Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 06 - Nhị Đế

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10630)
Bài 06 - Nhị Đế

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 6]

NHỊ ĐẾ
Kalu Rinpoche
Dịch giả: Đặng Hữu Phúc

Giáo Pháp của Phật căn cứ vào nhị đế:

Tục đếchân đế.[8]

Những ai không hiểu biết sáng tỏ sự khác biệt giữa nhị đế,

Thì không hiểu biết sáng tỏ chân lý thâm sâu của Phật.[9]

Chân đế không thể được giảng dạy khi không có căn bản về tục đế;

Không thực chứng lý nghĩa của chân đế, Niết bàn không thể đạt được.[10]

Nagarjuna. Trung luận XXIV, 8 – 9 – 10.

Niềm tin bị nhầm lẫn, tạo nên nhân duyên đau thương cho tất cả hữu tình trong luân hồi sinh tử, sinh khởi từ vô minh. Vô minh, đó là sự thiếu vắng nhận thức sáng tỏ về tính không hiện hoạt của tâm và những sản phẩm của tâm. Thật ra, niềm tin bị nhầm lẫn là không biết đúng về cách thế hiện hoạt của hiện hữu của tất cả sự sự vậtvật.

(The mistaken belief that painfully conditions all beings in cyclic existence arises from ignorance. That ignorance is an absence of awareness about the actual emptiness of the mind and its productions. In fact, the mistaken belief is ignorance about the actual mode of existence of all things.)

Tất cả sự sự vật vật, tất cả các hiện tượng, tất cả các đối tượng của nhận thức –đó là vũ trụ bên ngoài và tất cả hữu tình của nó, mỗi sự sự vật vật chúng ta kinh nghiệm xét theo hình tượng, âm thanh, vị, hương, những đối tượng xúc chạm và những đối tượng của nhận thức tâm ý– tất cả những cái chúng ta là và mỗi sự sự vật vật chúng ta có thể biết, biến hiện bởi năng lực của các tập khí của tâm, mà những biến hiện này về mặt tự tính đều trống thông (empty).

Tâm thì chẳng hiện hữu cũng chẳng không hiện hữu. Cũng giống như thế, các hiện tượng tâm tạo ra chẳng hoàn toàn hư huyễn cũng chẳng hoàn toàn thật. Như chúng ta thông thường kinh nghiệm chúng, chúng thì tương đối thật, nhưng từ toàn cảnh khách quan tối hậu, thật tại tương đối đó thì hư huyễn. (illusory)

(The mind is neither existent nor nonexistent. Likewise, the phenomena it produces are neither completely illusory nor completely real. As we ordinarily experience them , they are relatively real, but from an ultimate perspective, that relative reality is illusory.)

Nhị đế

Tất cả sự sự vật vật có thể được nhìn xét theo hai mức độ của thật tại: mức độ tương đối hoặc quy ước (thế tục) và mức độ tối hậu. Hai chân lý này tương ứng với hai quan điểm tri kiến, hai năng lực tri kiến của thật tại: chân lý hoặc tri kiến tương đối thì thật một cách tương đối hoặc quy ước nhưng hư huyễn một cách tối hậu, và chân lý hoặc tri kiến tối hậu thì thật một cách quyết định, kinh nghiệm chân thật vượt ngoài tất cả huyễn tượng.

(All things can be viewed according to two levels of reality: the relative or conventional level and the ultimate level. These two truths correspond to two points of view , two visions of reality: the relative truth or view is relatively or conventionally true but ultimately illusory, and the ultimate truth or view is definitely true, the authentic experience beyond all illusion.)

Tất cả các nhận-thức có tính sinh tử trầm luân (all samsaric perceptions) là những kinh nghiệm của chân lý tương đối (chân lý thế tục, tục đế). Niết bàn, vượt ngoài tất cả những huyễn tượng và đau thương của sinh tử trầm luân là mức độ của chân đế.Thế nên, tỉ dụ, những kinh nghiệm của một hữu tình thuộc cõi địa ngụchoàn toàn thật từ quan điểm tri kiến tương đối, trong khi đó từ một toàn cảnh khách quan tối hậu những nhận thức này là hư huyễn. Điều này nghĩa là một hữu tình tìm thấy chính mình ở trong một cõi địa ngục thực sự đang kinh nghiệm những đau thương nơi đó: từ toàn cảnh khách quan của nó, những kinh nghiệmđau thương là thật và hoàn toàn có vẻ địa ngục. Nhưng từ một quan điểm tri kiến tối hậu, địa ngục chẳng hiện hữu gì cả; nó về mặt hiện hoạt chỉ là một phóng chiếu, một sản phẩm của cái tâm lệ thuộc nhân duyênbản chất của tâm này là tính không.

Đau thương đến từ không nhận định được tính không của sự sự vật vật, nên tạo ra cho chúng một thật tại với những thuộc tính mà chúng không thật sự có. Sự chấp thủ vào sự sự vật vật như là thật làm chúng ta thành những chủ thể những kinh nghiệm đớn đau.

(Suffering comes from not recognizing the emptiness of things , which results in our attributing to them a reality that they don’t actually have. The grasping at thing as real subjects us to painful experience.)

Chúng tathể đạt được một sự nhận biết sáng tỏ hơn về sự vụ này bằng một tỉ dụ về một chiêm bao. Khi một kẻ có một ác mộng, kẻ đó chịu đựng đau thương. Đối với kẻ chiêm bao, ác mộng thì thật; thật ra nó là thật tại duy nhất kẻ chiêm bao nhận biết. Và cho đến thời điểm đó chiêm bao không có một thật tại có thể sờ mó được và không thật sự ‘thật’; nó không có một thật tại ở bên ngoài chính cái tâm bị lệ thuộc vào nhân duyên, ở bên ngoài cái nghiệp (=hành động) của chính kẻ đó. Từ một toàn cảnh khách quan tối hậu, thật ra nó là một huyễn tượng. Huyễn tượng của kẻ chiêm bao là không nhận định được về bản chất của những kinh nghiệm của mình. Không biết đúng thật về những gì chúng thật sự là (= thật tướng), kẻ chiêm bao lấy những sản phẩm của chính mình –những tạo tác của chính tâm mình – làm một thật tại tự trị; như vậy đã bị dẫn dắt điên đảo, kẻ đó bị sợ hãi bởi chính những phóng chiếu của chính mình và bằng vào những phương tiện đó tạo ra những đau thương cho chính mình. Vọng tưởng đưa đến nhận thức lấy làm thật cái thực sự không thật. (The delusion is to perceive as real what actually not).

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy rằng tất cả các cõi sinh tử trầm luân hoặc hiện hữu lệ thuộc nhân duyên, tất cả sự sự vật vật, tất cả những kinh nghiệm của chúng ta là, nói chung, những hiện tướng hư huyễn chúng không thể được xem xét như là hoặc thực sự thật hoặc hoàn toàn hư huyễn. Ngài đã biểu tỏ rõ ràng tính nhị nguyên tương đãi này bằng cách dùng cái tỉ dụ sự hiện tướng của mặt trăng trên bề mặt của của một khối lượng nước:

Bản chất của tất cả sự sự vật vật và tất cả các hiện tướng

Thì giống như sự phản chiếu của mặt trăng trên nước.

Mặt trăng được phản chiếu trên mặt hồ nước đều thật cho tới bao lâu nó có thể thấy được ở đó, nhưng thật tại của nó chỉ là một hiện tướng tương đối, hư huyễn, bởi vì mặt trăng trên nước chỉ hoàn toàn là một phản chiếu. Nó thì chẳng thực sự thật, cũng chẳng hoàn toàn hư huyễn. Từ toàn cảnh khách quan này, chúng ta có thể nói đến chân lý tương đối (tục-đế) như là chân lý của các hiện tướng. (It is neither truly real nor completely illusory. From this perspective, we can refer to relative truth as truth of apperances).

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng những tỉ dụ khác, nói rằng tất cả các sự sự vật vật thì giống như một phóng chiếu, một ảo tượng, một cầu vồng, một cái bóng, một ảo ảnh sóng nắng, một hình ảnh trong gương,và một âm vang; ở bên ngoài một hiện tướng đơn thuần kết quả từ “sự vận hành” của các yếu tố vô tận duyên khởi, không một sự sự vật vật có hiện hữu ở trong, của, hoặc bởi chính nó.

(Buddha Sakyamuni used other examples , saying that all things are like a projection, a hallucination, a rainbow, a shadow, a mirage, a mirror image, and an echo; outside of a simple apperance resulting from the “functionality” of interrelated factors, no thing has existence in, of, or by itself.)

Nó có thể giúp chúng ta thực sự hiểu biết điều này, bởi vì, mặc dầu chúng không có hiện hữu chân thực, chúng ta gắn bó với những sự sự vật vật này như là chúng đều thật. Mục đích giáo pháp của Phật là để làm tan biến sự chấp thủ này, vì nó là nguồn gốc của tất cả các huyễn tưởng và nó cầm giữ chúng ta chặt chẽ cũng như nghiệp duyên của chính chúng ta.

Nghiệp, Tương liên tùy thuộc, và Tính Không

(Karma, Interdependence, and Emptiness)

Trong ý niệm về nghiệp, không có quan-niệm về sự quyết định tiền định (notion of destiny) hoặc chủ- thuyết tiền định (fatalism) ; chúng ta chỉ gặt hái cái chúng ta gieo trồng.Chúng ta kinh nghiệm các kết quả của các hành động của chính chúng ta.Quan-niệm về nghiệp liên kết mật thiết với quan-niệm về duyên khởi (dependent arising) hoặc tendrel trong Tạng ngữ.Vòng nối của nghiệp cũng là sự tương liên tác động của tendrel, hoặc các yếu tố tương liên tùy thuộc tạo các nhân và các quả sinh khởi một cách hỗ tương tới một cái khác.

Từ Tạng ngữ tendrel có nghĩa sự tương liên tác hành , sự tương liên liên kết, sự tương liên liên hệ, sự tương liên tùy thuộc, hoặc các yếu tố tương liên tùy thuộc. (interaction, interconnection, interrelation, interdependence, or interdependent factors). Tất cả sự sự vật vật, tất cả những kinh nghiệm của chúng ta, là tendrel, nghĩa là nói rằng chúng là những pháp (events) chúng hiện hữu bởi vì sự liên hệ giữa các yếu tố tương liên liên hệ. Ý niệm này có tính tinh yếu đối với sự nhận biết sáng tỏ Pháp trong tổng quát và, trong đặc thù, tâm di cư qua lại các cõi trong sinh tử luân chuyển như thế nào.

Để hiểu tendrel hoặc duyên khởi là gì, hãy lấy một tỉ dụ. Khi bạn nghe âm thanh của một cái chuông, hãy hỏi chính bạn, Cái gì làm ra âm thanh? Có phải thân của chuông, cái lưỡi chuông (clapper), bàn tay di chuyển chuông tới lui, những cái tai nghe âm thanh?

Không có riêng một trong những thành phần này tạo ra âm thanh; nó kết quả từ sự tương liên tác động của tất cả những yếu tố này. Tất cả các thành phần này thì cần thiết cho âm thanh được nhận biết, và chúng thì cần thiết không phải kế tiếp nhau nhưng một cách đồng thời. Âm thanh là một pháp (event) mà hiện hữu của nó tùy thuộc sự tương liên tác động của những thành phần này; đó là tendrel.

Tương tự, tất cả những đời sống đã điều kiện hoá (conditioned; lệ thuộc nhân duyên; điều kiện hoá), tất cả các hiện tượng sinh tử lưu chuyển, kết quả từ vô số những tương liên tác động thuộc vào 12 mối nối của duyên khởi. Mười hai thành tố này làm sinh khởi các thành tố khác một cách hỗ tương. Đó không phải là mỗi một thành tố làm cho một thành tố xảy ra trong thời gian kế tiếp; như với tỉ dụ cái chuông, chúng thì đồng thời và đồng hiện hữu. Một điều cần thiết là 12 thành tố hiện diện cùng một thời điểm để tạo ra một hiện hữu điều kiện hoá. Vòng kiềm toả nhân quả của những thành tố tương liên tùy thuộc này lưu xuất huyễn tượng là hành động của sinh tử lưu chuyển. Mỗi sự sự vật vật trong sinh tử lưu chuyển là sự tương liên liên hệ nghiệp duyên; tất cả những kinh nghiệm của chúng tatendrel.

(The bondage of causes and results of these interdependent factors that generate illusion is the action of samsara. Everything within samsara is karmically conditioned interrelationship; all our experiences are tendrel.)

Chân lý của những hiện tướng được tạo lập bởi vòng kiềm toả của những duyên khởichân lý quy ước hoặc chân lý nhị nguyên tương đãi. (The truth of appearances created by bondage of dependent arisings is conventional or dualistic truth). Đây là cách chúng ta thông thường sinh sống như thế nào.Nó được nghiệp cai trị. Chúng ta gọi bản chất rỗng thông của cái hiện hữu ở mức độ tương đốichân lý tối hậu. Sự hiểu biết thực sự duyên khởi cho phép chúng ta vượt ngoài sự điều kiện hoá của mức độ tương đối hoặc quy ước và đạt được tịch lạc và tự do của trạng thái vô vi (=vô-duyên) (peace and freedom of unconditionality). Khi bạn hiểu duyên khởi một cách hoàn toàn, bạn cũng hiểu tính không. Và tính khôngtự do.

(The empty nature of what exists at the relative level is what we call ultimate truth. Truly understanding dependent arising allows us to go beyond the conditioning of the relative or conventional level and to attain peace and freedom of unconditionality. When you completely understand dependent arising, you also understand emptiness. And that is freedom.)

Thế nên, trí tuệ hoặc nhận thức thì về căn bản không cách biệt với như huyễn. Đó là tại sao thường nói luân hồiniết bàn không khác nhau và rằng một hình tướng của trí tuệ thì tiềm ẩn trong vô minh. Lý luậnsuy lý một cách tối hậu đưa đến những biểu từ như thế, chúng xuất hiện có vẻ mâu thuẫnnghịch lý. Lý luậnsuy lý có thể tiếp tục mãi mãi. Chúng là một phần của tiến trình luân hồi và dẫn tới những mâu thuẫn một cách tối hậu. Tuy nhiên, vì chúng là những công cụ đem tới thật chứng chân lý, chúng đều hữu ích và không nên bị loại bỏ, ngay cả nếu (biết rằng) cuối cùng chúng được buông bỏ vào thời điểm thật chứng tính không.

Nhưng hãy cẩn thận. Sự hiểu biết sáng tỏ đúng đắn của tính không thì không là đoạn diệt. Nếu chúng ta quyết định rằng mỗi sự sự vật vật thì trống không và không có một thật tại, rằng phật quả không có hiện hữu thật sự, rằng nhân quả nghiệp duyên thì trống không, và rằng thế nên chẳng có gì mà phải bận lòng, đây là một quan điểm đoạn diệt, và quan điểm này tệ hại hơn cả quan điểm nhận sự sự vật vật tương đối thì hiện hữu thật sự.

Những ý niệm đoạn diệt là một sai lầm nghiêm trọng nhiều hơn những ý niệm duy thực chủ trương hiện tượng hiện hữu như chúng hiện tướng.

Sự hiểu biết sáng tỏ đúng đắn của tính không nằm ở giữa hai cực đoan của chủ thuyết thường hằng (tin tưởng sự sự vật vật có tự tính hoặc thực sự hiện hữu) và chủ thuyết đoạn diệt (tin tưởng chúng chẳng hiện hữu gì cả). Tri kiến trung đạo này loại bỏ những ý tưởng sai lầmcho phép chúng ta vượt trên những quan niệm hữu niệm hóa về thật tại một cách tối hậu. Nhưng hãy coi chừng: kiến chấp về tính không đóng kín cánh cửa đi tới giải thoát. (To conceive of Emptiness closes the door to liberation). [Kiến chấp về tính không = tin rằng các pháp đều hiện hữutự tính].

Và Ngài Long Thọ đã nói (Trung luận XIII.8):

Những ai kiến chấp về tính không (rằng các pháp có tự tính) thì sai lầm không thể cứu chữa được. (Those who conceive of emptiness are incurable.)

Ghi chú

1. Theo Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch. Hội Văn Hoá Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản năm 2000. [Bộ 6 quyển -7374 trang-và quyển mục lục.]

[1.1] Đệ nhất nghĩa đế || Phạn: Paramartha-satya || Pali:Paramattha-sacca. Gọi tắt: Đệ nhất nghĩa. Cũng gọi: Thắng nghĩa đế, Chân đế, Thánh đế, Niết bàn, Chân như, Thực tướng, Trung đạo, Pháp giới. –Đối lại với Tục đế.||

Chân lí sâu xa màu nhiệm vượt trên tất cả pháp. Là một trong hai đế.

Học phái Trung quán thì cho rằng các bậc Thánh hiền hiểu rõduyên khởi tính không và thấu suốt sự nhận thức điên đảo của thế tục, cái thấu suốt ấy là đạo lí Chân thực, gọi là Chân đế.

Đại thừa thì chủ yếu dựa vào Chân đếTục đế để điều hoà sự đối lập thế gianxuất thế gian, rồi dung hợp 2 đế mà quán xét hiện tượng, gọi là Trung quán, Trung đạo, là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của Đại thừa.

Ngoài ra, Thiền lâm thường dùng Đệ nhất nghĩa đế để diễn tả cảnh giới tuyệt đối không thể nghĩ bàn.

[1.2] Tục đế || Phạn: Samvrti-satya. Cũng gọi: Thế tục đế, Thế đế, Hữu đế || Đối lại: Chân đế.|| Chỉ cho lí sinh diệt có thật được thuyết minh thuận theo sự hiểu biết của thế tục. || Chữ “Thế” trong thế tục đế, tiếng Phạn có nghĩa là hoại diệt, tức là các pháp hữu vi đều có tướng hoại diệt. Còn chữ “Tục” thì có nhiều nghĩa. 1.Nghĩa không biết hoặc không rõ: Tức không biết hoặc không rõ nghĩa chân thực của các pháp. 2.Nghĩa ngăn che: Do năng lực của vô minh ngăn che nghĩa chân thật của các pháp. 3.Nghĩa nương tựa nhau: các pháp hữu vi đều nương tựa vào nhau để tồn tại. 4. Nghĩa biểu diễn rõ ràng: Tức danh tự ngôn ngữ của thế gian có khả năng diễn bày tính, tướng các pháp một cách rõ ràng khiến người ta dễ hiểu.

Chữ ‘Đế’ là chân lí bất biến. Phú tục đế xưa gọi là Thế tục đế, nghĩa bất tận. Ý nói việc tục che lấp chân lí kia.

2. Theo Geshe Kelsang Gyatso, Joyful Path of Good Fortune – The Complete Buddhist Path to Enlightenment. 1997. 636pp.

Vô minh (Skt: avidya || ignorance; fundamental ignorance)

[2.1] Theo định nghĩa tổng quát của Ngài Vô Trước (Asanga) và Ngài Thế Thân (Vasubandhu) thì –Vô minh là sự thiếu vắng nhận biết sáng tỏ. Vô minh không nhận biết sự vô ngã –bản chất tối hậu của người và pháp– tạo ra sự chấp ngã (self-grasping), hoặc chấp thực (true-grasping), đó là gốc rễ của tất cả các các vọng tưởng điên đảo khác và tất cả các tái sinh thuộc sinh tử trầm luân.

Vô minh không nhận biết tính vô ngã này tác động như căn bản cho (nhưng khác biệt với) sự chấp ngã. Sự chấp ngã này là sự nhận biết sai lầm nên chấp thủ đối tượng của nó như là một hiện hữutự tính. (This ignorance not understanding selflessness acts as the basis for, but is distinct from self-grasping, which is a wrong awareness grasping its object as inherently existent.)

[2.2]. Theo định nghĩa chuyên biệt về phương diện vô minh là gốc rễ của sinh tử trầm luân [của Ngài Long Thọ (Nagarjuna) và Ngài Pháp Xứng (Dharmakirti)] thì chỉ có sự chấp ngãvô minh. Vì sự vô ngã là đối tượng chính cần phải được nhận biết sáng tỏ để buông bỏ sự chấp ngã, gốc rễ của sinh tử trầm luân.

Lý do chúng ta tiếp tục sinh tử trầm luân là do sự vô minh của chúng ta, chúng ta không nhận biết sáng tỏ bản chất của đối tượng một cách thông suốt và trọn vẹn (clearly and perfectly).

3. Theo Jeffrey Hopkins, Meditation on Emptiness. Revised Edition 1996. 1018 pp. [Lược trích trang 399-428]

[3.1] Ngài Long Thọ giảng nhị đế trong Trung Luận:

1. bản chất của nhị đế

2. rằng nếu một người không hiểu biết sáng tỏ nhị đế , người ấy không hiểu tinh yếu của kinh Phật

3. mục đích của sự giảng dạy nhị đế

4. những lỗi lầm của những tiến trình nghĩ tưởng sai lạc về nhị đế

5. rằng bởi vì nhị đế thì khó thực chứng, Phật đã không giảng nhị đế vào thời khởi đầu.

[3.2] Nhị đế là những đối tượng, không phải những ý niệm hàm hỗn của chân lý, sự đẹp và v.v… Chúng là những pháp (dharma), đối tượng (vishaya), những cái hiện hữu (existents || sat: Skt) và những đối tượng của trí tuệ (jneya).

Những chân lý là những sự sự vật vật chúng hiện hữu theo cách chúng hiện tướng, và như vậy chỉ những chân lý tối hậu (paramarthasatya; chân đế, thắng nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế, đệ nhất nghĩa), những tính không (18, 20 loại tính không) có tính đức như là những chân lý. (Truths are those things that exist the way they appear, and thus only ultimate truths (paramarthasatya) or emptinesses qualify as truths). [trang 405]

[3.3] Những đối tượng vạn thù sai biệt khác nhau không hiện hữu theo cách chúng hiện tướng, ngoại trừ đối với Chư Phật. Những đối tượng này là những chân lý cho một cái che lấp tính như thị, một cái tâm thức vô minh; thế nên chúng được gọi là những chân lý cho một cái che lấp cái thật (= Phú tục đế = Chân lý thế tục= thế tục đế = tục đế) (These objects are truths only for a concealer of suchness, an ignorant consciousness; therefore, they are called truths-for- a-concealer || samvrtisatya). [trang 405]

Những chân lý cho một cái che lấp cái thật (= thế tục đế) là những cái hư dối, xuất hiện theo một cách và hiện hữu (= liên tồn) một cách khác. Như vậy, vì chỉ chân lý tối hậu có thể thực sự bảo toàn ý nghĩa của chân lý, nó không phải là những chân lý được phân chia thành nhị đế. [trang 405]

[3.4] Những đối tượng của trí tuệ, hoặc hiện tượng (=pháp), là cái căn bản của sự phân chia nhị đế.

Vì những cái được phân chia thành nhị đế là những pháp (và những cái đồng nghĩa pháp) [pháp= hiện-tượng=phenomena], mỗi thành viên của mỗi phân bộ là một pháp, một đối tượng, một hiện hữu thể (an existent), và một đối tượng của trí tuệ. Điều này có nghĩa là một tính không là một pháp, một đối tượng, hiện hữu thể, và đối tượng của trí tuệ, như tất cả những đối tượng vạn thù sai biệt khác nhau. (This means that an emptiness is a phenomenon, object, existent, and object of knowledge as are all other various and sundry objects) [trang 406].

… Thế nên nhị đế không là những thực thể khác nhau ; chúng là thực thể đồng nhất. Đây chính là cái mà Tâm Kinh định nói khi kinh nói rằng không là sắc và sắc là không (emptiness is form and form is emptiness). Nhị đế không phải là một, nhưng được định danh khác nhau, vì chúng xuất hiện một cách khác nhau đối với tâm niệm (thought). [trang 413]

[3.5] Những chân lý cho một cái che lấp cái thật (samvrtisatya) được gọi như thế bởi vì tất cả những đối tượng khác đã bị vô minh giả định như hiện hữu theo cách chúng xuất hiện. Một tâm thức vô minh không phải chỉ là một tâm thức không nhận biết tính như thị nhưng còn là một cái che lấp tính như thị xuyên qua đồng ý một cách chủ động với hiện tướng hư dối của hiện hữu khách quan. (An ignorant consciousness is not just a consciousness which does not know suchness but a concealer of suchness through actively assenting to the false appearance of objective existence.)

Tất cả những pháp — ngoại trừ những tính không– xuất hiện trước những chủ thể nhận thức theo cách chúng chứng tỏ chúng như đang hiện hữu như chúng hiện hữu có tự tính. (All phenomena except emptinesses appear to cognizers that certify them as existing as if they exist inherently.)

Bởi vì vô minh tán đồng với hiện tướng này là gốc rễ của sinh tử luân hồi, vai trò của nó trong những nhận thức hàng ngày thì được nhấn mạnh qua định danh tất cả những hiện tượng ngoại trừ những tính không “chân lý cho cái che lấp cái thật”, những chân lý cho vô minh (Since the ignorance that assents to this appearance is the root of cycle existence, its role in every perceptions is emphasized through naming all phenomena except emptinesses “ truths –for-a-concealer”, truths for ignorance .) [trang 417].

[3.6] Một chân lý tối hậu, hoặc theo nguyên văn hơn, một chân lý đối tượng cao nhất (paramarthasatya) được gọi như thế bởi vì một tính khôngtối thượng của tất cả hiện tượng và là đối tượng của trí tuệ thật chứng tính như thị. Nó là một chân lý bởi vì nó hiện hữu theo cách nó xuất hiện trong sự nhận thức trực tiếp. [ trang 416]

[3.7] Nhị đế không là những cõi hàm-hồ của chân lý mù sương như được đề nghị trong những bản dịch sử dụng danh từ ở mức đơn biệt, chẳng hạn “Absolute Truth” và “Conventional Truth” (Chân Lý Tuyệt ĐốiChân Lý Quy Ước”) [The two truths are not vague realms of misty truth as suggested by translations which use the singular, such as “Absolute Truth” and “Conventional Truth” ] [trang 419]

Paramartha (Sanskrit) dịch thành tối hậu (ultimate) thì hay hơn là dịch thành “Tuyệt đối” (Absolute) là vì Absolute ngụ ý cái gì đó hiện hữu trong chính nó và của chính nó, một cách độc lập, trong khi đó chẳng có cái gì độc lập trong hệ thống Trung quán (Madhymika system), ngay cả một tính không. [trang 420]

[3.8] Nhị đế hỗ tương loại trừ, nghĩa là nếu một cái gì là chân lý cho cái che lấp cái thật thì không là chân lý tối hậu. Và nếu cái gì là chân lý tối hậu thì không là chân lý cho cái che lấp cái thật. [trang 412]

4. Từ Tsong Khapa, Ocean of Reasoning – A Great Commentary on Nagarjuna’s Mulamadhyamakakarika. Translated by Geshe Ngawang Samten and Jay L. Garfield , Oxford University Press, 2006. 603pp. [Tông Cách Ba, Đại hải của Suy lý - Đại luận giải về Căn bản Trung luận Tụng] [Lược trích: chươngXIII Quán các pháp hữu vi, chương XVIII Quán ngã và các pháp, chương XXIV Quán bốn thánh đế]

[4.1] Trung luận XIII, 8

Các đấng Tối Thắng đã nói

Cái tính không đó là sự loại bỏ tất cả các kiến chấp

(=các kiến chấp rằng các pháp hiện hữutự tính)

Bất cứ ai tính không là một kiến chấp

(= tính không thì hiện hữutự tính)

Thì sai lầm không thể cứu chữa được.

The victorious ones have said

That emptiness is the elimination of all views

Anyone for whom emptiness is a view

Is incorrigible.

[4.2] The Kasyapa parivarta-sutra (trong Ratnakuta-sutra: kinh Bảo Tích):

“Cái mà nó là tính không thì không làm trống thông (=rỗng thông) các pháp (=hiện tượng), bởi vì các pháp tự chúng thì trống thông; cái mà nó là vô tướng không làm các pháp vô tướng, bởi vì các pháp tự chúng vô tướng; cái mà nó là vô nguyện không làm các pháp vô nguyện, bởi vì các pháp tự chúng vô nguyện.

Phân tích như thế, này, Ca Diếp, được gọi là trung đạo.- sự phân tích đúng thật các pháp. Này, Ca Diếp, tôi nói rằng bất cứ ai phân tích tính không bằng cách đối tượng hóa tính không thì đã, đang rơi xuống thấp cách xa với giáo pháp của tôi”. (“That which is emptiness does not empty phenomena, because phenomena themselves are empty; that which is signlessness does not make phenomena signless, because phenomena themselves are signless; that which is wishlessness does not make phenomena wishless, because phenomena themselves are wishless.

To so analyze, oh Kasyapa, is called the middle path – in the correct analysis of phenomena. Oh , Kasyapa, I say that whoever analyzes emptines by objectifying emptiness has fallen, fallen far from my teachings”. [trang 300]

[4.3] [Ngài Tsong Khapa giảng]

“Những biểu từ rằng những sự sự vật vật như tính không không làm trống thông các pháp nhưng rằng các pháp tự chúng trống thông v.v… có ý nói rằng không nên nhận lấy quan điểm rằng các pháp không tự chúng thực là trống thông mà thực là được làm trống thông bởi một cái gì khác.

Khi nói rằng hữu niệm hóa tính không là đã đang rơi xuống thấp cách xa, thì cách thế của sự hữu niệm hoá là, như nó được nói trong “bất cứ ai đối tượng hóa tính không”, sự đối tượng hoá (này) của tính không tạo lập tính không như là một hiện hữu thể đích thực (=hiện hữu có tự tính), nhưng nó không hoàn toàn là sự hữu niệm hóa tính không như là “đây là tính không”. Nói một cách khác đi, là một điều mâu thuẫn khi nói ngay sau đó rằng sự phân tích cả ba cái này (tính không, vô tướng, vô nguyện – ĐHP), gồm cả tính không, là trung đạo. [1.Nếu đối tượng hóa tính không thành một hiện hữu thể có tự tính –tỉ dụ tự tính làm trống thông các pháp – thì đó là điều sai lầm xa với giáo pháp. 2. Những sự phân tích tính không, vô tướng, vô nguyện đưa đến sự hữu niệm hoá “đây là tính không”… (thì sự hữu niệm hóa này hoàn toàn khác hẳn với sự đối tượng hoá nói trên) thì sự phân tích tính không, vô tướng, vô nguyện, theo cách thế như thế được gọi là trung đạo - ĐHP]. Phương pháp ứng dụng tỉ dụ này có minh họa trong trường hợp “bất cứ ai kiến chấp tính không thì không cứu chữa được”, như bản kinh nói đến,

“… Đấng Vô Thượng lúc đó đáp, Này, Ca Diếp, cũng đúng như vậy, khi tính không chính là cái xóa đi tất cả các kiến chấp, tôi gọi một người chấp nhận tính không như một kiến chấp là kẻ không cứu chữa được.” (“The statements that such things as emptiness do not empty phenomena but that phenomena themselves are empty etc., means that it should not be taken that phenomena are not themselves truly empty are truly emptied by something else.

When it says that to conceptualize emptiness is to have fallen far, the mode of that conceptualization is, as it is said in “whoever objectifies emptiness”, the objectification of emptiness as truly existent,but it is not just the conceptualization of emptiness as “this is emptiness”. Otherwise, it would be contradictory to say immediately that the analysis of these three, including emptiness, is the middle path. The method of the application of the example to that which it illustrates in the case of “whoever views emptiness is incurable” is, as the sutra puts it.

“…The Transcendent Lord then replied, “Oh, Kasyapa, in exactly the same way, when emptiness is that which eliminates all views, I call someone incurable who adopts emptiness as a view” [trang 300]

[4.4] Tính không, duyên khởitrung đạo – Trung luận XXIV

18. Cái gì do duyên khởi

Được gọi là tính không

Đó cũng là giả danh

Cũng chính là trung đạo

18. That which is dependent origination

Is explained to be emptiness

That, being dependent designation

Is itself the middle way

19. Chẳng hiện hữu cái gì

Mà chẳng do duyên khởi

Thế nên chẳng hiện hữu

Cái gì mà chẳng không

19 . There does not exist anything

That is not dependently arisen

Therefore there does not exist anything

That is not empty.

Trong Vigrahavyavartani (Hồi tranh luận), Ngài Long Thọ nói Đức Phật giảng tính không, duyên khởitrung đạo là đồng nghĩa:

Tôi cung kính lễ Đức Phật vị vô thượng, và

Người giảng pháp tối thượng rằng

Tính không, duyên khởi

Trung đạo có cùng một nghĩa. [71]

I protrate to the Buddha who is unparalled, and

Who has given the supreme teaching that

Emptiness, dependent origination and

The middle path have the same meaning. [71]

[4.5] Nói về giáo phápTrung luận XVIII:

8. Các pháp đều thật; và đều không thật;

Cũng thật và cũng không thật;

Chẳng thật cũng chẳng không thật.

Đây là giáo pháp của Đức Phật.

8. Everything is real; and is not real;

Both real and unreal;

Neither real nor real.

This is the Lord Buddha’s teaching.

[Ngài Tsong Khapa giảng:]

“Thế nên, thứ nhất Đức Phật dạy giáo pháp sự sự vật vật đều thật trong tính đức không biến dịch từng sát na, mặc dầu chúng đều vô thường trong tính đức chấm dứt sự tương tục. Thứ nhì, ngài dạy giáo pháp để xóa bỏ sự chấp thủ vi tế của thường hằng qua sự xác nhận rằng bởi vì sự sự vật vật biến dịch từng sát na chúng đều không thật. Thứ ba, ngài dạy rằng có hai toàn cảnh khách quan trong tính đức của những sự sự vật vật đều thật hoặc không thật, cho tới khi chúng không biến dịch hoặc biến dịch từng sát na, một cách tương ứng. Thứ tư, ngài dạy rằng cả hai cái nó thường và nó vô thường thì đều trống vắng cái hiện hữutự tính.

Thứ tự giảng dạy là để chuyển hướng những người từ những con đường sai lạc và sau đó dẫn họ vào những thánh đạo. Như vậy bởi vì chúng được trình bày bởi vị thầy một cách tuần tự, vì chúng thích hợp cho những tâm thức của các đệ tử, chúng được gọi là “những giáo pháp”. Chư vị tối thắng không dạy cái không là một phương tiện để thụ hưởng cam lộ– thật tướng của sự sự vật vật. (The victors do not teach that which is not a means to enjoy the nectar—the way things really are.) [trang384]

Cũng như một thầy thuốc cho thuốc thích đáng theo bệnh ngài giảng dạy trong một cách thích hợp cho mỗi người được nghe giảng. “Bốn trăm bài tụng” [của ngài Aryadeva-Thánh Thiên] nói:

Hiện-hữu, phi hiện hữu, và cả hai

Và thêm chẳng cả hai đã được dạy

Có thể nào một thuốc kê chữa bệnh

Không tùy thuộc vào bệnh? [VIII:20]

Existence, nonexistence, and both

As well as neither have been taught

Cannot anything be a medecine prescribed

Depending on the diseae? [VIII:20]

Chú thích 4.5.a: Đây là Tụng [195] theo bản [Aryadeva’s Four Hundred Stanzas on the Middle Way-with commentary by Gyel-stap ||Additional Commentary by Geshe Sonam Rinchen, translated by Ruth Sonam. Snow Lion 2008]:

Giảng dạy hiện hữu, phi hiện hữu,

Cả hai hiện hữu và phi hiện hữu, và chẳng cả hai

Chắc chắn là những thuốc cho tất cả

Những ai đang có bệnh. [195]

Teaching existence, non-existence,

Both existence and non-existence, and neither

Surely are medecines for all

That are influenced by the sickness. [195]

Chú thích 4.5.b:

Ngũ ngữ của Như Lai

Ngũ ngữ: Chơn ngữ, Thật ngữ, Như ngữ, Bất cuống ngữ, bất dị ngữ.

Phật thuyết chơn ngữ: là nghĩa chung với nhị thừa

[có sanh tử để diệt, có Niết Bàn để chứng]

thật ngữ: là nghĩa chung với Bồ tát

[nghĩa đại thừa, sanh tử Niết Bàn đều như hoa đốm trên không]

như ngữ: là nghĩa chung với Tam thừa–Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát

[trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả]

bất cuống ngữ: chẳng dối tức là vô hư

bất dị ngữ: thấy trước việc chưa đến nên gọi là bất dị tức là vô thật,

nên Phật nói pháp ấy là vô thật vô hư.

[HT Duy Lực lược giảng]

“Those all-beings of whom the Tathagata has spoken they are indeed no-beings. Why? Because the Tathagata speaks in accordance with reality, speaks the truth, speaks of what is, not otherwise. A Tathagata does not speaks falsely”.

[The Diamond Sutra – Edward Conze translated]

Kinh Kim Cương

Tu-Bồ-Đề! Như Lai là người chơn ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ, bất dị ngữ. Tu-Bồ-Đề! Pháp của Như Lai chứng đắc, ấy là pháp vô thật vô hư.

[Ngài Tsong Khapa viết:]

“Ngài Buddhapalita (Phật Hộ) giảng điểm này [tụng VIII:20 = tụng 195] như sau:

Đức Phật đã dạy căn cứ vào nhận thức của những người bình thường về cái gì là thật và cái gì là không thật, và cái đó đều theo những quy ước thế tục. Sự biện luận của cả hai thật tại và phi thật tại đều từ quan điểm tối hậu.Với một cách chọn lựa khác thì, thật tại, phi thật tại và cả hai có thể là hiện hữu, phi hiện hữu, hoặc cả hai, một cách tương ứng, của sự khởi sinh của hiệu qủa vào thời điểm của nguyên nhân. Đức Phật dạy rằng chúng đều chỉ là được giả định trên căn bản của những nhân và những duyên qua biện luận của những cực đoan của hiện hữu và phi hiện hữu.Thế nên, những ai cố gắng để thấy thật tướng sự sự vật vật nên hiểu biết sáng tỏ thật tướng thật sự là gì mà không bị gắn chặt vào giáo pháp chỉ thuần căn cứ vào những quy ước thế tục”. [trang 385]

[4.6] Nói về thật tướng -Trung luận XVIII

9. Không lệ thuộc vào cái khác (=tự mình chứng biết), tịch tĩnh

Không hí luận (=dứt đường ngôn ngữ)

Không bị hữu niệm hoá, không phân biệt

Đó là các đặc hữu của thật tướng

9. Not dependent on another, peaceful and

Not fabricated by fabrications,

Not conceptualized, without distinctions :

That is the characteristic of things as they really are.

“Để xóa đi các ý niệm sai lầm, thật tướng được nói là gồm có năm đặc hữu.

Đặc hữu thứ nhất là “không lệ thuộc vào cái khác”: Bạn không thể chỉ thuần thật chứng nó qua sự giảng dạy của một người khác. Nó phải được thật chứng trên chính bạn qua tuệ quán không bị ô nhiễm (uncontaminated insight).

Đặc hữu thứ nhì là tịch tĩnh (peaceful): cũng như người không có mắt cườm không thấy những sợi tóc đang rơi, thật tướng của sự sự vật vật là chúng trống vắng cái hiện hữutự tính, nghĩa là không có tự tính.

Đặc hữu thứ ba là “thông tin không được chế tạo ra nữa”: dứt đường ngôn ngữ, không còn hí luận; đó là chúng đều không thể diễn tả được (“not fabricated by fabrication”: The verbal fabrication by means of which things are fabricated no longer fabricates them; that is, they are inexpressible).

Đặc hữu thứ tư là “không bị hữu niệm hoá”: sự hữu niệm hoá là sự lang thang của tâm. Khi một người thật chứng thật tướng của các pháp, thì không còn cái tâm lang thang đó nữa. Kinh Aksayamatinirdesa nói: Cái gì là chân lý tối hậu? Khi không có sự lang thang của tâm, thì không có nhu cầu để nói về từ, ngữ.

Đặc hữu thứ năm là “không phân biệt”: Cũng như một pháp thì tối hậu, thì các pháp khác cũng như thế. Thế nên, một cách tối hậu thì không có sự cá biệt (Therefore, ultimately there is no individuality)”. [trang 385-386]

[5.] Chú thích thêm vài điểm:

1. Tính không chính là sự trống vắng của cái hiện hữutự tính. Tính không, duyên khởi đều chẳng có tự tính.

2. Các pháp thì vô tự tính.Tính không chẳng phải là cái hiện hữu của cái vô tự tính. –Nếu hiểu tính không là cái hiện hữu của cái vô tự tính (thì vô tự tính chỉ là cái tên mới của tự tính, và là một thứ tự tính) thì là hiểu sai.

3. Các pháp đều không, nghĩa là không có tự tính.

(empty = open =không= trống thông, trống không, rỗng thông, rỗng suốt, rỗng rang, không ngăn ngại,…) Nên các pháp có thể nói là trong tiến trình đang trở thành, đang biến dịch, có thể thay đổi… (becoming, changing,…)

4. Các pháp hiện hữu (exist, existence), có hiện hữu hiện hoạt (actually exist, actual existence). Các nhà Trung quán (Madhyamika) chỉ phủ định cái hiện hữutự tính của các pháp (empty of intrinsic existence, empty of inherent existence, empty of essential existence, emptiness of essential existence of things, not exists essentially, reject true existence…)

5. Các nhà Trung quán chỉ rõ rằng không có một mảy may vi trần của một pháp nào thuộc về luân hồi hoặc niết bànhiện hữutự tính.

6. Điểm chính của ý nghĩa của tính khôngduyên khởi, nhưng tính không chẳng có nghĩa là phủ định sự sự vật vật như tác nghiệptác giả (emptiness does not mean the negation of things such as action and agent). Không ở đây là trống thông, rỗng thông, thông suốt, rỗng suốt, không ngăn ngại… thế nên: có tác giả, có tác nghiệp, có nghiệp quả — thế nên: ta có thể tích tập phúc đức, tích tập trí tuệ. Không ở đây chẳng phải là cái ngoan không (= chẳng có cái chi hết) – nên muốn làm gì thì làm mà chẳng có chi bận lòng thì đó là hiểu sai lầmtính không, về duyên khởi. [Giật mình, mình lại thương mình xót xa; muối xát lòng ai nấy mặn mòi.]

7. Bao giờ tâm không còn lang thang nữa?

Nguồn: Kalu Rinpoche, “The Two Truths”, Trích từ Luminous mind: The Way of The Buddha. Wisdom, 1997.

Đặng Hữu Phúc
(talawas.org)

CÁC PHỤ BẢN viết cho bài NHỊ ĐẾ
(dịch và chú thích, đăng 21-10-2010).

Phụ bản 1 , viết cuối tháng 10-2010 -- của Đặng Hữu Phúc
đã đăng Talawas—trong mục -- (góp ý về “Nhị Đế” bài do Đặng Hữu Phúc dịch và chú thích –đăng trên Talawas 21.10.2010)

1. Tục đế cũng là chân lí của các hiện tướng . Hiện tướng có vẻ như hiện hữutự tính, nghĩa là có tính độc lập. Có tự tính nghĩa là không biến dịch. Nếu bạn hiện hữutự tính thì nhan sắc bạn không tàn phai theo phút giây ngày giờ năm tháng và sẽ không có “đìu hiu ngoài bãi gió tịch dương, bay vàng đôi lối nhớ càng thương”.

Cái lý tính thiếu vắng cái hiện hữutự tính đó, được gọi là tính không và cái tính không đó cũng được gọi là chân đế.

Ngài Tsong Khapa nói : Bất cứ cái gì tùy thuộc vào nhân duyên, cái đó thì không có tự tính ( Whatever depends upon conditions, that is empty of intrinsic existence )

Thế nên, nói Duyên khởi cũng là nói Tính Không, cũng là nói Trung Đạo và cũng là nói Như huyễn (illusion).

Nói tính không nghĩa là nói vạn hữu đều KHÔNG ( không ở đây là rỗng thông , nghĩa là đang ở trạng thái biến dịch, đang trở thành|| KHÔNG chỉ phủ định cái hiện hữutự tính –nghiã là các pháp (=hiện tượng ngoại giới, nội tâmkinh nghiệm tâm linh ) vẫn hiện hữu (actual existence).

Cái hiện tướng của các pháp thì phủ định cái chủ nghĩa đoạn diệt (nihilism) và cái tính không (=tính rỗng thông luôn luôn mở rộng cho biến dịch = empty=open; emptiness= openness opens for manifestation) thì phủ định chủ nghĩa thường hằng (eternalism). Thế nên nói tính không cũng là nói Trung Đạo, nghĩa là vượt ngoài, vượt trên hai cực đoan Thường HằngĐoạn Diệt. Trung đạo không có nghĩa là ở giữa hai cái Thường hằngĐoạn Diệt .

Nói Duyên Khởi có nghĩa là phủ định Thượng đế hữu ngã thường hằng tạo lập vũ trụ.

Đức Dalai Lama trong “ Awakening the mind , Lightening the heart” , trang 228-229 , có giảng, có hai loại như huyễn, một là nói đến tính không theo nghĩa là sự sự vật vật hiện hữu nhưng không có cái hiện hữutự tính, hai là mặc dầu chúng (=sự sự vật vật) thiếu vắng hiện hữutự tính ( true or intrinsic existence) chúng phóng chiếu cái hiện tướng của hiện hữutự tính.Thế nên, đơn giản, nói: Duyên khởi= Tính Không = Trung Đạo = Như Huyễn.

Khi nói về ý niệm phật học, độc giả nên hiểu rõ các thuật ngữ phật học, cũng như nói về toán học, cần hiểu rõ thuật ngữ toán học, tỉ dụ điểm , đường thẳng [ nếu không hiểu mà cứ tranh luận về phật học như kiểu điểm hoặc đường thẳng thì phải có kích thước chứ ]

2. Duyên khởi cũng là tính không(=tính mở ra các biến dịch; các biến dịch này tôn trọng lý tính duyên khởi) cũng là trung đạo và cũng là như huyễn -- tất cả đều là những đăm chiêu tư lự cảm hoàikinh nghiệm của hữu tình trong cõi sinh tử tử sinh .

Trong một đoạn phim tài liệu, Thủ Tướng Do thái Rabin nói --phụ đề Anh ngữ ghi –Chúng ta không thể giết người và bị người giết theo một cái vòng vô tận được .We cannot kill and be killed in an endless circle. Khi chúng ta đến mảnh đất này thì nó không phải là mảnh đất trống (empty land). Ông bị giết ba ngày sau khi nói những câu đó.

Độc giả cũng nên cùng nhau đọc lại một bài thơ của Nguyễn Hữu Chỉnh, vị tướng quân vào thời Tây Sơn đem quân ra Bắc :

Cửa sổ buồn xem ngựa trắng qua
Vừa khôn lại thấy cũng vừa già
Trước đã cậy lòng con cái
Sau còn nhớ đức mẹ cha
Giàu có làng sang có nước
No nên bụt đói nên ma
Sắc không chữ ấy âu vàng thép
Nghĩ lại thì là bẵng cái hoa.

Có những gì u hoài trong bài thơ ấy. Bài thơ viết trong cảnh nào ở trong bao năm chinh chiến, từ khi đỗ Hương Cống và Tam Trường Võ, từ khi Thăng long trong khói lửa kiêu binh, từ khi vào Nam theo Tây sơn để lánh nạn đất Bắc, từ những ngày ngang dọc trên biển Đông để tiễu trừ giặc Tàu Ô trên biển cả và giặc “lạ” đã cho ông một nickname –Chim Cắt Biển. Cảnh sống dân Việt thời đó ra sao mà ông phải than –no nên bụt đói nên ma. Ông đã viết cho một tướng thủy quân đất Bắc – hãy quên hiềm xưa mà cùng nhau chống Tây Sơn. Nhưng ông tướng đó rũ tay áo đứng xem(toạ thủ bàng quan) nên sau đó cả hai đều bại trận. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân về Thăng Long để dựng lại triều Lê thì chỉ có 6 tháng để chuẩn bị chống Tây sơn trong cảnh dinh thự kinh thành đã bị Tây sơn trước đó đã phá tan hoang, kho tàng vét sạch đem về Nam, lòng người li tán. Ông và các người con đều cầm quân ( trước đã cậy lòng con cái ). Khi Tây sơn ra Bắc dân chúng khóc chạy đầy đường.Khi Tây sơn bắt được ông, bỏ ông vào trong cũi, và treo đầu con ông bên ngoài cũi. Sau đó ông bị cho bốn ngựa xé.Trong bài thơ ông có nói đến sắc khônghoa đốm hư không.

Chắc chắn ông đã đọc kinh Viên giác rồi ( Này các vị ! Do pháp như việc trong mộng nên biết sinh tửNiết bàn chẳng sinh chẳng diệt , chẳng đến chẳng đi …)

Và Nguyễn Du, người đồng thời với Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh, trên đường đi sứ sang Tàu năm 1813, đã ghé Kim Lăng, thăm Phân Kinh Thạch Đài, viết bài thơ Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân kinh Thạch Đài, tâm sự là ông đã đọc kinh Kim Cương hơn một ngàn lần mà vẫn chưa thấy áo chỉ của kinh. Cuối bài thơ ông nói Tự Thị Chân Kinh – đó cũng là ý dứt đường ngôn ngữ ( ngôn ngữ đạo đoạn) ngàiTsong Khapa nói về thật tướng trong phần Chú Thích Nhị Đế có ghi lại.

Nước Anh ngày xưa Shakespeare qua Macbeth và Hamlet cũng đã có lòng cảm hoài với Duyên khởi , Tính Không , Trung đạoNhư huyễn.

(Macbeth,Act 1, scene 7, lines 1-28| Act 5, Scene 5, lines16-28)

( Hamlet , to be or not to be.. )

 

Phụ bản 2. -- của Đặng Hữu Phúc --- viết tháng 11-2010.

Hiện tượng ngày, đêm, có ngày, có đêm, là tục đế, là chân lí thế tục, chân lí quy ước; gọi nó là tục đế nghĩa là nó che lấp cái thật. Ánh sáng chỉ được nhìn thấy khi ánh sáng bị một cái gì ngăn chặn nên phản chiếu. Phi thuyền bay trong không gian, thấy tối thui không có nghĩa là không có ánh sáng.

Ngày, đêm có hiện hữu hiện hoạt (actual existence), do tùy thuộc các hiện tượng khác (mặt trời, mặt trăng , vị trí chủ thể quan sát, thời điểm…), do duyên khởi (dependent origination; relational origination ), nên không có hiện hữu độc lập (=hiện hữu có tự tính , hiện hữu thật, intrinsic existence, true existence ). Tính không (emptiness; openness) của ngày, tính không của đêm được gọi là chân đế.

Tính KHÔNG là rỗng thông, trống thông , không ngăn ngại , mở ra cho các thay đổi biến dịch, mở ra cho biến dịch vận hành. Tính KHÔNG thì không có tự tính. Tính KHÔNG không (đứng ra) làm rỗng thông các hiện tượng (ngày, đêm, tế bào con người, tế bào thực vật,…) mà các hiện tượng chúng rỗng thông tự chúng.

Như vậy, các pháp ( hiện tượng thế giới bên ngoài, hiện tượng nội tâm, kinh nghiệm tâm linh) đều không (empty; open), nghĩa là về phương diện hoạt động (activity aspect) chúng duyên khởi, tôn trọng duyên khởi, có hiện hữu hiện hoạt (actual existence) ; về phương diện hiện hữu ( existential aspect) là không, là rỗng thông, là vô ngại, là tự do. Tự do, rỗng thông vô ngại, viên dung vô ngại, viên dung vô tận nên duyên khởi vận hành, thế nên có tác nghiệp, có tác giả, có nghiệp quả, có tích tập công đức, có tích tập trí tuệ.

2. Thế nên,

Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu vô
khởi tâm đại bi

Đó là lời Bồ tát Đại Huệ tán thán Phật .
Các hữu tình đều có tính Phật .Và có vô lượng phật , vô lượng hữu tình, vô lượng thế giới.

Ba quy được giao truyền cho Lỗ Trí Thâm trong Truyện Thủy Hử của Thi Nại Am là :
Quy thứ nhất, giữ tính phật
Quy thứ hai, theo chinh pháp
Quy thứ ba, kính thầy mến bạn

Theo chính pháp là thấy duyên khởi , tính không , trung đạonhư huyễn là một và khởi tâm đại bi trên cầu đạo Bồ Đề , dưới cứu vớt trầm luân.( Bồ Đề = Giác)

Hãy nhớ bài tụng 26 và 49 và 50 ngài Long Thọ nói trong Tán Pháp Giới Tụng:

‘Vô thường’ ‘khổ’và ‘không’
Cả ba tịnh hoá tâm
Pháp tịnh hoá tốt nhất
Là thiếu vắng tự tính. [Tụng 26]

Giác chẳng xa, chẳng gần
Và chẳng đến, chẳng đi
Trú: được thấy, không thấy,
Trong mù sương phiền não. [Tụng 49]

Thật chứng trí bát nhã
Đạt vô thượng tịch tĩnh
Thế nên kinh tạng nói
Trú: tuệ tri chính mình. [ Tụng 50]
-----------
Enlightenment is neither far nor near
And neither does it come nor go
It’s whether it is seen or not
Right in the midst of our afflictions [49]

‘Impermanence’, ‘suffering’, and ‘empty’
These three, they purify the mind.
The dharma purifying mind the best
Is the lack of any nature [26]

By dwelling in the lamp of prajna,
It turns into peace supreme.
So the collection of sutras says:
‘By exploring your self, you should rest!. [50]

[In Praise of Dharmadhatu by Nargajuna. Commentary by the Third Karmapa.Translated and Introduced by Karl Brunnholzl.Snow Lion 2007.
TÁN PHÁP GIỚI TỤNG. Long Thọ. ]

3.

Giác chẳng xa, chẳng gần

Và chẳng đến, chẳng đi

Trong mù sương phiền não

Trú: tuệ tri chính mình 

Last updated: 11-04-2010 11:23:46 (tác giả gửi)



Ý KIẾN

Hawking: “Chúa không tạo ra vũ trụ

Ông hoàng vật lý Stephen Hawking vừa đưa ra một tuyên bố gây tranh cãi, rằng vũ trụ ra đời tự phát nhờ những quy luật vật lý chứ không phải do quyền năng của Chúa Trời.

Stephen Hawking sắp xuất bản cuốn sách mới nhất mang tên “The Grand Design”, CNN cho hay. Mục đích của tác phẩmloại bỏ vai trò của thánh thần ra khỏi vật lý, đồng thời giải đáp những câu hỏi cơ bản nhất về sự sống, vũ trụ và mọi thứ. Trong một đoạn trích được đăng trên tạp chí Times của Anh, Hawking cho rằng con người không cần nhắc tới những thế lực thần thánh để giải thích sự hình thành của vũ trụ.

“Do sự tồn tại hiển nhiên của những quy luật vật lý, chẳng hạn như lực hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tiếp tục tự tạo ra nó từ hư không. Sự hình thành tự phát của vũ trụlý do khiến vũ trụcon người tồn tại. Vì thế đưa Chúa vào quá trình hình thành của vũ trụ là việc không cần thiết”, Hawking viết trong cuốn sáchTelegraph cho biết, trong cuốn “A Brief History of Time” (Lược sử thời gian) – tác phẩm nổi tiếng nhất của Hawking và được phát hành vào năm 1988 – vị giáo sư không hề bác bỏ khả năng Chúa tham gia vào quá trình tạo ra vũ trụ.

Nhưng trong cuốn sách mới, ông bác bỏ giả thuyết của nhà khoa học thiên tài Isaac Newton về việc Chúa tạo ra vũ trụ. Newton từng cho rằng một vị thần hay thánh nào đó đã tác động để trái đất trở thành nơi duy nhất có đầy đủ mọi điều kiện thích hợp đối với sự sống.

Năm 1992, các nhà thiên văn tìm thấy nhiều hệ hành tinh bên ngoài hệ Mặt Trời. Phát hiện đó trái ngược với một lập luận cơ bản của Newton. Hawking lý giải rằng, do vũ trụvô số thiên hà và mỗi thiên hà có vô số hành tinh nên rất có thể trái đất không phải là nơi duy nhất có sự sống. Thậm chí vũ trụ của chúng ta đang tồn tại cùng nhiều vũ trụ khác. Những vũ trụ kia cũng có những quy luật vật lý giống như vũ trụ của chúng ta, nghĩa là chúng cũng được tạo ra từ hư không, chứ không phải bởi bàn tay của Chúa.

Hồi tháng 6 giáo sư Hawking phát biểu trên kênh truyền hình Channel 4 rằng ông không tin Chúa thực sự tồn tại. Ông đặt ra câu hỏi: “Vũ trụ bắt đầu theo ý muốn của Chúa hay nhờ một quy luật khoa học?”. Sau đó ông tự trả lời: “Tôi tin vào yếu tố thứ hai. Nếu thích, các bạn có thể gọi quy luật khoa học là Chúa, song đó không phải là vị Chúa mà chúng ta có thể gặp và đặt câu hỏi”.

Stephen Hawking được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới trong suốt nhiều thập kỷ qua. Ông nổi tiếng với những công trình nghiên cứu về hố đen trong vũ trụ. Hawking cũng từng nỗ lực theo đuổi mục tiêu tìm ra một “lý thuyết thống nhất” để giải quyết các mâu thuẫn giữa thuyết tương đối của Albert Einstein và thuyết lượng tử. Hawking từng giữ vị trí giáo sư toán Lucasian tại Đại học Cambridge, Anh. Đây cũng là chức danh mà Newton từng đảm nhiệm. Ông hoàng vật lý nghỉ hưu năm ngoái.

Cuốn sách “The Grand Design” sẽ được phát hành vào ngày 7/9 tại Mỹ và ngày 9/9 tại Anh. Leonard Mlodinow, một nhà vật lý Mỹ, là đồng tác giả của cuốn sách.

Minh Long (VNExpress – 06-09-2010)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15560)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23005)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14035)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12956)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55084)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9141)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14421)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14150)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14188)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13872)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36295)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19867)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18158)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19190)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19117)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20276)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17626)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31515)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15911)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14991)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14665)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46162)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35908)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21025)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21584)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23379)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34363)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19470)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18938)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22915)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20160)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18344)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19827)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19515)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33392)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54497)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37702)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21125)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17866)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17372)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49639)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27412)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20267)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23009)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18881)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16313)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17905)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20930)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17349)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14456)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16856)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16363)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15985)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17455)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21968)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13484)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14354)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15375)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14977)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12687)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13343)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27383)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12493)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13177)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14478)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16210)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12385)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15388)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12859)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12187)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13191)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21635)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11272)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22697)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15060)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14923)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46174)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22423)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14560)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12607)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18888)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14721)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43846)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56953)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13830)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47473)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13644)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14562)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28994)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33287)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38366)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15391)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31217)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12517)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40375)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43405)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant