Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10118)
Bài 09 - Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

Kalu Rinpoche

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 9]
Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Tôi mong ước nhận định được tất cả những biến hiện
chúng xuất hiện đối với tôi trong trung hữu là những phóng chiếu
của chính tôi; những hiển hiện của chính tâm của tôi.

Liên Hoa Sinh , “Sách Tây Tạng của Người Chết”. (Tử Thư Tây Tạng).

-----------------------

Sẽ không có tái sinh nếu, vào thời điểm chết, chúng ta bị biến mất như một ngọn lửa nến vụt tắt hoặc sự bốc hơi của nước. Nhưng tâm là chân không (emptiness: chân không diệu viên; chân không diệu hữu), và chân không dung thông (the void) không biết cái chết. Vào lúc chết, thân và tâm, chúng được gắn với nhau là những hiện tướng hư huyễn, li biệt; mỗi bên đi đường riêng của nó. Lúc đó, một lần nữa, do bởi năng lực của nghiệp, những căn bản tập khíphiền não tạo lập bởi nhiều tác nhân dẫn chúng ta tới tái sinh vào một trong sáu cõi (cõi người, trời, a tu la, súc sinh, ngạ qủy, địa ngục).

Trung Hữu

Theo Chính Pháp (Dharma) cũng như theo các truyền thống khác, chết không phải là một chấm dứt. Vượt ngoài chết, có một loạt tương tục của các trải nghiệm trong những trạng thái khác biệt được nhận biết gộp lại là trung hữu (bardo). Thuật ngữ Tây Tạng này nguyên văn nghĩa là “giữa hai” (between two), khoảng ở giữa (interval), hoặc sự thông qua, lối thông qua (passage). Những lối thông qua này là tất cả những trạng thái tâm thức đi thông qua. Những liên hoàn của trung hữu (the series of the bardos) tạo thành hiện hữu lưu chuyển hoặc sinh tử lưu chuyển (cyclic existence or samsara)

Những liên hoàn của trung hữu tương ứng với sự chuyển cư của tâm thức từ cuộc đời tới cuộc đời, nhưng cũng tương ứng với những biến hoá hình dáng xảy ra từng mỗi sát na trong những trạng thái tâm thức của chúng ta.

(The series of bardos corresponds to the transmigration of the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness).

Giáo pháp liên quan đến những trung hữu khác biệt được trình bày đặc biệt trong một văn bản truyền thống rất phổ biến, Bardo Thodrol, nguyên văn nghĩa là, “sự hiểu biết thông suốt giải thoát cách tuyệt các trung hữu” (“the understanding that frees from the bardos”), mà ở Tây phương thường được biết nhiều hơn với tên “Tử Thư Tây Tạng”

(The Tibetan Book of the Dead).

Giáo pháp này đưa ra những chỉ giáo thực dụng về làm thế nào tiến qua các trung hữu và dâng hiến một đạo lộ để thật chứng bản chất của những trung hữu này và tự giải thoát chính chúng ta cách tuyệt với các trung hữu.

(It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them)

Mặc dầu “khoảng ở giữa chết và tái sinh” (the interval between death and rebirth) là nghĩa được biết đến nhiều nhất, từ ngữ “trung hữu” (bardo) không những chỉ nói đến thời kì giữa chết và tái sinh, nhưng còn nói đến tất cả những trạng thái hiện hữu tâm thức trải nghiệm.

Thế nên, từ ngữ “trung hữu” cũng được dùng để nói đến dòng đời (life), là trung hữu giữa sinh và chết và là, trong đa số trường hợp, cái thời kì dài nhất của các trung hữu.

Cũng có trung hữu giữa hai tâm niệm (the bardo between two thoughts), hoặc giữa hai trạng thái của tâm thức, nó là cái ngắn nhất của các trung hữu.

Thời kì từ thời điểm nhắm mắt ngủ tới khi thức tỉnh thì được gọi là trung hữu chiêm bao, trong khi trải nghiệm chính cái chết thì được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

(The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death)

 Sau khi sự hô hấp ngừng lại hoàn toàn, có một thời kì khi tâm vẫn ở lại trong một trạng thái toàn thể bất thức thì được gọi là trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không/ chân không diệu viên/ chân không diệu hữu)

(After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness)

Cuối cùng, trung hữu của sinh thành (trung hữu của sinh hữu; trung hữu của tái sinh) là thời kì theo sau trung hữu của tính không, trong thời kì này tâm thức có sự trải nghiệm của một thế giới sau cái chết, nó kéo dài cho tới thời điểm tái sinh.

(Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth)

Bốn Trung Hữu Quan Trọng

Nói vắn tắt, có bốn trung hữu quan trọng từ tiến trình chết tới tái sinh là:

1. Trung hữu từ sinh tới chết, hoặc, trạng thái chúng ta hiện ngay lúc này.

2. Trung hữu của thời điểm chết, tương ứng với lối thông qua từ sống tới chết.

(tương ứng, có thể tạm hiểu là từ sinh tới chết, lối sống ra sao,tỉ dụ vui với thiện hạnh của người, của mình, và buồn với ác hạnh của người, của mình, thì tâm tình vào thời điểm chết tương ứng với thời từ sinh tới chết. ĐHP)

3. Trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không / chân không diệu viên / chân không diệu hữu), thời kì theo sau chết.

4. Trung hữu của tái sinh, giai đoạn giữa trung hữu của tính không và một thời-gian- cuộc-đời khác (another lifetime) là khi chúng ta bắt đầu một trung hữu mới của sinh tới chết.

Sáu trung hữu được nói đến thường xuyên gồm cả hai trung hữu khác ở trong trung hữu của sinh tới chết: trung hữu chiêm baotrung hữu thiền định. Mỗi một trung hữu này tương ứng với những trạng thái của tâm thức sống trọn vẹn trong suốt thời-gian-cuộc-đời này.

Trong những chương theo sau, chúng ta sẽ miêu tả mỗi một trong bốn trung hữu quan trọng này, chúng cùng nhau tạo thành hiện hữu sinh tử lưu chuyển. 

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 1 Đại Sư Tăng Triệu giảng Tính Không

Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 hoặc 378 - 414 ) ( tịch lúc 27 hoặc 31 tuổi) trong Triệu luận , phần Tông Bản Nghĩa:

 “Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội , năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.

Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ BỔN VÔ chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là BỔN VÔ, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì BỔN VÔ này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).

Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.

duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.

Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.

Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy…

Tại sao vậy ? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể , chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là BỔN VÔ.”

( Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch , in trong CHƯ KINH TẬP YẾU , trang 470 - 471) ..

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 2. Tâm như hư không vô sở hữu

Nguồn gốc của Phật pháp là tâm ,
Nguồn gốc của vũ trụ cũng là tâm ,
Người học Phật pháp phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm mình chứ chẳng phải ai khác .

 

…Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là ngài Long Thọ dùng “Hư không vô sở hữu” để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể số lượng, do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả.

Phật pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là TÍNH KHÔNG. KHÔNG này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở hữudung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời cho tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối,bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “VÔ SỞ HỮU” này dung nạpứng dụng.

Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm, mặc áo, nói năng tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái ‘vô sở hữu’ này mới được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tính thành Phật.

Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành, chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi [Cũng như ở trong nhắm mắt chiêm bao tỉnh dậy] thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao (người và thế giới chiêm bao) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Bản thể của tâm vô sở hữu tức là trống rỗng, vì trống rỗng nên gọi là TÍNH KHÔNG, vì tính không nên cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì chẳng có khứ lai nên gọi là NHƯ LAI, nghĩa là đúng như bản lai; cùng khắp thời gian thì không có gián đoạn sinh diệt nên gọi là NIẾT BÀN.

Vì trống rỗng vô sở hữu chẳng có chỗ để trụ nên gọi là VÔ SỞ TRỤ ; vì trống rỗng vô trụ thì chẳng thể trói buộc nên gọi là GIẢI THOÁT. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, tâm của chúng sinh đều có tính giác ngộ nên gọi là PHẬT TÍNH, cũng gọi là Bồ Đề. Bồ Đề nghĩa là giác ngộ. Nói tóm lại, danh từ thì có muôn ngàn sai biệt khác nhau nhưng nghĩa thì chẳng khác, chỉ là hiển bày thể dụng của tâm mà thôi.

Vì tâm vô sở hữu thì chẳng thể kiến lập, nên Phật nói là VÔ THỦY, chẳng có bắt đầu, cũng gọi là vô sinh. Vì có sinh thì phải có bắt đầu. Vì vô sinh thì không thể kiến lập, nếu có thể kiến lập ắt có sự sinh khởi và bắt đầu, cho nên người chứng quả gọi là NGỘ PHÁP VÔ SINH, cũng gọi là CHỨNG VÔ SINH PHÁP NHẪN. Nói một cách khác, tất cả kinh Phật đều dùng sự hiểu biết của chúng sinh để chứng tỏ tất cả sự vật qua ý thức của bộ não nhận biết đều chẳng phải thật, nên nói VẠN PHÁP DUY TÂM, TẤT CẢ DO TÂM TẠO. Vì tâm có thể tạo là có kiến lập, tức là chẳng thật vậy .

…..

[Lược trích từ “Vũ Trụ Quan thế kỷ 21, Yếu Chỉ Phật Pháp, Yếu Chỉ Trung Quán Luận” của HT Duy Lực ]

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phụ Lục 3. Chủ nghĩa Hư vô

Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch , in 2000, 6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục.

Chân như: Sanskrit: bhuta-tathata; tathata. Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật .
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư Vô chủ Nghĩa (Nihilism)
Chủ nghĩa phủ định tất cả đạo đức,tập quán, chế độ, tôn giáo, hoặc chân lí, giá trị của bất cứ sự vật gì.

Theo “Patrul Rinpoche. Lời vàng của Thầy tôi”. Bản dịch 2008, http:/vietnalanda.org. thì
“Những người theo chủ nghĩa thường hằng (eternalism) tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara và Vishnu.
“những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả, không có tự dogiải thoát
“ Có 360 biểu từ vọng kiến (false view) và 62 biểu từ tà kiến (wrong view)

(biểu từ = statement), có thể gộp chung thành hai nhóm : chủ nghĩa thường hằngchủ nghĩa hư vô (=đoạn diệt; chấm dứt, không có gì cả).
Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lại lợi ích, và ác hạnh không đem lại tổn hại.”

Nếu bạn có một thoáng chút ý niệm về danh từ chân như, bạn sẽ biết bản chất của bạn là tính Bản Phật Phổ Hiền (Nature of Primordial Buddha Samantabhadra)

(Phổ Hiền= All-around Goodness).
Như vậy bạn chấp thuận, tùy thuận, và hỗ trợ (blessing) cho chính cuộc đời bạn, cuộc đời của kẻ khác, hiện hữu tồn sinh, và bạn chung vui xẻ buồn với mọi người, với vạn hữu, chung lưng đấu cật với mọi người để chống lại các thảm họa do con ngườithiên nhiên gây ra (do vô minh, do duyên khởi) và bạn đem lại an-ổn-không-sợ-hãi cho mình, cho người (benediction: vô uý thí)

Một thoáng ý niệm về chân như, giúp bạn nhận thức bạn vốn là đấng phúc đức, tốt lành, thiện hảo, bạn đã gặp chính mình (encounter yourself), gặp bản lai diện mục, “ta về gặp lại tình ta, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân” (Thiền sư Viên Minh).

Ngài Long Thọ và ngài Phật Hộ (Buddhapalita) đều giảng Chân như là thật chứng tuệ tri chính minh bằng tuệ quán không bị nhơ nhuốm. Chân như không phải là do người khác chỉ dạy hoặc do người khác trao cho bạn.

Từ ngữ Phật học ngài Vô Trước ( Asanga 375-430) giảng:

Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám… là đồng nghĩa

------------------------------------

Chú thích thuật ngữ

1.Viết theo “The Tibetan Book of the Dead”, translated by A. F. R. Thurman,

Bantam Books,1994

 “Trung hữu” được dùng tối thiểu theo 3 nghĩa:

(a) nghĩa căn bản thông dụng để nói về toàn thể thời kì giữa chết và tái sinh;

(b) nghĩa kĩ thuật để nói về sáu trung hữu: trung hữu đời sống, trung hữu chiêm bao, trung hữu thiền định, trung hữu điểm chết, trung hữu thật tại (=pháp tánh), và trung hữu tái sinh ;

(c) và theo nghĩa “ một giai đoạn tiến triển của một trung hữu”, thì chính nó cũng được gọi là một trung hữu, tuy nó ở trong sự trải nghiệm của một giai đoạn riêng biệt trong một trong sáu trung hữu (= một giai đoạn phát triển nhỏ -- của một trong sáu trung hữu--, thì cũng gọi là một trung hữu )

“Between” is used in at least thre e senses: its basic colloquial sense of the whole period between death and rebirth; its technical sense in the set of the six betweens, the life, dream, meditation, death-point, reality, and existence betweens;and in the sense of “phase of a between”, where the experience of a particular period in one of the six betweens is itself called a between.

2. Trung hữu tính không (emptiness between)= trung hữu pháp tánh (dharmata between) = trung hữu thật tại (reality between)

3. Ngài Long Thọ : Duyên khởi = Tính không = Trung đạo = Như huyễn

4. Ngài Tăng Triệu : Bổn Vô= Thật Tướng = Pháp Tánh = Tánh Không = Duyên Hội

5. “Thanh Tịnh Đạo” của Ngài Phật Minh / Phật Âm (Buddhaghosa), Thích Nữ Trí Hải dịch, có giảng (trang 960 , quyển 2 , đoạn 250:

“Ở đây, trở thành gọi là hữu…
Chính tiến trình nghiệp là hữu, thì gọi là nghiệp hữu.
Cũng vậy, chính tiến trình tái sanh là hữu thì gọi là sanh hữu.
Và ở đây tái sanh là hữu vì nó hiện hữu…
Nghiệp cần được hiểu là hữu vì nó đem lại hữu hay sự tái sanh…
Tất cả nghiệp đưa đến tái sanh đều là nghiệp hữu…
Sanh hữunói vắn tắt các uẩn do nghiệp sanh.” 

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

From Life to Life: Transitions and the Bardo

May I recognize all the manifestations that appear to me in the bardo as being my own projections; emanations of my own mind.

Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

--------------------

There would be no rebirth if, at the moment of death, we disappeared like a candle flame going out or water evaporating. But mind is emptiness, and the void does not know death. At death , body and mind, attached as they are to illusory appearances, separate; each goes its own way. Then once again, by the power of karma, basic tendencies and afflictions caused by various agents lead us to be reborn in one of the six realms.

Bardo

According to Dharma as well as other traditions, death is not an end. Beyond death, there is a continuous series of experiences in different states known collectively as the bardo. This Tibetan term literally means “ between two” , “interval”, or “passage”. These passages are all the states that the consciousness passes through. The series of bardos makes up cyclic existence, or samsara.

The series of bardos corresponds to the transmigrationof the consciousness from life to life, but also to the transformations that occur moment by moment in our states of consciousness. The teachings relating to the different bardos are presented in particular in the well-known tradition text, the Bardo Thodroll, literally , “ the understanding that frees from the bardos”, better known in the West as “ The Tibetan Book of the Dead ”. It gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them.

Even though “the intrval between death and rebirth” is its best-known meaning, the word “bardo” refers not only to that period between death and rebirth, but to all the existential states the consciousness goes through.Therefore, the word is also used to refer to life, which is the bardo between birth and death and is, in most cases, the longest life of the bardos. There is also the bardo between two thoughts, or between two states of consciousness, which is the shortest of the bardos. The period from the moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience of death itself is the bardo of the moment of death. After respiration stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total unconsciousness, called the bardo of emptiness. Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of rebirth.

The Four Great Bardos

Briefly, the four great bardos from the process of dying to being reborn are:

1. The bardo of birth to death, or, the state we are in right now.

2. The bardo of the moment of death, corresponding to the passage from life to death.

3. The bardo of emptiness, the period following death.

4. The bardo of becoming, the stage between the bardo of emptiness and another lifetime in which we begin a new bardo of birth to death.

The six bardos frequently referred to include two others in the bardo of birth to death: the dream bardo and the meditation bardo. They each correspond to states of consciousness lived out during this lifetime.

In the following chapters we will describe each of the four great bardos, which together make up cyclic or samsaric existence.

---------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10102)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10503)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10121)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20339)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11636)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13775)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19081)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46678)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12081)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11649)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23034)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17821)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10134)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17728)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14028)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15102)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20261)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18250)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17370)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18156)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12700)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12819)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13394)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17001)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18265)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18560)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21340)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22106)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16837)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12546)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15317)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24553)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14211)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11625)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19659)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13402)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22789)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18985)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18446)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21607)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20524)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19995)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14042)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15000)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13784)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15095)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17227)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15282)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12807)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15861)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12968)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13125)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15012)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22610)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7140)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19344)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37646)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9154)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8646)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17864)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14853)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27016)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19908)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15247)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15473)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26772)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14553)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19677)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14613)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18643)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15916)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16333)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19345)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19719)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19886)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18599)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29780)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14555)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17742)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32396)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15248)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17284)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29732)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31497)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64677)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32785)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20206)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18492)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30784)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19900)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45881)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32568)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39318)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40416)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50092)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19087)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18542)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20681)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant