Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 05 - Sáu cõi

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10461)
Bài 05 - Sáu cõi

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 5]
SÁU CÕI

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Trích từ: Kalu Rinpoche. Luminous mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997.
(Tâm diệu minh thường trụ. Con đường của Phật).

Bởi ai và như thế nào các vũ khí của địa ngục được tạo ra?
Ai đã làm những nền địa ngục nóng rực?
Và từ nơi đâu những ngọn lửa của địa ngục?
Sakyamuni dạy
‘ Tất cả chúng đều sinh ra từ tâm bị vọng tưởng’
--- Tịch Thiên. Nhập bồ tát hạnh.
(Santideva. Bodhicaryavatara)

 

Về mặt phẩm tính, mỗi một trong sáu phiền não tâm ý làm phát triển một loại nhất định của sinh: sân hận dẫn tới một cõi địa ngục, tham đắm tới một cõi ngã qủy, ngu si tới một cõi súc sinh, tham ái dẫn tới thân phận con người, ganh tị đến cõi trời ganh tị, và kiêu hãnh tới những trạng thái cõi trời.

Về mặt lượng tính, những trạng thái khác nhau này hình thành kết quả từ sự tích tập của nghiệp.Thế nên, một số nghiệp tiêu cực lưu xuất một cõi địa ngục; nghiệp tiêu cực giảm đi một chút, cõi ngã qủy; và giảm thêm nữa, một cõi súc sinh.

Khi nghiệp tổng quát tích cực bị trộn lẫn với vài phương diện tiêu cực, chúng ta được tái sinh vào một trong ba cõi cao hơn của hiện hữu, tùy theo những sức mạnh tương ứng của những nghiệp này.

Cõi Địa Ngục 

Tâm trong sự nắm giữ của giận dữ và căm ghét tạo ra nghiệp của một đời sống trong địa ngục. Cái chịu đựng đau thương trong trạng thái địa ngục là tâm, tâm của chúng ta. Những hiện tướng giống như địa ngục, những hữu tình tấn công hoặc giết chúng ta, môi trường sinh sống, và tất cả đau thương hành hạ chúng ta trong cõi đó đều là những sản phẩm của chính tâm của chúng ta bị phan duyên do bởi nghiệp của chúng ta.

Trong những trạng thái địa ngục này, chúng ta bị thành chủ thể chịu khổ đau (= khổ chủ) một cách không thương xót (relentlessly tormented) chịu những đau thương không thể nghĩ tưởng được: chúng ta bị giết, và ở trong vài cõi địa ngục chúng ta trải nghiệm bị giết và lại bị giết nhiều lần; chúng ta bị tra tấn bởi cực nóng hoặc cực lạnh.Và chẳng có tự do cũng chẳng có bất kì khả hữu nào có một cái gì đó để hướng chúng ta tới thiền quán về tâm linh.

Cõi Quỷ Đói (=Cõi Ngã Quỷ)

Nếu tâm chúng ta sa xuống thành nạn nhân của tham lam hoặc thèm khát cái gì đó của kẻ khác, nghiệp hình thành kết quả là sinh vào trạng thái một quỷ đói. Trong trạng thái này, chúng ta chẳng bao giờ có thể có được cái chúng ta muốn, chúng ta cũng chẳng thể nào thọ hưởng thức ăn hoặc thức uống, những thứ này làm chúng ta thèm khát một cách thất vọng trong trạng thái những quỷ đói. Chúng ta luôn luôn đang thiếu thốn và mong cầu, vậy mà hoàn toàn không thể nào thoả mãn được những mong cầu của chúng ta, và chúng ta chịu khổ do đói, khát, và những ngăn trở mạnh mẽ liên tục. Nó cũng là một trạng thái tạo ra bởi chính tâm của chúng ta, tuy dễ chịu hơn cõi địa ngục một chút ít, nó vẫn hoàn toàn là khốn khổ.

Cõi Súc sinh

Tâm cũng có thể suy xụp do ảnh hưởng của sự không thể hiểu biết hoặc phán xét một cách rõ ràng, sự kém minh mẫn tâm ý (mental dullness), và sự ngu si, chúng khiến sinh vào trạng thái một con thú. Có rất nhiều chủng loại thú: những con thú hoang dã, những con thú nuôi trong nhà, trong trại, và v.v…Tất cả chúng trải nghiệm những hình tướng khác nhau của đau thương, chẳng hạn bị ăn tươi nuốt sống, chiến đấu chống lại một loài khác, hoặc bị phục tùng nô lệ và bị sai sử lạm dụng. Tất cả những sự đau thương tìm thấy trong cõi súc sinh cũng là sản phẩm của tâm và biến hiện của nghiệp đang hình thành kết quả từ những hành động tiêu cực trước kia.

Ba loại này của hiện hữu lập thành những trạng thái của cõi thấp hơn. Giữa chúng, thuận lợi nhất là trạng thái súc sinh.Nhưng ngay cả trong trạng thái đó, thật là rất khó đánh thức lòng từ bi và đại bi và không thể nào thực hành Pháp.

Trong cả ba cõi thấp hơn này, chẳng có khả hữu nào của thực hành Phápthành tựu thật chứng; tâm thì bị phiền động não loạn không ngừng bởi giận dữ, căm ghét, tham ái, và các thứ. Hơn thế nữa, những hữu tình cõi thấp hơn đều khuynh hướng làm những hành động thêm nhiều tiêu cực hơn nữa, chúng vẫn tạo ra nghiệp đau đớn nhiều hơn. Trong cách này, chúng làm kéo dài thêm, những hoàn cảnh phan duyên của những đời sống cõi thấp hơn, chúng, hơn thế nữa, tồn tục thời gian cực kì dài lâu.

Cõi Người

Thân phận con người là cõi thứ nhất của những hiện hữu cõi cao hơn. Người là những hữu tình duy nhất về mặt thực tế được sinh ra tự nhiên với những nhân duyên cần thiết cho tiến bộ tâm linh, cũng như những khả năng làm cho con người có thể thực hành và có hiểu biết sáng tỏ Pháp.Tuy nhiên, là người thì điều này không bảo đảm sự tiến bộ về tâm linh. Giá trị của đời sống con người thì rất biến đổi khác biệt, và chỉ những người đang nhận được hiện hữu làm người quý báu có thể thực hành Pháp; họ thì hiếm thấy như các ngôi sao ban ngày! Mặc dù đó là một thân phận ít đau đớn hơn so với những hiện hữu cõi thấp hơn, thân phận con người vẫn có nhiều loại đau thương, bốn loại chính là sinh, bệnh, già, và chết. Ngoài bốn cái nguồn chính của đau thương, con người chịu khổ đau khi họ phải xa cách những kẻ họ yêu thương trong những cảnh sinh li hoặc vào cảnh tử biệt hoặc họ phải quan liên với những kẻ họ không muốn quan liên hoặc kẻ gây tai hại cho họ. Con người chịu đựng đau khổ do mất các sở hữu của họ, do không giữ được cái họ đã thành công trong thâu đạt, và không đủ sức đạt được cái họ muốn.

Cõi Trời Ganh Tị

Cái nghiệp rất tích cực về toàn thể nhưng bị trộn lẫn với lòng ganh tị -- giận-dữ-cay-đắng-khi-có-đua-tranh – làm cho sinh vào cõi trời ganh tị. Đây là một trạng thái hạnh phúc sinh ra tự nhiên với nhiều năng lựclạc thú nhưng, bởi vì sức lực của ganh tị, có những cuộc tranh đấu liên tục và những xung đột. Những vị trời ganh tị chống đối những vị trời là những vị cao đẳng hơn của họ và tranh cãi với nhau.

Cõi Trời ( The Divine Realm)

Nghiệp tích cực kết hợp với một nghiệp chỉ có tiêu cực tí chút hình thành kết quả một tái sinh trong những trạng thái cõi trời. Có những mức độ khác nhau của hiện hữu cõi trời. Mức độ thứ nhất là những trạng thái cõi trời của cõi dục (dục giới; desire realm), được gọi như thế là vì tâm trong những cõi này vẫn là chủ thể đối với những dục và tham. Chư thiên (gods) có một đời sống cực kì dài: trong một cõi của những cõi trời thứ nhất, một ngày lâu bằng trăm-năm-trong-cõi-người-ta, và họ sống 500 năm trong cõi của họ.

Ở mức độ kế của những cõi trời, tuy vẫn trăm-năm-năm-trong-cõi-người-ta bằng một ngày của những ngày của họ, họ sống 1000 năm! Trong những cõi hạnh phúc nói chung này, tuy thế vẫn có các đau thương gây bởi những cuộc đấu tranh ngẫu nhiên với chư thiên của cõi trời ganh tị.

Những hiện hữu của cõi dục trải suốt từ những cõi khốn khổ nhất -- những cõi địa ngục – lên tới những cõi trời thứ nhất; tất cả những trạng thái này được đặt dưới sự kiểm soát của dục.

Vượt ngoài cõi dục, có có cõi sắc vi tế, gồm một cấp bậc những cõi trời kế tiếp nhau 17 mức độ. Những hữu tình trong những trạng thái này có một sắc tướng vi tế và những thân quang minh rộng lớn cực kì; những tâm của họ nhận biết một số những đam mê, một số những tâm niệm; và họ thọ hưởng những hạnh phúc rất lạ lùng. Cái đam mê nổi bật là kiêu hãnh vi tế -- những hữu tình trong những cõi này nghĩ họ đã thành tựu một cái gì cao thượng hơn, và họ sống trong một loại tự mãn nguyện.

Những trạng thái này của cõi sắc tương ứng với bốn mức độ của thiền định tâm nhất cảnh tính –tâm chỉ chuyên chú vào một đối tượng (These states of the form realm correspond to four levels of meditative concentration), đặc hữu bởi sự tiến bộ siêu việt của tầm (tìm), tứ (xét) , hỉ (mừng) và lạc (vui) (characterized by the progressive transcendence of investigation, analysis, joy, and bliss)

Cuối cùng, vượt ngoài luôn cả bốn mức độ của thiền định của cõi sắc, có thể được sinh vào cõi vô sắc. Những hữu tình cõi vô sắc không trải nghiệm đau thương khắc nghiệt và gần như không có những đam mê; họ chỉ ở trong một sắc tướng rất vi tế. Sự không thanh tịnh còn lại trong tâm họ chỉ là một loại kém minh mẫn tâm ý (a kind of mental dullness) nó chướng ngại sự thực chứng bản chất tối hậu của tâm.

Trong cõi vô sắc, tâm có lối vào tới bốn trạng thái kế tiếp nhau của tâm thức (tứ vô sắc định; tứ không định; tứ vô sắc) : Không vô biên xứ định (=không xứ định), Thức vô biên xứ định,

Vô sở hữu xứ định (= tư duy và an trụ tướng vô sở hữu), và Phi tưởng phi phi tưởng xứ định (= phi hữu tưởng phi vô tưởng định; định này không có tưởng minh thắng cho nên khác với Diệt tận định; cũng chẳng phải không có tưởng, cho nên khác với Vô tưởng định)

In the formless realm, the mind has access to four successive states of conciousness: absorption of infinite space, absorption of infinite consciousness, absorption of nothingness, and absorption of neither discrimination nor nondiscrimination.

Chư thiên của cõi vô sắccảm thọ của có một thân, nhưng thân này thì không thể nhận thức được. Chư thiên chỉ có uẩn thứ năm của tính cá biệt -- thức -- vẫn hiện diện trong trạng thái vô minh vi tế tạo cho họ cái cảm thọ của hiện hữu trong thân vô sắc này.Thức này cuối cùng tác hành trong trạng thái một người mẹ lại sinh ra những uẩn khác.Trong cách này, chư thiên của cõi vô sắc trở về các cõi thấp hơn.Để được thoát khỏi sinh tử lưu chuyển, thức chính nó phải được chuyển hoá một cách tối hậu thành bản trí, trí tuệ bát nhã của viên giác.

Tám trạng thái này của những cõi sắc và vô sắc thuộc về một tâm không tán loạn, tích cực; những giai đoạn kế tiếp của chúng thì xuất li tham luyến nhiều hơn giai đoạn trước. Tất cả những trạng thái này của sáu cõi sinh tử lưu chuyển đều có tính chuyển tiếp và phan duyên: chúng tất cả đều là bộ phận của bánh xe sinh tử lưu chuyển. Ngay dù chư thiên của những cõi sắc và vô sắc đều hiếm khi bị những hình thức khắc nghiệt của đau thương, họ vẫn làm chủ thể bị chết và chuyển cư xuyên cõi. Họ không có năng lực để ở lại trong thân phận cõi trời, và họ trải nghiệm đau thương phải tái sinh vào một cõi thấp hơn.

Nếu chúng ta thấy thật là khó chấp thuận quan niệm về những cõi khác nhau này, chúng ta hãy đơn giản nhớ rằng trải nghiệm của mỗi người đều là thật tại của kẻ ấy. Khi chúng ta đang chiêm bao, những chiêm bao của chúng ta trở thành thật tại của chúng ta, và sáu cõi cũng là như thế. Chẳng hạn, nước có thể được trải nghiệm theo những cách rất khác biệt nhau: đối với những hữu tình địa ngục, nước gây ra tra tấn hành hạ; đối với ngã qủy, nước được thèm khát hết mức tuyệt vọng; đối với một số thú vật nó là một phương tiện cần thiết cho đời sống; đối với người, nước là một thức uống; đối với chư thiên ganh tị, nước là một vũ khí; và đối với chư thiên, nước là cam lộ tối thượng. Những độ sâu của đại hải là môi trường sinh thái tự nhiên cho các loài cá, nhưng loài người không thể sinh sống nơi đó được. Những con chim có thể bay trong bầu trời, nhưng thân người không thể bay được. Những người mù không thể đi đến nơi nào họ muốn, trong khi những người có thị giác bình thường có thể di chuyển tùy ý. Mỗi hữu tình sống trong thế giới hoặc cõi của chính kẻ ấy mà không nhận thức được thế giới của những kẻ khác.

Như thế sinh tử lưu chuyển được tạo nên bởi ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.Tất cả những khả hữu của hiện hữu phan duyên đều bị gom vào trong sinh tử lưu chuyển.

Trở thành nhận biết sáng tỏ rằng tất cả hữu tình chịu đựng đau thương trong sinh tử lưu chuyển sẽ làm chúng ta ngưỡng mộ tự giải thoát chúng ta xuất li vô minh (= nhận biết sai lầm về thật tại) và xuất li kết quả của ngu si vô tríchúng ta biết và trải nghiệm quá nhiều và do từ xuất li vô minhxuất li kết quả của ngu si vô trí –thế nên chúng ta xuất li sinh tử lưu chuyển, là một đại hải của đau thương, và tinh tấn để thành tựu hạnh phúc tối thượng của trạng thái phật vô thượng giác.

Becoming aware that all beings suffer in this cycle of existence will inspire us to free ourselves from ignorance and the delusion we are steeped in as a result, and thereby to free ourselves from samsara, which is an ocean of suffering, and to strive to attain the supreme happiness of perfect buddhahood.

Trong quá khứ, chúng ta đã sinh với số lần không thể tính đếm trong sinh tử trầm luân. Ngày nay chúng ta là những con người; nếu chúng ta sử dụng cơ hội này một cách trí tuệ, nó có thể là điểm khởi hành cho sự giải thoát của chúng ta

-----------------------------------------------

Chú thích

[1] Kinh Lăng Già

Bản dịch Hán của Gunabhadra (394-468)

(Cầu na bạt đà la = Công Đức Hiền ).

Bản dịch Việt của Thích Duy Lực

Bồ tát Đại Huệ tán thán Phật

Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi
Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

----------------------------------------------

Bản dịch Hán của Thiệt Xoa Nan Đà.

Bản dịch Việt của Thích Nữ Trí Hải

 Thế gian lià sinh diệt
 Như hoa đốm hư không
 Trí không chấp hữu vô
 Hưng khởi tâm đại bi
 Vạn pháp đều như huyễn
 Xa lìa tâm và thức
 Trí không chấp hữu vô
 Hưng khởi tâm đại bi
 Thế gian thường như mộng
 Xa lià cả đoạn thường
 Trí không chấp hữu vô
 Hưng khởi tâm đại bi

[2] Đức Phật giảng về các pháp khôngtự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già

  • ( Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Anh của D. T. Suzuki, bản dịch Việt của Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập ( thể nghiệm ) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

[ 3 ] Những niềm vui và những đau thương trong cõi người.

Vũ Hoàng Chương

Sao lại thế được?

Các đây hai mươi năm, ngay khi bước vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của những người cầm bút, tôi đã nghe đại danh ông tú Phan Khôi, như sấm dậy vang tai. Nhưng phải đến năm Bính Tuất (1946), tôi mới có dịp cùng tiên sinh hạnh ngộ. Buổi nhất kiến thật như đã định trước bởi duyên trời.

Hôm đó, tiết cuối thu… Cái lạnh của miền Bắc đã thấm vào lòng một gã ưa thú họp bạn ngâm văn. Chịu không nổi nữa, tôi bèn lấy một chuyến xe lửa mà “giang hồ vặt” từ Nam Định lên Hà Nội…

Bước xuống ga Hàng Cỏ, tôi về trụ sở ban kịch Đông Phương. Ở đấy, tôi được tin các văn hữu Kinh kỳ đang tổ chức một buổi liên hoan rộng lớn, nhân dịp chào đón một số anh em từ miền Trung miền Nam mới ra.Tôi lấy làm tiếc lắm. Vì buổi họp bắt đầu những từ năm giờ chiều. Vậy mà lúc tôi đặt chân vào vỉa hè Hàng Lọng thì Ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.

Ngồi mạn đàm với hoạ sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện nghệ thuật chưa đi hết một tuần trà, tôi đã thấy lừng lững hiện lên từ cầu thang gác cái mũi khoằm khoằm rất cá biệt của anh bạn họ Nguyễn. Dáng điệu bí mật, anh trịnh trọng tuyên bố: “ Xin lỗi toàn thể ban kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ Quân đây…”

Cả bọn phá lên cười: “ Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!”

Thế là tôi cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường.

“ Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Đi chứ? ”

Rồi không đợi tôi trả lời, anh vẫy luôn một chiếc xe kéo, ra lệnh cho “cọp” lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi “ngự trị” của tác giả bài “ Nhớ Rừng”

Quả nhiên ông Phan đang có ý trông đợi! Cái phút nhìn mặt cầm tay đã hào hứng phi thường. Lần thứ nhất tôi cùng Phan Khôi hạnh ngộ.

Chiều hôm sau, thấy tôi ngỏ lời cáo biệt, tiên sinh trầm ngâm nửa khắc, rồi bảo : “Được, hai ta sẽ cùng đi.”

Tôi cười thầm tự nhủ : “ Gió đã lên!” Và bắt chước kiểu Nguyễn Tuân “ mượn tạm” tôi ở ban kịch Đông Phương, tôi cũng chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép ban kịch Thế Lữ cho mượn tạm ông Tú Khôi ít bữa.

Một già một trẻ, thẳng đường về bến Vị non Côi… Và , trong căn gác xép ở bờ sông, dài như cái ống, tối như cái “hũ Xuân Thu”, tôi đã tiếp chuyện Phan tiên sinh hai ngày tròn với hai đêm trắng; toàn chuyện văn chương cả, mà quái thay, dứt không ra nữa thôi!

Nguyên do: Buổi liên hoan tại Hà Nội, kịch sĩ Hoàng Cầm được ban tổ chức đề cử ra ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Nam Bắc. Tình cờ trong số bốn bài ấy lại có một bài của tôi. Bài Ca sông Dịch đó vậy! Thai nghén từ năm 1940, nó đã bị ban kịch Thế Lữ thúc đẩy “bằng đủ mọi phương tiện” để ra chào đời năm 1943, cốt mượn dùng làm khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc. Rồi chuyến này, chính nó đã khiến ông Phan Khôi “thú” tác giảnóng lòng muốn gặp mặt ngay…

Ấy là ông bảo thế! Chứ riêng phần tác giả, thì phải hiểu rằng người ta “thú” đây là “thú” cái tinh thần hào hiệp của anh chàng giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia!

Ồ ! Hiểu cách nào thì hiểu. Mặc ý tác giả! Điều ấy bất túc luận.Nhưng can hệ là cái cử chỉ kia đã nói lên những gì về “ con người của ông Phan Khôi ” ?

Thiết tưởng nó đã nói lên đủ lắm!

Còn chưa đủ ư ? Thì đây: suốt hai ngày đêm, trong cái dài dằng

dặc và cái tối mò mò của “gác ống” phố Bờ Sông, Phan Khôi đã cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc bén như chém đinh chặt sắt. Ông căm thù bạo lực, ông phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu. Ông có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tàng bất khuất, cộng thêm vào cái kiến thức sâu rộng của một tay lịch lãm giang hồ.Lắm lúc ông nói như gào như quát, sang sảng lạnh người.

“ Không thế được! Sao lại thế được ? Văn nghệ phải là văn nghệ! Thiếu tự do, thà ném đi! Cầm lấy một mũi nhọn khác! “

Phải chăng nào khi Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? – Không! Tôi tin rằng lòng phẫn nộ của Phan Khôi có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ “một đi” trên bến Dịch.

Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư ? Và năm ấy! Tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời.

Sau đó ít lâu… Khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Tôi vâng lệnh huyên đường tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài dằng dẵng, hết xuân rồi lại thu…Lòng nhớ bạn làng văn càng như thiêu như đốt. Bỗng một hôm, tôi nhận được từ Thái Nguyên gửi về không không phải là một lá thắm buông theo giòng nước biếc, nhưng một lá thư trao theo kiểu chim xanh…

Ngoài phong bì, chỉ có hai dòng: Vũ Hoàng Chương , Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi.

Thật không biết sao kể xiết được những cảm xúc của tôi lúc bấy giờ! Cảm xúc đến suýt quên rằng thư này chưa chắc tôi đã là người đầu tiên mở ra đọc. Thư rằng:

Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình
Tai mắt như không phải của mình
Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
Suối tiên đắm đuối bao cho chán
Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
Thú ấy từ lâu không có nữa
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh

Ôi! Câu phá đề sao nghẹn ngào u uất đến thế? Cả một giòng máu bị thắt nút đang sôi sục phá phách đòi tự do! Rất sẵn sàng vì tự do mà “lưu huyết”. Câu thừa đề mới lại mỉa mai não nuột đến đâu! Tai mắt “ không phải của mình”, hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào “ của mình ” được nữa ư ?

Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt loạn rồi ư ? Mà không “loạn” sao được “không phải của mình” kia mà! Đến như “suối tiên đắm đuối, khối mộng vờn mơn”, niềm khao khát tự do quả đã tuôn tràn đè chĩu khắp trang giấy.

Ôi! Hiển nhiên lắm rồi! Vì, đây là hai câu kết :

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh , dậy buồn tênh .

“ Thú ấy” là thú nào ? Nếu không phải cái thú tự docon người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng có khi!

Thế mà “từ lâu…” Trời hỡi! Niềm cảm xúc dâng cao. Tôi nằm dưới một túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan tiên sinh, mà cả một tâm sự như được cởi tung mở phắt. Một tiếng xướng phải có muôn tiếng họa! Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng vui nhận lấy văn chương làm nghiệp dĩ hay sao ?

Cho nên tôi đã họa nguyên vần của bài thơ luật thi của Phan tiên sinh và đã gửi đi tức khắc … Tính ông Phan Khôi nóng như lửa, nếu giữa khoảng tiếng xướng họaim lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là tôi đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó!

Bài họa vần như sau:

Trời vô tâm quá, đất vô tình…
Biết gửi vào đâu cái “chính mình” ?
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Màu đen lại ngả xuống màu xanh
Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành
Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc !
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh.

Thơ trao đi, lòng còn thắc mắc. Cho mãi đến giờ phút này!

Không biết hồi đó Phan tiên sinhtiếp nhận được chăng ? Mà từ đấy biệt vô âm tín

Vũ Hoàng Chương

( Ta Đã Làm Chi Đời Ta.

Cơ sở xuất bản Trương Vĩnh Ký , Saigon .

Dẫn theo Hợp Lưu , Tân niên Đinh sửu 1997, số 33)

[4] Những đau thương cõi người: “ để cho ông vải con được yên ba ngày tết”

“ Nhân sực nhớ đến chiều ngày 30 tết năm nọ, hàng phố đã đóng cửa, các nhà đã lên đèn, pháo đã bắt đầu nổ lác đác ở vài nơi, chợt đi qua trước một cái miễu nhỏ ở phố kia, thấy một người đàn bà quần nâu áo vải đương cầm mấy nén hương lum khum vừa khấn vừa vái, khấn một cách thiết tha và nói to như người kêu trước cửa quan:

“ Tấu lạy Đức Thánh Mẫu, thân con cực khổ trăm đường, nay là tối ba mươi rồi, chạy chợ cả ngày không được mấy hào bạc, mà chồng ở nhà chỉ cờ bạc rượu chè, tối về không có tiền cho nó thì nó đánh nó chửi.

Tấu lạy Thánh Mẫu, xin Thánh Mẫu phù hộ cho chốc nữa về nó đừng hành hạ để cho ông vải con được yên trong ba ngày tết…”

( Phạm Quỳnh . Pháp du hành trình nhật kí, viết 1922, đoạn này kể chuyện tác giả mới quan sát tín ngưỡng xứ người vừa bước ra khỏi một nhà thờ ở Paris, nhớ đến cảnh xứ ta..)

[5] Ngã qủy ; Skt. preta

Hungry ghost là từ Anh ngữ dịch từ Ngã qủy chữ Hán.Nhiều bản Anh thường dùng từ Sanskrit: preta; pretas; pretan. Preta là một hữu tình (chúng sinh) có sinh-thân (life-form) xếp hạng theo bánh xe sinh thân ( the wheel of life-forms—the Buddhist ‘ great chain of being’ ) giữa các hữu tình cõi địa ngục và những súc sinh. Preta không phải là những con ma, bóng ma, vì chúng có thân thể của đời sống thực và không bị mắc kẹt trong thân trung hữu lang thang cõi đời sống trước đây (miêu tả của Phật giáo về ma || ghosts). Chúng nhất định là có đói và khát, bản chất của đời sống của chúng là những hình tướng của những cực kì không thoả mãn và sự thèm khát bị thất vọng. Không có một từ thích hợp để miêu tả sinh vật khốn khổ này, nên giáo sư R.A.F. Thurman dùng từ pretan

( trích từ Tibetan Book of The Dead. Robert A F Thurman, 1994) 

[6] Tâm, Thật Tại và Huyễn Tượng (Mind, Reality and Illusion)

chủ đề 1, có 6 bài:

[ Bài 1] : Viên giác và Huyễn tượng là hai trạng thái của một tâm.

[ Bài 2] : Bản chất của Tâm

[Bài 3] : Những Che Lấp của Tâm

[Bài 4] : Cuộc Chơi của Huyễn Tượng

[Bài 5] : Sáu Cõi

Và bài Nhị Đế.

Vậy độc giả nên đọc bài Nhị Đế của Kalu Rinpoche [vốn là bài 6] là đọc xong Chủ Đề 1—Tâm, thật Tại và Huyễn Tượng, và đọc bài –Kalu Rinpoche – Tính Không, Tâm của Đại Bi để bổ sung cho chủ đề 1.

Ở cuối các bài này đều có bản Anh ngữ .

-----------------------------

Chủ đề 1 thuộc về Phần 1—Tâm và những biến hoá của Tâm (Mind and its transformations) của quyển giáo pháp tập biên (compiled Anthology of Teachings) – Tâm Diệu Minh Thường Trụ. Con Đường của Phật.

Phần 1 có 2 chủ đề . Chủ đề 2 là Những biến hoá của Tâm: Những đời sống, Những cái chết, Những tái sinh ( The transformations of Mind: Lives, Deaths, Rebirths)

----------------------------

[7] Các bài đọc thêm

Độc giả cũng nên đọc thêm 3 bài trên Thư viện Hoa sen:

1. Kim cương đạo sư Liên Hoa Sinh . Chỉ giáo Tinh Yếu Thánh Pháp để tự giải thoát vào thời điểm chết và trong trung hữu .

2. Pháp quán Đại Bi.Asanga. Ngài Vô Trước.

3. Kim Thánh Thán. Trùng tuyên kinh Phật hoá Tôn đà la nan đà nhập đạo.

----------------------------------

[8] A short list of English -- Sanskrit Buddhist Terms

Awareness; Skt. buddhi; vidya

Intuition: intuitive wisdom ; Skt. jnana

Consciousness; Skt. jnana;vijnana

Conceptual conciousness; conceptual thought;

thought consciousness; thought; < Skt.kalpana

Mind; Skt. citta ; manas

Wisdom; Skt. prajna

Exalted wisdom; Skt.jnana

Wrong consciousness; Skt. viparyaya-jnana

Thing ; Things; Skt. dharma

Ignorance; fundamental ignorance; Skt. avidya

Contaminated; Skt.sasrava

Contamination; Skt. asrava

Uncontaminated; Skt. anasrava

Obstructions to omniscience; Skt. jneyavarana

Obstructions to liberation; afflictive obstructions;

Skt.klesavarana

Afflictions; disturbing emotions; dissonant mental states; Skt.klesa

Perceiver; Skt. vijnana

Knower; Skt. samvedana

Prime cognizer; Pramana

Subject; Skt. dharmin

Object; Skt.visaya

Real; Skt. samyak

Appearance; Skt.pratibhasa

Appearing object ; Skt.pratibhasavisaya

Deceit; Skt. maya

Sentient being. Skt. sattva

Seed ; Skt. bija

Self; Skt. atman

Selflessness; Skt.nairatmya

Valid cognition; Skt. pramana

Condition; Skt. pratyaya

Compositional phenomena; Skt. samskara

Calm abiding; Skt. samatha

Concentration; Skt. dhyana

Meditative stabilization; Skt. samadhi

Momentary; Skt. ksanika

I; Skt. aham

Mine; Skt . mama

Understanding arisen from thinking; Skt.cintamayi

Special insight; Skt. vipasyana

Stabilization; Skt. samadhi

Delusion; Skt. moha; [ si; vô minh ; vô trí; ] Skt. mudha

Absorption; Skt. samapatti

Buddha - attributes. Skt . guna. Đức. Những tuỳ tính.

[Thuật ngữ Sanskrit viết không đủ các dấu –vì tôi không có software viết chữ Sanskrit—nên bảng này chỉ có mục đích giúp độc giả dễ hiểu các từ Anh ngữ khi biết từ Sanskrit tương đương, và giúp dễ tìm ra từ Việt tương đương.]

 

Kalu Rinpoche
The Six Realms
By whom and how were the weapons of hell created?
Who made its blazing floors?
And from where are its flames?
Sakyamuni taught
“ All these are born of the deluded mind”
-- Santideva, Bodhicaryavatara

-----------------

Qualitatively, each of the six mental afflictions engenders a certain type of birth: hatred leads to a hell realm, greed to a hungry ghost realm, stupidity to an animal realm, desirous attachment to the human condition, jealousy to the jealous god realm, and pride to the divine states.

Quantitatively, these different states result from the accumulation of karma. So, a lot of negative karma generates a hell realm; a little less negative karma, the hungry ghost realm; and less than that, an animal realm.

When generally positive karma is mixed with a few negative aspects, we are reborn in one of the three higher realms of existence, according to the respective strenghs of these karmas.

The Hell Realm

Mind in the grip of anger and hatred produces the karma of a life in hell.What suffers in that hellish state is the mind, our mind. Hellish appearances, beings who attack or kill us, the environment, and all the suffering that afflicts us in that realm are productions of our own mind conditioned by our karma.

In these infernal states, we are relentlessly tormented by inconceivable suffering: we are killed, and in some hell realms we experience being killed over and over; we are tortured by extreme heat or cold. And there is no freedom nor any possibility whatsoever to dedicate ourselves to spiritual practice.

The Hungry Ghost Realm

If our mind falls prey to greed or covetousness, the karma that results is birth as a hungry ghost. In this state, we can never get what we want, nor can we enjoy food or drink, which we desperately crave as hungry ghosts. We are always lacking and wanting, yet completely unable to satisfy our desires, and we suffer from hunger, thirst, and constant intense frustrations.It is also a state produce by our own mind and, though a little less unfavorable than the hell realm, it is just as miserable.

The Animal Realm

The mind can also fall under the sway of blindness, mental dullness, and stupidity, which cause birth as an animal. There are a great many animal species: wild animals, domestic animals, and so on.All of them experience different forms of suffering, such as being eaten alive, struggling against one another, or being subservient and abused. All the suffering found in the animal realm is also the production of the mind and the manifestation of karma resulting from previous negative actions.

These three types of existence make up the lower–realm states. Among them, the most favorable is the animal state. But even in that state, it is very difficult to awaken love and compassion and impossible to practice Dharma.

In all of these lower realms, there is no possibility of practicing Dharma and attaining realization; the mind is constantly disturbed by anger, hatred, desire, and so on. Moreover, lower-realm beings tend to perform more negative actions, which create still more painful karma. In this way, they perpetuate the conditioning of lower-realm lifetimes, which , furthermore, last an extremely long time.

The Human Realm

The human condition is the first of the higher-realm existence. Humans are practically the only beings endowed with the necessary conditions for spiritual progress, as well as the faculties that allow the practice and understanding of Dharma. However, being human does not guarantee spiritual progress. The value of human life is variable, and only those who have obtained what we call the precious human existence can practice Dharma; they are as rare as stars in the daytime!

Although it is a less painful condition than lower-realm existence, the human condition still has many types of suffering, the four main kinds being birth, illness, aging, and death. Aside from these four great sources of suffering, humans suffer when separated from those they dearly love during their lifetimes or at death, or from having to deal with people whom they do not wish to deal with or who are hostile toward them. Humans suffer from losing their belongings, from not being able to keep what they have managed to acquire, and from not being able to get what they want.

The Jealous God Realm

Karma that is very positive overall but mixed with jealousy causes birth in the jealous god realm. This is a happy state endowed with many powers and pleasures but, because of the force of jealousy, there are constant struggles and conflicts. Jealous gods oppose gods who are their superiors and quarrel among themselves.

The Divine Realm

Positive karma combined with very little negative karma results in a rebirth in divine states. There are different levels of divine existence. The first are the divine states of the desire realm, so called because mind in those realms is still subject to desires and attachment. These gods have an extremely long life: in one of the first god realms, one day lasts the equivalent of a hundred human years, and they live five hundred of their years. At the next level of the divine realms, one hundred of our years equal one of their days, and they live a thousand years! In these generally happy realms, there is nevertheless some suffering, caused by occasional struggles with the gods of jealous god realm.

Desire-realm existences span from the most miserable realms—the hell realms – up to these first god realms; all these states are under the control of desire.

Beyond the desire realm, there is the subtle-form realm, which includes a hierarchy of seventeen successive divine levels. Beings in these states have a subtle-form and extremely large, luminous bodies; their minds know few passions, few thoughts; and they enjoy incredible happiness. The predominant passion is subtle pride -- beings in these realms think they have attained something higher, and they live in a sort of self-satisfaction.

These states of the form realm correspond to four levels of meditative concentration, characterized by the progressive transcendence of investigation, analysis, joy, and bliss.

Finally, beyond even these four levels of concentration of the form realm, there can be birth in the formless realm. Formless-realm beings experience no harsh suffering and have virtually no passions; they remain only in a very subtle form. The impurity remaining in their minds is a kind of mental dullness that prevents the realization of the ultimate nature of mind .

In the formless realm, the mind has access to four successive states of consciousness: absorption of infinite space, absorption of infinite consciousness, absorption of nothingness, and absorption of neither discrimination nor nondiscrimination.

The gods of the formless realm have the feeling of having a body, but this body is imperceptible. They have only the fifth aggregate of individuality – consciousness – still present as a subtle ignorance which gives them the feeling of existing in this formless body. This consciousness finally acts as a mother who gives birth again to the other aggregates. In this way, the gods of the formless realm return to the lower realms. In order to be free from samsara, consciousness itself must ultimately be transformed into primordial wisdom, the wisdom of enlightenment.

These eight states of the form and formless realms belong to a positive undistracted mind; their successive stages are progressively free of attachment. All of these states of the six realms of samsara are transitory and conditioned: they are all part of the wheel of samsara. Even though the gods of of the form and formless realms are spared the harsher forms of suffering, they still undergo death and transmigration. They don’t have the power to remain in the divine condition, and they suffer having to be reborn in a lower realm.

If we find it difficult to accept the notion of these different realms, let us simply remember that everyone’s experience is his or her reality. When we are dreaming, our dreams become our reality, and so it is for the six realms. For example, water can be experienced in very different ways: for hell beings, it causes torture; for hungry ghosts, it is desperately craved; for some animals, it is a medium necessary for life; for people, it is a drink; for jealous gods, it is a weapon; and for gods, it is a sublime nectar. The depths of the ocean are the fish’s natural habitat, but humans cannot live there. Birds fly in the sky, but this is impossible for the human body. People who are blind cannot go where they want, while those who have normal vision can move around freely. Everyone lives in his or her own world or realm without perceiving the others.

So, samsara is made up of three realms: the desire realm, the form realm, and the formless realm. All the possibilities of conditioned existence are included in it.

Becoming aware that all beings suffer in this cycle of existence will inspire us to free ourselves from ignorance and the delusion we are steeped in as a result, and thereby to free ourselves from samsara, which is an ocean of suffering, and to strive to attain the supreme happiness of perfect buddhahood.

In the past, we have taken countless births in cycle of existence. Today we are human beings: if we use this opportunity wisely, it can be the point of departure for our liberation.

---------------------------------------------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha.
Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37864)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18660)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9496)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35559)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10650)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19696)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10743)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20200)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9955)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14868)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17593)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31156)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25744)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13976)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17500)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10970)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12287)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10463)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12264)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11755)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12350)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9951)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14412)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9898)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10965)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14081)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15201)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13035)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23974)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15421)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15046)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16546)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16088)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11583)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17821)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10776)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9672)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10238)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14650)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15935)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15563)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12996)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14571)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18511)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18580)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19011)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18829)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11827)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13334)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47977)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11062)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13545)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11057)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12547)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11046)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31765)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11658)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant