cũng như huyễn tượng. Trong trạng thái căn bản đối với viên giác, nó là trí tuệ bát nhã bản nhiên (fundamental primordial wisdom; bản trí) có ba tính đức: chân không diệu viên, diệu minh thường trụ, và diệu minh biện biệt vô ngại. Bị bao phủ bởi bốn sự che lấp -- sự che lấp của vô minh, sự che lấp của tập khí căn bản, sự che lấp của những đam mê, và sự che lấp của nghiệp, tâm trở thành căn bản thức (= thức alaya, thức a lại da, thức thứ tám; fundamental consciousness), nó là căn bản cho tất cả huyễn tượng tạo thành những phương diện khác nhau của hiện hữu lưu chuyển hoặc sinh tử lưu chuyển.

Nghiệp

Thức căn bản có thể được so sánh với một mặt đất thâu nhận chủng tử hoặc các hạt giống để lại bởi các hành động của chúng ta. Một khi đã được gieo vào, những hạt giống này ở lại trong đất của căn bản thức cho tới khi những điều kiện cho sự nảy mầm của chúng và sự thành thục cùng đến.Trong cách này, chúng làm hiện hoạt tiềm năng của chúng bằng cách sản xuất ra những cây và quả là những trải nghiệm khác nhau của sinh tử lưu chuyển. Những hạt giống của những hành động đó lưu lại nơi căn bản thức là những nguyên nhân mà khi những tăng thượng duyên xuất hiện đầy đủ, lúc đó hình thành kết quả vào một trạng thái đặc thù của tâm thức cá biệt, có đem theo những trải nghiệm chuyên biệt của chính nó.

Nói tổng quát, tập hợp của những chủng tử ở lại trong căn bản thức này bởi những hành động quá khứ cung ứng sự hình thành phan duyên tất cả những trạng thái và những trải nghiệm của tâm thức cá biệt, đó là, cái chúng ta là và mỗi sự sự vật vật chúng ta trải nghiệm. Sự liên kết của những bước khác nhau của tiến trình này, từ những nguyên nhân, những động tác khởi sự, cho tới những hệ quả của chúng, những trải nghiệm hiện tạivị lai, được gọi là nghiệp (karma), hoặc sự nhân quả của những hành động.

Karma, nghiệp là một từ Phạn ngữ nguyên nghĩa là ‘sự hoạt động phan duyên’ (‘conditioned activity’; sự hoạt động theo duyên khởi). Khái niệm này gồm toàn thể phương trời của trạng thái hoạt động, từ nguyên nhân tới hệ quả của một hành động.Thế nên, nghiệp là trạng thái hoạt động được hiểu trong trạng thái một loạt những nguyên nhân và những kết quả của những hành động.

Sinh tử lưu chuyển

Nghiệp, hoặc những hành động của chúng ta và những chủng tử của chúng, làm phan duyên tâm. Bởi vì nghiệp, tâm trải nghiệm những huyễn tượng và những huyễn tượng này tạo thành những hữu tình và những môi sinh khác nhau– nói cách khác, tâm thức và những trải nghiệm khác nhau của nó. Thế nên, những loại khác nhau của tâm thức, tất cả niềm vui và đau thương, là những hiện tướng hư huyễn biến hiện bởi năng lực của nghiệp. Tất cả chúng được xếp thành nhóm vào trong sáu cõi.

Sáu cõi hoặc sáu lớp hữu tình gồm tất cả những trạng thái trong đó tâm có thể sinh vào. Chúng làm thành toàn thể của sinh tử lưu chuyển -- samsara, một từ Phạn ngữ, nguyên nghĩa là ‘ hiện hữu lưu chuyển’, ‘vòng lưu chuyển của hiện hữu phan duyên’ hoặc ‘vòng tái diễn của những lần sinh’, được gọi như thế bởi vì các hữu tình phan duyên theo nghiệp chuyển cư qua các cõi một cách vô tận trong cái vòng đó. (so called because karmically conditioned beings transmigrate endlessly in that cycle).

Nhiều khi, do bởi năng lực của ảnh hưởng tích cực hoặc nghiệp tích cực, tâm sinh vào một cõi cao hơn (3 cõi: người, trời ganh tị, trời), kế tiếp, do bởi ảnh hưởng tiêu cực hoặc nghiệp tiêu cực, tâm sinh vào một cõi thấp hơn (3 cõi: súc sinh, quỷ đói, địa ngục), Cái vòng tái diễn của những lần sinh này quay liên tục, ở một điểm dẫn tâm tới một cõi cao hơn, thế rồi sau đó tới một cõi thấp hơn.

Sự thế đổi không gián đoạn này chỉ chấm dứt khi đạt được giải thoát -- sự ngoi lên từ hiện hữu phan duyên. Đây là sự chấm dứt sinh tử lưu chuyển, sự giác ngộ của một vị phật. Bao lâu chúng ta chưa đạt được giải thoát, tâm sẽ chuyển cư qua các cõi khác nhau của sinh tử lưu chuyển; chúng ta đã qua lại tất cả các cõi đó rồi.

Ngày hôm nay chúng ta là người; mai sau, chúng ta có thể tái sinh trong một trạng thái khác của hiện hữu. Cái thật sự chuyển cư qua các cõi từ đời sống này tới một đời sống khác là cái tâm phan duyên do bởi nghiệp, cái nghiệp này quyết định hạnh phúc của tâm, đau thương của tâm,và những khả năng của tâm. Cái chúng ta là ngày nay -- những cõi khác nhau chúng ta đi qua và sẽ đi qua – là những kết quả từ nghiệp và nghiệp làm phan duyên những phóng chiếu của tâm và bằng cách này tạo thành những huyễn tượng.

Nghiệp và Tự do

Lúc đó từ toàn cảnh khách quan này, nghiệp là tích cực khi nó phục vụ trong trạng thái một nguyên nhân cho một trạng thái hạnh phúc và đem chúng ta đến gần hơn với tự do, và nghiệp là tiêu cực khi nó hình thành kết quả trong những trạng thái đau đớn và làm chúng ta cách xa với giải thoát.

Thật là điều rất quan trọng để hiểu biết rõ ràng rằng nghiệp làm phan duyên những trải nghiệm và những hành động của chúng ta , chúng ta vẫn thọ hưởng một chừng mực nào đó của tự do – cái mà thường được gọi là tự do ý chí (free will) ở phương Tây – cái luôn luôn hiện diện nơi chúng ta trong một tỉ lệ khác biệt. Ở mỗi lần hành động, chúng ta tìm thấy chúng ta đang ở tại một ngã tư đường: một lối đi dẫn đến hạnh phúcviên giác, một lối đi khác dẫn đến không hạnh phúc và đau thương. Chúng ta liên tục bị đối đầu với một sự chọn lựa: một chọn lựa đúng đắn sinh ra nghiệp thuận lợi cho một sự phát triển tích cực, trong khi đó một chọn lựa tệ hại sinh ra nghiệp tiêu cực, nguyên nhân cho sự không hạnh phúc trong tương lai. Sự chọn lựa là của chúng ta, nhưng những hệ quả thì không thể né tránh được.

Tự do này hoặc tự do ý chí thì có thể có được bởi vì, trong sương mù của sinh tử lưu chuyển -- samsara, mặc dù bản chất phan duyên của nó, chúng ta luôn luôn có một mức độ của trực giác (direct awareness; nhận biết sáng tỏ trực tiếp ) và trải nghiệm thật sự. Tâm của chúng ta và những trải nghiệm của nó tham dự đồng thời vào sự phan duyên của vô minh và trong tự do của trực giác. Từ vô minh đem đến một đường lối nhị nguyên đối đãi của trải nghiệm những sự sự vật vật theo quan liên chủ thể và đối tượng, và cái này tạo nên tâm thức quy ngã mà nó biến hiện những đam mê (=phiền não) khác nhau. Một đàng khác, từ trực giác, những tính đức không quy ngã tích cực sinh khởi. Chính là từ những phiền não này, những đam mê do tâm thức quy ngã cá biệt, hoặc từ những tính đức không quy ngã tích cực này mà nghiệp tiêu cực hoặc tích cực, một cách tương ứng, sinh khởi. (It is from these afflictions or from these positive qualities that negative or positive karma, respectively, arises).

Như vậy, nghiệp tích cực lưu chuyển như nước triều dâng từ những thái độ tâm ý tốt lành, tỉ như từ bi, đại bi, thiện ý, vị tha,

thiểu dục, tri túc, trong khi đó nghiệp tiêu cực đến từ những thái độ tâm ý không tốt lành, cùng với sáu phiền não chính yếu của sân, tham, si, tham ái, ganh tị, và kiêu mạn.

Một loại nghiệp thứ ba cũng được nói đến, được gọi là bất động nghiệp (unmoving karma). Nó được sản sinh bởi những loại nhất định của thiền định làm tâm định và đặt tâm vào trong một trạng thái bình đẳng (bình đẳng tâm). Loại này của nghiệp hình thành kết quả những lần sinh vào những cõi trời (cõi Sắc, cõi Vô sắc), hoặc những trạng thái của tâm thức đặc hữu bởi một định tâm (a stable mind).

Nói tổng quát, mỗi sự sự vật vật hiện hữu trong sinh tử lưu chuyển thì được lưu xuất bởi ba loại này của nghiệp bị nhơ nhuốm (contaminated karma). Bằng từ ngữ ‘nhơ nhuốm’ chúng ta ý nói chúng là những hoạt động nhị nguyên đối đãi, chúng tạo những sự phân biệt rõ ràng quan liên đến chủ thể, đối tượng và hành động.Thật ra, tất cả những hoạt động của tâm thức bình thường có thể được thu gộp vào ba loại này của nghiệp: nghiệp tích cực, nghiệp tiêu cực và nghiệp bất động.

Giữa những loại khác nhau của nghiệp, chúng ta có thể phân biệt thêm nghiệp dẫn dắt (= dẫn nghiệp) và nghiệp viên mãn (=mãn nghiệp) – (propelling karma and completing karma). Nghiệp dẫn dắt, như tên gọi của nó gợi ý, dẫn đẩy bạn vào một trạng thái hiện hữu, bất cứ cái gì hiện hữu có thể là. Nghiệp viên mãn quyết định những hoàn cảnh chuyên biệt trong trạng thái hiện hữu đó, nó đem thêm vào cho đầy đủ cái hình tượng căn bản chế tạo bởi nghiệp dẫn dắt. Hai loại này của nghiệp có thể kết hợp như thế sao cho, tỉ dụ, nếu nghiệp dẫn dắt đến một cách thế nhất định của hiện hữu vốn đã tích cực và nghiệp viên mãn thêm vào cho đầy đủ trong những chi tiết đặc thù vốn là tiêu cực, chúng ta có thể sinh vào một trạng thái cao hơn của tâm thức (3 cõi: người, trời ganh tị, trời), nhưng chúng ta sẽ trải nghiệm những điều kiện không dễ chịu trong đời sống đó. Tỉ dụ, mặc dầu chúng ta có thể sinh làm người, chúng ta sẽ nghèo. Đảo ngược lại một nghiệp dẫn dắt tiêu cực phối hợp với một nghiệp viên mãn tích cực sẽ làm cho chúng ta sinh vào một hiện hữu của cõi thấp hơn trong đó chúng ta sẽ thọ hưởng những hoàn cảnh tốt đẹp. Tỉ dụ, chúng ta có thể được sinh nơi các nước phương Tây trong trạng thái một con thú nuôi trong nhà có những điều kiện sinh sống rất nhiều tiện nghi ưu đãi.

Cũng có nghiệp tập thể và nghiệp cá biệt. Những hữu tình của một trạng thái hiện hữu có tất cả nghiệp được phát triển giống nhau, thế nên thế giới xuất hiện trước chúng trong một thể cách giống nhau. Nghiệp này được gọi là nghiệp tập thể. Tuy nhiên, tình trạng đặc thù của mỗi một hữu tình trong quan liên về trú xứ, hiện tướng vật lí, hạnh phúc, và đau thương là sự biến hiện của nghiệp đơn biệt tự chính nó của hữu tình đó. Đây là nghiệp cá biệt, bởi vì nó sản xuất ra những trải nghiệm chuyên biệt.

Sự đau thương của ba lớp của những hữu tình cõi thấp hơn và sự hạnh phúc của ba lớp hữu tình cõi cao hơn kết quả từ những kết hợp khác nhau của nghiệp. Đi chung với nhau, chúng tạo thành tất cả những hoàn cảnh lên xuống và đổi thay gây nên bởi nhiều thứ loại khác nhau của nghiệp.

Những hiệu quả khác nhau đến từ những hành động khác nhau; những loại nghiệp khác nhau tạo nên những sự vạn thù sai biệt của hữu tình và những trạng thái của hiện hữu. Chính là trong ý nghĩa cảm thức này nghiệp là tạo chủ của sinh tử lưu chuyển— samsara.

(It is in this sense that karma is the creator of samsara )

----------------------------------------------------

Chú thích

[1] Giác, giác chiếu, viên minh: Awareness

1.1. Awareness thông thường có nghĩa là -- knowing hoặc --being aware , và trong ngữ cảnh phật học và ngữ cảnh của Osho thì từ gốc Sanskrit là –Vidya.

1.2. Vidya có mấy nghĩa chính :

1. as a general term encompassing all experiences of consciousness and mental events : thuật ngữ tổng quát bao gồm tất cả các kinh nghiệm của thức và các tiến trình tâm ý

2. as intelligence or mental aptitude : thông tuệ hoặc khả năng tâm ý.

3. as a science or knowledge-based discipline : một khoa học hoặc chuyên ngành về nhận thức học.

4. as a pure awareness : thanh tịnh giác ( bản giác , …) 

1.3. Giác: có nhiều nghiã. || Nghĩa V: Tên gọi chung của tâm và tâm sở. Đây là cái biết của tâm, tâm sở khi duyên theo cảnh (đối tượng)

[ Phật quang Đại Từ Điển.Thích Quảng Độ dịch, in năm 2000, trang 1936]

---------------

 1.4. Awareness:

 the original state of mind, fresh, vast, luminous, and beyond thought.|| =Viên minh giác chiếu: trạng thái khởi nguyên của tâm, tươi tắn, mênh mông, quang minh (=chiếu sáng), và vượt ngoài niệm tưởng (=vượt ngoài tâm niệm )

-------------------

 1.5. Awareness:

 On the subtlest level, awareness in the form of wisdom can be associated with colors, forms and even energies and subtances, such as the subtle neurotransmitter red and white drops in the subtle body.

More usually, awareness is differentiated from the material realm, and a complex mind-matter dualism is sustained as a way of keeping mindful of the elusive nature of reality, ever resisting the naïve reductionism of dogmatic theorists.

( The Tibetan Book of the Dead. Translated by R.A.F. Thurman. 1994. )

Tạm dịch : Viên minh giác chiếu : Ở trên mức độ vi tế nhất, viên minh giác chiếu trong sắc tướng của trí tuệ bát nhã có thể đi với những màu sắc, những hình tướng, và ngay cả những năng lượng và những chất liệu, tỉ dụ những giọt vi tế tín hiệu thông chuyển thần kinh màu đỏ và trắng trong thân vi tế.

Gần như luôn luôn, viên minh giác chiếu thì được phân biệt với cõi vật chất, và một chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi có cả phức hợp tâm-chất liệu thì được hỗ trợ như là một cách quan tâm đến cái tính chất không sao hiểu nổi của thật tại, vẫn chống lại chủ nghĩa thu giảm của những lí thuyết gia theo chủ nghĩa giáo điều.

-------------------------------------------

[2] Bất động nghiệp

Bất động nghiệp; vô động hành; vô động hạnh: unmoving karma

Vô động hạnh cũng gọi: bất động nghiệp.

Hạnh tu bất động. Nghĩa là tu thiền định hữu lậu được quả báo sinh lên cõi Sắc, cõi Vô sắc.

thiền định xa lìa sự tán động, cho nên gọi là Vô động; lại vì qủa báo sinh lên cõi trờiquyết định không dời đổi được, cho nên cũng gọi là Vô động.

Nghĩa trước là nói theo nhân, nghĩa sau là nói theo quả.

[ Phật quang đại từ điển. Thích Quảng Độ dịch -- trang7164] 

-----------------------------

[3] Tự do ý chí (free will) và tính bản phật phổ hiền

Hỏi: Các hữu tìnhtự do ý chí không?

Dalai Lama: Theo Phật giáo , các cá nhân là những người chủ của chính những gì sắp xảy đến cho họ theo quyết định trước đó của họ

( their own destiny).Tất cả chúng sinh được tin tưởng có tính của Bản Phật Phổ Hiền, tiềm năng hoặc hạt giống của viên giác , ở trong họ.Thế nên của chúng ta ở trong chính hai bàn tay của chúng ta. Có tự do ý chí nào lớn hơn nữa chúng ta cần đến ?

According to Buddhism, individuals are masters of their own destiny. And all living beings are believed to possess the nature of the Primordial Buddha Samantabhadra, the potential or seed of enlightenment, within them. So our future is in our own hands.

What greater free will do we need?

( HH The Dalai Lama . Dzogchen. The Heart Essence of the Great Perfection. Snow Lion , 2000. page 168)

[destiny:1.That which is to happen to a particular person or thing. 2. the power or agency which determines the course of events]

Phổ Hiền, Phật, Bồ tát: Samantabhadra : All-around Goodness.

All-around Goodness indicates that the deepest reality of everything is freedom itself, that which allows the happiness of beings and therefore that which they consider utter goodness.

Phổ Hiền có nghĩa là thật tại tối hậu của sự sự vật vật là tự do tại thể khiến cho hạnh phúc của hữu tình có thể hình thành được và thế nên tự do tại thể được hữu tình xem là thiện hảo tối thượng.

[4] Con Đường của Phật. The Way of the Buddha.

 “ Bạn thường nghe nói đi nói lại rằng những đạo sĩ phương Đông tin rằng thế giới này là huyễn. Đúng thế; chẳng những họ tin thế mà còn biết rõ thế giới là mộng, là huyễn. Nhưng khi họ dùng chữ samsara- nghĩa là luân hồi sinh tử hay thế gian –thì họ không ám chỉ cái thế giới vật thể mà khoa học đang tra tầm. Không, hoàn toàn không! Họ không ám chỉ thế giới gồm cây cối núi sông; mà ám chỉ cái thế giới trong tâm bạn, cái thế giới do bánh xe tư tưởng bạn không ngừng quay và dệt nên. Samsara không dính gì đến thế giới bên ngoài.

Có ba loại thế giới. Một là thế giới khách quan bên ngoài; Phật không bao giờ đả động tới vì ngài chả quan tâm đến -- Phật không phải là một Albert Einstein.Thứ hai là thế giới do tâm phân biệt -- cái thế giới mà các nhà phân tâm học, tâm bệnh học tra tầm. Phật có vài điều để nói về nó, nhưng không nhiều lắm, kỳ thực ngài chỉ nói một điều về nó là Như huyễn, không có thực tính chủ quan hay khách quan. Nó ở giữa hai thứ ấy. Và thứ ba là cái thế giới chủ quan thuộc nội tâm bạn, cái ngã cuả bạn.

Đức Phật cốt nhắm đến cái cốt lõi sâu xa nhất cuả bản thể bạn ; nhưng bạn lại quá gắn bó với cái tâm phân biệt. Nếu ngài không giúp bạn thoát ra khỏi cạm bẫy của tâm, thì bạn sẽ không bao giờ biết đến cái thế giới chân thực thứ ba là thực chất bên trong, chân diện mục của mình. Bởi thế ngài bắt đầu bằng câu: Ta là những gì ta nghĩ (bằng ý nghĩ của mình, ta tạo nên thế giới). Mọi người đều như thế, đều là cái tâm của họ. Tất cả những gì ta là, đều do những ý nghĩ của ta khởi lên …

Chính vì điều ấy mà Phật đã sử dụng một danh từ trước nay chưa ai dùng. Các đạo sĩ vẫn thường dùng chữ ngã để chỉ cái cốt lõi của bản thể, nhưng đức Phật lại dùng chữ “ vô ngã” , gần với sự thật hơn rất nhiều. Sử dụng chữ ngã dù với một chữ N hoa, cũng chả khác gì mấy; nó vẫn tiếp tục khiến bạn có một ý thức về bản ngã, và với một chữ N hoa lắm lúc bạn còn thấy một bản ngã to hơn.

Đức Phật không dùng từ atma hay atta, ngã, mà dùng từ ngược lại là vô ngã: anatma, anatta. Ngài nói khi tâm chấm dứt thì không còn cái ngã, mà bạn trở thành vũ trụ, đã vượt biên giới bản ngã, bạn là không gian thuần khiết không nhiễm một thứ gì, như một tấm gương phản chiếu mọi vật mà không đắm vật gì (nguyên văn là : you are just a mirror reflecting nothing; DG-Trí Hải sửa lại) [you are just a mirror reflecting nothing: bạn chỉ là đại viên kính trí

Đ H P đề nghị]

Nếu muốn biết sự thực mình là ai, bạn phải học cách đình chỉ cái tâm, chấm dứt tư tưởng. Đấy là tất cả ý nghĩa thiền định. Thiền là ra khỏi tâm để đi đến vô tâm. Trong vô tâm bạn sẽ biết được Pháp hay chân lý tối hậu …Khổ đau là sản phẩm, cái bóng của cái tâm huyễn hoá (hữu tâm); khổ đau là một cơn ác mộng. Bạn đau khổ chỉ vì đang mê ngủ; và không cách gì thóat khổ khi mà bạn vẫn ngủ, vì cơn ác mộng vẫn còn tiếp diễn nếu bạn chưa tỉnh thức. Những hình ảnh trong chiêm bao có thể thay đổi muôn vàn cách, nhưng mộng vẫn là mộng .

Thống khổ là cái bóng của tâm (phân biệt); tâm có nghĩa là giấc ngủ vô thức, sự bất giác, không biết mình là ai nhưng vẫn giả vờ như mình biết. Tâm nghĩa là không biết mình đang đi đâu mà vẫn giả vờ như đã biết rõ mục đích, biết rõ cuộc đời cốt để làm gì. Cái tâm ấy chắc chắn đem lại đau khổ, không khác gì cái xe lăn theo chân con vật kéo xe …

Phật dùng câu “ tâm trong sạch” để ám chỉ “ vô tâm”; vì nếu nói vô tâm ngay, thì bạn sẽ không hiểu nổi. Nhưng nếu nói “ tâm trong sạch” thì sẽ có đường truyền thông, giao cảm. Dần dần ngài sẽ thuyết bạn tâm trong sạchvô tâm …Đi sâu vào lời kinh bạn sẽ hiểu ra rằng ô nhiễmhữu tâm, trong sạchvô tâm: Nếu nói hay hành động với tâm ý trong sạch, an vui liền theo sau như bóng không rời hình .

Khổ là hậu qủa của mê ngủ, vui là hậu qủa của tỉnh thức. Bởi thế bạn không thể trực tiếp tìm hạnh phúcnhất định sẽ thất bại. Hạnh phúc chỉ đến với kẻ không trực tiếp đi tìm nó mà tìm sự tỉnh thức. Khi đã tỉnh thức thì hạnh phúc tự động xảy đến như cáí bóng không rời hình.(quyển 1 trang 16 -21)

[Con đường của Phật. Osho. Thích Nữ Trí Hải tuyển dịch. Bộ 12 quyển. Ưu Đàm, Canada xuất bản)

[ E-mail: ptnhu@yahoo.com]

-----------------------------

[5] Đam mêTự do

Jean-Paul Sartre (1905-1980)

Chủ nghĩa Hiện Sinh là một Nhân Bản Thuyết

L’Existentialisme est un Humanisme .

Bùi Giáng dịch

(Đặng Hữu Phúc lược trích)

Trong những trang này tôi muốn binh vực chủ nghĩa Hiện sinh trước những lời chỉ trích.

Trước tiên người ta trách Hiện Sinh chủ nghĩa như thế này: Khuyến khích con người nằm im trong vô vi của tuyệt vọng; mọi lối giải đáp đều bế tắc thì mọi hoạt động giữa đời này đều triệt để bị chối bỏ, và cuối cùng con người đành tiến tới một triết học trầm tư mặc tưởng nghĩa là trở lại với một triết học trưởng giả, bởi vì trầm tư mặc tưởng là một xa xỉ phẩm .

Một mặt khác, người ta chê trách chúng tôi đã nhấn mạnh mãi vào những chỗ ô nhục của con người, nhìn đâu cũng thấy những tồi tàn, dơ dáy nhầy nhụa nhố nhăng; và không chịu thấy những hương màu diễm lệ tươi vui, những khiá cạnh trong sáng trong bản chất con người; chẳng hạn như, theo cô Mercier - một nhà phê bình công giáo – thì chúng tôi đã quên bẵng nụ cười của trẻ thơ.

Người công giáo trách chúng tôi là thiếu tình đoàn kết với nhân gian, vì chúng tôi xem con ngườicô độc. Có người bảo rằng chúng tôi đã đi từ chủ quan thuần túy, nghĩa là đi từ cái “tôi suy tư” cuả Descartes, nghĩa là đi từ cái phút con người đạt tới nội tâm mình trong tĩnh tịch cô đơn, điều đó xui chúng tôi trở nên biệt lập, không cách gì còn có thể về trở lại ở giữa tình huynh đệ tương giao để hoà cảm! Cái “ Tôi suy tư” không cho phép chúng tôi đạt tới những con người ở ngoài tôi …

…Cả hai loại [Hiện sinh công giáo và Hiện sinh vô thần] cùng có một điểm tương đồng ấy là: họ cho rằng hoạt tồn đi trước, thực thể tới sau ; hoặc nói cách khác: phải khởi sự đi từ tình tự chủ quan

Ở thế kỉ 18, trong tâm thức vô thần cuả các triết gia, cái quan niệm về Thượng Đế bị xoá bỏ, nhưng vẫn còn tồn tại cái ý niệm thực thể có trước, hoạt sinh đến sau. Ý niệm đó, ta thấy rải rác ở hầu hết các nơi: ở Diderot, Voltaire, và ngay cả ở Kant nữa. Con người ta có mang một bản tính người, một nhân tính; cái nhân tính bẩm sinh kia, ấy là khái-niệm-người; nó có mặt ở mọi con người, nghĩa là mỗi người là một thể hiện riêng của một khái niệm chung, phổ quát: con người. Vậy thì quả thật theo quan niệm kia, thực-thể- người có trước cái hiện-sinh-lịch-sử của con người mà ta gặp qua kinh nghiệm bẽ bàng giữa cõi biển dâu .

Chủ nghĩa Hiện sinh vô thần mà tôi đại diện, xét ra có hệ thống liên tục hơn. Nó tuyên bố rằng: nếu khôngThượng Đế thì ít ra cũng phải có một sinh vật mà cái hoạt sinh đi trước cái thực thể, một sinh vật hiện hữu trước khi xác định bởi một khái niệm, và sinh vật ấy là con người, hoặc nói như Heidegger, là thực-tại-người.Vậy ở đây cái câu hoạt sinh đi trước, thực thể tới sau, câu ấy có nghĩa như thế nào?

Câu ấy có nghĩa rằng con người ta trước tiênhiển hiện, là phát-sinh động-hoạt ở giữa đời, rồi sau mới tự xác định được.Con người ta, theo như chúng tôi quan niệm, nếu nó không thể được xác định, ấy là bởi vì thoạt tiên nó không là gì cả. Nó chỉ được xác định là gì, là phải đợi về sau, và về sau nó sẽ ra sao là theo như nó tự-thể-hiện-mình-ra-thế.Vậy thì con người không có mang sẵn một bản tính, bởi vì không có sẵn một đấng Thượng Đế để quan niệm sẵn cái bản tính con người ta. Con người ta chỉ là, không những chỉ-là theo như tự nó quan niệm sẵn mình mà chỉ-là theo như-nó-tự-quyết-định-mình, và bởi vì nó tự-quan-niệm sau tồn hoạt, nó tự-quyết-định sau cái đà nhảy vào hiện sinh nên chi con người ta không thể là cái-gì-khác ngoài cái lối tự-thể-hiện, tự-quyết-định mình. Đó là nguyên tắc đầu của chủ nghĩa hiện sinh vậy.Và đó cũng là cái mà ta gọi là tình-tự-chủ-quan.Và thiên hạ chỉ trích chúng tôi, cũng chính là theo cái danh hiệu đó.

Như vậy, cái bước đầu của chủ nghĩa Hiện Sinh là giúp con người nắm lại đúng cái thân phận mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc tồn hoạt cuả mình.Và, khi chúng tôi nói rằng con người ta chịu trách nhiệm thân mình, ấy không có nghĩa: trách nhiệm cái cá nhân riêng biệt của mình, mà ấy là trách nhiệm cho toàn thể khối nhân gian, cho tất cả mọi người trong thiên hạ.Tiếng chủ-quan có hai nghĩa, và rủi thay, những kẻ chỉ trích chúng tôi cứ chập chờn đú đởn đẩy đưa trên hai nghĩa đó, làm nổi bật nghĩa này, và cố tình làm khuất nghĩa kia đi.

Chủ-quan một mặt có nghĩa là cá nhân tự mình chọn lựa bởi mình, và mặt khác, có nghĩa rằng con người ta không thể nào vượt khỏi cái chủ-quan-tình-tự-của-con-người. Chính cái nghĩa thứ hai mới là nghĩa sâu thẳm của thuyết Hiện Sinh.

Khi chúng tôi nói: con người tự chọn lựa mình, là chúng tôi nghĩ rằng mỗi người chúng ta tự lựa chọn mình, nhưng đồng thới chúng tôi cũng muốn nói rằng tự chọn cho mình là chọn chung cho nhân loại.Thật vậy, không một hành động của ta, lúc tạo nên con người mà ta muốn hoạt hiện, lại đồng thời chẳng tạo nên một hình ảnh con người theo-như-lòng-ta-mong-rằng-nó-phải-nên-như-vậy. Chọn lựa trở nên thế này hay thế kia, ấy là đồng thời xác nhận giá trị của cái ta chọn lựa, bởi vì không bao giờ chúng ta chọn lựa cái ác,cái ta chọn lựa bao giờ cũng là điều lành, và không cái gì tốt cho ta mà lại chẳng tốt cho tất cả thiên hạ. Mặt khác, nếu hoạt tồn đi trước thực thể, và nếu chúng ta muốn tồn hoạt đồng thời với thể hiện hình ảnh ta, thì cái hình ảnh kia cũng có giá trị cho mọi người và cho toàn thể thời đại của ta vậy.Vậy thì, trách nhiệm của chúng ta qủa thật còn to lớn hơn ta tưởng nhiều lắm, bởi vì nó liên hệ đến toàn thể nhân gian. Khi tự-chọn-mình là tôi chọn-con-người-cho-khắp-mặt-bà-con-trong-thiên-hạ .

Điều này cho phép ta hiểu ý nghĩa bao hàm trong những tiếng hơi có vẻ “đại cà sa “ như: Khắc khoải, bơ vơ, lạc loài, tuyệt vọng. Các bạn sẽ thấy, vấn đề rất là đơn giản. Trước hết, khắc khoải là gi ? Thuyết Hiện Sinh sẵn sàng bảo rằng con người là khắc khoải. Ấy có nghĩa là: con người lúc dấn thân tồn hoạt và có ý thức rằng không những mình chỉ là cái-kẻ-mình-tự-chọn-để-hữu-tồn, mà còn là nhà lập pháp lúc chọn mình là chọn-chung- cho-xã-hội, tất nhiên con người không thể không choáng váng vì cái trách nhiệm hoằng đại cuả mình. Quả thật, có nhiều kẻ không ưu tư khắc khoải; nhưng tôi nghĩ rằng: ấy là họ che dấu khắc khoải, họ lẩn trốn ưu tư, họ tự dối lòng vậy …

…Chúng ta cô độc lạc loài, và không có bào chữa. Đó là điều tôi muốn diễn tả, khi nói rằng con người ta chịu đày đọa trong tự do. Đày đọa bởi vì con người không tự ý tạo ra thân mình, và mặt khác lại tự do, bởi vì một khi đã bị vất vào giữa đời sống, thì con người phải chịu trách nhiệm mọi hành động của mình. Thuyết Hiện Sinh không tin ở quyền lực của đam mê lộng lẫy là một nguồn thác tơi bời lôi cuốn mãnh liệt con người, đẩy con người vào những hành động dữ dội không cách gì cưỡng nổi, và như vậy đam mê là một bào chữa. Không. Thuyết Hiện Sinh nghĩ rằng con người ta chịu trách nhiệm mọi đam mê say đắm cuả mình …

[6] Osho giảng về Đam mê (passion) và Đại bi (compassion)

“Chúng ta biết đam mê là gì; từ đó đại bi là gì, chắc không phải là điều rất khó hiểu. Đam mê chính là một trạng thái cuả cơn sốt sinh học – nó thì cuồng nhiệt, bạn gần như bị chiếm hữu bởi những năng lượng có tính sinh học, không ý thức. Bạn không còn là người chủ của chính bạn, bạn tuyệt đối là một kẻ nô lệ.

Đại bi chính là bạn vượt trên sinh học, bạn vượt trên sinh lí học. Bạn không còn là một nô lệ, bạn trở thành ông chủ. Giờ đây bạn hành vận có ý thức. Bạn không bị sai sử, lôi kéo, thúc đẩy bởi những lực vô thức; bạn có thể quyết định những gì bạn muốn làm với những năng lượng cuả bạn. Bạn tự do hoàn toàn. Lúc đó chính cái năng lượng trở thành đam mê được biến hoá thành đại bi.

Đam mê là khao khát, mê say; đại bithương yêu quý mến. Đam mêlòng dục (tham), đại bi là vô dục (vô tham). Đam mê muốn sử dụng người khác như một phương tiện, Đại bi tôn trọng người khác như một cứu cánh nơi chính mình . Đam mê tiếp tục trói buộc bạn vào mặt đất, vào bùn nhơ, và bạn chẳng bao giờ trở thành một đoá sen. Đại bi làm bạn trở thành một đoá sen . Bạn bắt đầu vượt lên trên thế giới bùn lầy cuả dục vọng, tham lam, sân hận. Đại bi là một sự biến hoá cuả các năng lượng cuả bạn …

Bạn trở thành một sự tùy thuận, chấp thuận và hỗ trợ cho chính bạn và toàn thể tồn tại. Đó là đại bi” (You become a blessing to yourself and a blessing to the whole existence.That is compassion)  

[Osho. Compassion. The Ultimate Flowering of Love. 1985, 2007] 

[7] A short list of English -- Sanskrit Buddhist Terms

Awareness; Skt. buddhi; vidya

Intuition: intuitive wisdom ; Skt. jnana

Consciousness; Skt. jnana;vijnana

Conceptual conciousness; conceptual thought;

thought consciousness; thought; < Skt.kalpana

Mind; Skt. citta ; manas

Wisdom; Skt. prajna

Exalted wisdom; Skt.jnana

Wrong consciousness; Skt. viparyaya-jnana

Thing ; Things; Skt. dharma

Ignorance; fundamental ignorance; Skt. avidya

Contaminated; Skt.sasrava

Contamination; Skt. asrava

Uncontaminated; Skt. anasrava

Obstructions to omniscience; Skt. jneyavarana

Obstructions to liberation; afflictive obstructions;

Skt.klesavarana

Afflictions; disturbing emotions; dissonant mental states; Skt.klesa

Perceiver; Skt. vijnana

Knower; Skt. samvedana

Prime cognizer; Pramana

Subject; Skt. dharmin

Object; Skt.visaya

Real; Skt. samyak

Appearance; Skt.pratibhasa

Appearing object ; Skt.pratibhasavisaya

Deceit; Skt. maya

Sentient being. Skt. sattva

Seed ; Skt. bija

Self; Skt. atman

Selflessness; Skt.nairatmya

Valid cognition; Skt. pramana

Condition; Skt. pratyaya

Compositional phenomena; Skt. samskara

Calm abiding; Skt. samatha

Concentration; Skt. dhyana

Meditative stablization; Skt. samadhi

Momentary; Skt. ksanika

I; Skt. aham

Mine; Skt . mama

Understanding arisen from thinking; Skt.cintamayi

Special insight; Skt. vipasyana

Stabilization; Skt. samadhi

Delusion; Skt. moha [ si, vô minh , vô trí] Skt.mudha

Absorption. Skt. samapatti

Buddha-attributes; Skt.guna . Đức hạnh . Những tuỳ tính.

[ Thuật ngữ Sanskrit không viết với đủ các dấu—vì tôi không có software viết chữ Sanskrit-- thế nên bảng từ này chỉ có mục đích giúp độc giả hiểu các từ Anh ngữ khi biết các từ Sanskrit tương đương, và tìm ra từ Việt tương đương dễ hơn ]

---------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

Game of Illusion

Samsara is created by karma.
It is a projection of karma.
Beings are created by karma.
Karma is their cause and what differentiates them.
-- Mahakarunapundarikasutra

-------------------------------------

Mind is the basis of everything, of enlightenment as well as illusion. As the basis of enlightenment, it is the fundamental primordial wisdom having three essential, complementary, and simultaneous aspects: openness(=emptiness), clarity, and sensitivity. Shrouded by the four veils, it becomes the fundamental consciousness, which is the basis for all the illusions that make up the different aspects of cyclic existence or samsara.

Karma

Fundamental consciousness can be compared to a ground that receives imprints or seeds left by our actions. Once planted, these seeds remain in the ground of fundamental consciousness until the conditions for their germination and ripening have come together. In this way, they actualize their potential by producing the plants and fruits that are various experiences of samsara. The traces that actions leave in the fundamental consciousness are causes that, when favorable conditions present themselves, then result in a particular state of individual consciousness accompanied by its own specific experiences.

In general , the collection of imprints left in this fundamental awareness by past actions serves to condition all states and experiences of individual consciousness, that is, what we are and everything we experience. The linking of the different steps of this process, from the causes, the initial acts, up to their consequences, present and future experiences, is called karma, or causations of actions.

Karma is a Sanskrit word that literally means “ conditioned activity”. This notion includes the entire gamut of activity, from the cause up to the consequence of an action. Karma is, therefore, activity understood as being the series of causes and results of actions.

Samsara

Karma , or our actions and their imprints, conditions the mind. Because of karma, mind experiences the illusions that make up various beings and environments – in other words, consciousness and its different experiences.Therefore, the different kinds of consciousness , all joy and suffering, are illusory appearances manifested by the power of karma. All their categories are grouped into the six realms.

The six realms or six classes of beings include all the states in which the mind can take birth.They make up the whole of samsara

, a Sanskrit term that literally means “ cyclic existence”, the “ cycle of conditioned existences”, or the “ round of births ”, so called because karmically conditioned beings transmigrated endlessly in that cycle.

Now and then, by the power of a positive influence or positive karma, the mind takes birth in a higher realm; next, by the power of a negative influence or negative karma, the mind takes birth in a lower realm. This round of births turns continuously, at one point leading the mind to a higher realm, then later to a lower realm.

This uninterrupted alternation ends only upon attaining liberation --- emerging from conditioned existence. This is the end of samsara, the awakening of a buddha. As long as we have not attained liberation, the mind will transmigrate in the various realms of samsara; we have already travel them all.

Today we are human: later, we may be reborn in another state of existence. What actually transmigrates from one life to another is the mind conditioned by karma, which determines its happiness, its suffering, and its abilities. What we are today – the different realms we have gone through and will go through – results from karma that conditions the projections of the mind and thereby forms its illusions.

Karma and Freedom

From this perspective then, karma is positive when it serves as a cause for a happy state and bring us closer to freedom, and karma is negative when it results in painful states and distances us from liberation.

It is very important to understand clearly that although karma conditions our experiences and actions, we still enjoy a certain measure of freedom –what would be called free will in the West – which is always present in us in varying proportions.At every turn we find ourselves at a crossroads: one way leads to happiness and enlightenment, the other to unhappiness and suffering. We are continually confronted with a choice: the right choice generates karma favorable to positive development, while a bad choice produces negative karma, the cause for unhappiness in the future. The choice is ours, but the consequences are unavoidable.

This freedom or free will is possible because, in the midst of samsara, despite its conditioned nature, we always have a degree of direct awareness and authentic experience. Our mind and its experiences participate simultaneously in the conditionings of ignorance and in the freedom of direct awareness. From ignorance comes a dualistic way of experiencing things in terms of subject and object, and this creates the individual ego-centered consciousness, which manifests the different passions. From direct awareness, on the other hand, positive non-ego –centered qualities arise. It is from these afflictions or from these positive qualities that negative or positive karma, respectively arises.

Thus, positive karma flows from virtuous mental attitudes, such as love, compassion, good will, altruism, modest desire, and contenment, while negative karma comes from nonvirtuous mental attitudes, along with their six main afflictions of anger, greed, stupidity, desirous attachment, jealousy, and pride.

There is said to exist a third kind of karma, called unmoving karma. It is produced by certain types of meditation that stabilize the mind and put it in a state of equanimity. This type of karma results in births in the divine realms, or states of consciousness characterized by a stable mind.

In general, everything that exists in samsara is generated by these three types of contaminated karma. By “contaminated” we mean they are dualistic activities that make distinctions concerning subject, object, and action. In fact, all the activities of ordinary consciousness can be subsumed under these three types of karma.

Among the different types of karma, we can further distinguish propelling karma and completing karma. Propelling karma, as its name suggests, propels one into a state of existence, whatever that may be. Completing karma determines the specific circumstances within that state of existence; it fills in the basic outline produced by the propelling karma. These two types of karma can combine so that, for example, if the karma propelling a certain mode of existence were positive and the completing karma that fills in the particulars were negative, we may take birth in a higher state of consciousness, but we would experience unpleasant conditions in that lifetime. For example, although we might take birth as a human, we would be poor. Conversely, a negative propelling karma associated with a positive completing karma would cause us to take birth in a lower-realm existence in which we would enjoy good circumstances. For example, we might be born in the West as a domestic animal that would have very privileged living conditions.

There is also collective and individual karma. The beings of one state of existence have all developed similar karma, so the world appears to them in a similar manner. This karma is said to be collective. Nevertheless, each being’s particular situation in terms of location, physical appearance, happiness, and suffering is the manifestation of that being’s own unique karma. This is individual karma, because it produces specific experiences.

The suffering of the three classes of lower-realm beings and the happiness of the three classes of higher-realm beings result from different combinations of karma. Together they constitute all the fluctuating and varied conditions caused by the many varieties of karma.

Different effects come from different actions; different types of karma create the diversity of beings and states of existence. It is in this sense that karma is the creator of samsara.

--------------------------------------------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10107)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10503)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10122)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20345)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11642)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13780)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19091)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46682)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12085)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11652)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23040)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17824)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10140)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17741)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14031)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15106)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20266)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18260)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17373)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18158)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12701)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12823)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13398)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17006)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18269)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18570)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21347)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22111)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16839)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12549)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15321)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24564)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14214)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11630)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19682)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13405)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22793)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18989)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18450)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21609)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20524)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20001)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14048)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15002)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13785)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15096)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17228)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15286)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12811)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15866)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12973)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13127)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15016)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22618)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7145)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19348)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37654)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9158)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8648)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17868)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14864)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27019)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19911)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15251)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15475)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26777)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14556)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19677)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14618)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18648)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15916)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16334)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19351)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19721)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19888)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18600)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29783)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14556)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17745)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32401)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15253)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17289)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29739)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31514)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64680)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32787)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20212)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18498)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30789)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19901)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45882)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32573)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39330)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40421)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50103)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19089)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18543)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20686)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant