Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10475)
Bài 10 - Trung hữu của Thời điểm chết

Kalu Rinpoche 
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 10]
Trung hữu của Thời điểm chết

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


“Khi trung hữu của thời điểm chết xuất hiện
tôi nguyện buông bỏ những ái luyến và những chấp thủ tâm ý,
và nguyện tinh tấn không tán loạn trên đạo lộ mà những chỉ giáo làm sáng tỏ.
Tâm đã phóng chiếu vào vô vi hư-không-xứ, đã li biệt cách tuyệt với thân, với thịt và máu, tôi sẽ tuệ tri tâm thì vô thườngnhư huyễn.”
Liên Hoa Sinh, Tử thư Tây Tạng.

---------------------------------------- 

Những thành tố chính yếu khác nhau cung cấp năng lực cho đời sống, chúng thoái hoá và biến mất ở lúc chấm dứt một cuộc đời. Sự tắt ngúm của một đời sống được miêu tả như là sự hoà tan hoặc sự tái hấp thu bên ngoài của các nguyên tố chính -- đất, nước, lửa, và khí – và sự tái hấp thu bên trong của các thứ loại khác nhau của những tâm niệm và những nhận thức. Trong suốt trung hữu này, nhiều khí làm sinh động thân thể bị phá hủy.

Tổng quát, thân thể của chúng ta được kiểm soát bởi năm (5) khí chính, được gọi tên là khí sinh-sự-sống (the life-bearing wind), khí vận-động-hướng-thượng (the upward-moving wind), khí lan-toả-khắp-thân (the pervasive wind), khí an-trú-lửa (the fire- dwelling wind) và khí đi-xuống-xoang-trống (the downward-voiding wind). Những khí này làm sinh động thân thể vật lí, và khi tác dụng đúng cách bảo đảm chắc chắn một sức khoẻ tốt. Vào thời điểm chết, một khí khác hiển hiện, được gọi là khí nghiệp và tái sinh hữu (At the moment of death, another wind manifests, calledthe wind of karma and becoming). Nó thì luôn luôn phát tán khắp toàn thân. Khi nó hiển hiện, nó khuấy đảo và can thiệp với các khí khác (When it manifests, it upsets and interferes with the other winds) ; những triệu chứng bệnh lý khác nhau xuất hiện khi thân thể tiếp cận cái chết.

Sự hoà tan bên ngoài

Khí điều hoà sự hấp thụ thức ăn, hoặc khí an-trú-lửa, là khí thứ nhất bị rối loạn (to be disturbed). Nó rời vị trí của nó ở luân xa rốn và ngừng chức năng, nghĩa là chúng ta không còn được nuôi dưỡng bởi thực phẩm nữa, thực phẩm cũng chẳng còn được hấp thu hoặc tiêu hoá nữa; các dưỡng chất bị sa thải nhanh chóng.

Kế tiếp, khí sinh-sự-sống bị rối loạn và rời vị trí của nó ở tim, gây ra những cảm xúc khốn khổ và không còn tâm ý minh mẫn. Sự rối loạn này kế đến ảnh hưởng khí đi-xuống-xoang-trống của các chức năng bụng dưới thế nên sự giữ lại phân và nước tiểu bị phá vỡ, gây ra đại tiện, tiểu tiện mất chủ động hoặc tắc ruột.

Sau đó khí vận-động-hướng-thượng bị làm yếu đi, gây ra thở ngắn, vất vả và khó khăn trong sự nuốt. Cuối cùng, khí lan-toả-khắp-thân bị ảnh hưởng, đem đến những cảm thức khổ về thân thể cũng như khó cử động tay chân.

Những rối loạn của những khí này làm cho chúng rời khỏi những vị trí thông thường của chúng trong cơ thể. Sự di chuyển này gây ra sự phá hủy các kinh mạch vi tế mà qua đó các khí này vẫn lưu thông một cách bình thường, cũng như hai trung tâm chính hoặc những luân xa (tiếng Phạn: cakras) .

Sự phá hủy của những kinh mạch này và các trung tâm của chúng xảy ra đem đến sự thoái hoá của các nguyên tố chính của thân thể và những phương diện vật lí nối kết với chúng: thân thể vật lí, hô hấp, thân nhiệt, máu và thịt, tương ứng thứ tự với các nguyên tố hư không, khí, lửa, nước và đất (không, khí, hoả, thủy, và địa đại). Những khí thứ cấp, vị trí ở trong năm trung tâm lớn đã nói đến trước đây, di cư và biến mất cùng một thời gian với những khí chính yếu. Sự phá hủy của những khí thứ cấp gây ra sự biến mất từng cấp bậc của các nhận thức cảm quan (sense perceptions)

Sự phá hủy của năm khí này duyên hội xảy ra đồng thời với sự hoà tan hoặc tái hấp thu của các nguyên tố (=các đại), nó xảy ra từ cái thô nhất đi tới cái vi tế nhất. Thế nên, nguyên tố đất hấp thu vào trong nguyên tố nước, nước vào trong lửa, rồi thì lửa vào trong khí, và khí vào trong thức (consciousness=thức; tâm thức; ý thức).

Sự hoà tan bắt đầu với sự tái hấp thu của nguyên tố đất (chất thể cứng) vào nguyên tố nước (chất thể ướt). Những triệu chứng vật lí hoặc bên ngoài gồm sự biến mất sức mạnh vật lí, thế nên cái đầu có khuynh hướng ngả xuống và phần ngực bụng thụt hóp lại; sự gấp lại và duỗi ra của tứ chi trở thành khó khăn và không còn có thể tiếp tục ngồi nữa. Đàm và nước miếng chảy ra ngoài.

Nhiều dấu hiệu bên trong tương ứng với những cảm quan trải nghiệm bởi người sắp chết trong suốt giai đoạn này. Tâm thiếu sự viên minh giác chiếu trong sáng, dường như nó bị phóng vào cõi đại u minh (The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness). Người sắp chết có một sự thôi thúc muốn cử động, đổi vị trí hoặc trải đặt lại những chăn, vải giường, nhưng thân thể không còn khả năng nữa. Thật ra, thân bất động trở thành rất chậm chạp; người sắp chết cảm thấy nặng nề, dường như bị đo ván nằm luôn và bị chôn vùi dưới một trái núi. Hai mắt không còn thể nhìn thẳng nữa, có khuynh hướng trợn ngược vào trong đầu.

Những triệu chứng vi tế nhất hoặc ẩn mật là những trải nghiệm nhìn thấy hoặc những linh ảnh, chúng bắt đầu phát triển suốt thời gian có các triệu chứng bên ngoài và bên trong. Trong thời tái hấp thu thứ nhất này, linh ảnh của người sắp chết thì không vững bền, có vẻ như nhìn vào một ảo ảnh sóng nắng (mirage), hoặc có một sai lệch thị giác (visual distortion), giống như sự hiện tướng của nước trong một sa mạc nắng cháy nung trời hoặc dưới một mặt trời đổ lửa (During this first reabsorption, the dying person‘s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun).

Triệu chứng bên ngoài của giai đoạn thứ nhì, nó tương ứng với sự tái hấp thu của nguyên tố nước vào trong nguyên tố lửa (sức nóng), là sự khô mũi, miệng và hai lỗ mũi, cùng với sự mất mát cao nhất là mất sự kiểm soát cơ thắt, nó gây ra sự không kiềm chế được, mất chủ động trong đại tiện, tiểu tiện. Những triệu chứng bên trong là tâm ý cực kì kích động: những tâm niệm khổ đau quấy động tâm. Người sắp chết cảm thấy dường như người ấy bị một giòng nước lũ mang đi và có cảm giác trong trạng thái chẳng còn thấy gì cả, và nghe âm thanh của một thác nước cuồn cuộn. Ở mức ẩn mật, linh ảnh của người sắp chết thì đầy sương mù và nhận thức sự sự vật vật như là pha trộn vào trong những đám mây khói.

Giai đoạn thứ ba là sự hoà tan của nguyên tố lửa vào trong nguyên tố khí. Những triệu chứng bên ngoài là sự giá lạnh của miệng và hai lỗ mũi, sự thở bị thu ngắn lại (shortened breathing), và mất các cảm giác liên tưởng trong tâm với sinh lực nhiệt bị giảm xuống, nó rời khỏi tay chân, bắt đầu từ cực biên (đầu ngón tay, đầu ngón chân) và tái hấp thu từ mặt ngoài đi tới cốt lõi của thân thể. Những triệu chứng bên trong gồm có sự mất tạm thời tính viên minh giác chiếu của tâm ý (mental clarity) và tính giác quang chiếu (quang = chủ thể năng chiếu) (lucidity). Sự sự vật vật không còn được thấy sáng tỏ nữa. Những triệu chứng ẩn mật gồm có những linh ảnh của quang sắc rực rỡ chói lọi (blazing light), dường như vũ trụ trong lửa cháy. Cái này thì cùng phối hợp với những ánh sáng lấp lánh giống như những con đom đóm.

Kế đến là sự tái hấp thu của nguyên tố khí vào trong tâm thức. Những triệu chứng bên ngoài là gắng sức để thở, thở hổn hển với những lần thở ra dài và những lần hít vào thì ngắn, tốn sức (The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations). Hai mắt thì trợn vào trong; sự thở chậm dần và đi đến chấm dứt. Những triệu chứng bên trong là hiện tướng của những ảnh hiện tương ứng với tác nghiệp của người sắp chết.Vào thời điểm chết, thân thể thì cực kì yếu đuối; tuy nhiên tâm thì rất mạnh mẽ. Cái yếu đuối của thân thể kết hợp với sức mạnh của tâm tạo ra những hiện tướng hư huyễn kịch liệt. Nếu người sắp chết đã tạo tác nhiều hành động tiêu cực trong đời người ấy, những linh ảnh này sẽ phản chiếu chúng và gây nên sợ hãi cực kì. Tỉ dụ, một kẻ đã giết nhiều súc sinh có thể thấy những súc sinh này đang săn đuổi và đang nuốt gọn người ấy.Vào thời điểm đó, thân và ngữ của người ấy có thể biểu tỏ sự khủng khiếp bằng cách thốt ra những kêu khóc hoặc rên rỉ thê thiết. Trái lại, một hành giả Chính Pháp có nghiệp tích cực có thể trải nghiệm giai đoạn này rất hạnh phúc, gặp nhiều thánh giả quang minh sáng chói. Những dấu hiệu hoặc triệu chứng bên trong ở giai đoạn này là nghe âm thanh của gió cực kì vũ bão, vù vù đầy hồi hộp, hoặc ầm ầm lăn chuyển rất ầm ĩ. Những triệu chứngcảm giác rằng người ấy đang biến mất hoặc đang phai mờ và trải nghiệm của một hiện tướng tương tự với ánh sáng đỏ rực của một cây nến.

Sự hoà tan bên trong

Tâm thức lúc đó hòa tan vào tính không (=chân không diệu viên). Ở điểm này, thân thể có một chút màu sắc, sự thở ngừng hoàn toàn, và sức nóng tụ hợp lại ngay bên phiá trên trái tim. Đây là thời điểm kết thúc của chết. Sự hoà tan của tâm thức vào trong tính không thì được đặc hữu hoá bởi những trải nghiệm quang minh được gọi là tính giác cảnh chiếu trắng, tính giác cảnh chiếu đỏ, và tính giác cảnh chiếu đen (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu). Chúng thì tương ứng với sự tái hấp thu của những nguyên lí nam và nữ chứa trong thân thể.

(Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles containedin the body)

Thân vi tế của chúng ta thì thực sự kiến lập bởi hai nguyên lí, nam và nữ, vị trí tương ứng nam ở đỉnh đầu và nữ ở mức ngang của rốn.Vào thời điểm chết, chúng tái hấp thu vào nhau ở mức ngang trái tim.

Khởi sự, nguyên lí nam đi xuống từ đỉnh đầu hướng về trái tim. Vào thời điểm này, trải nghiệm tính giác cảnh chiếu trắng xảy ra, nó thì tương tự như quang sắc của mặt trăng.

Sự tái hấp thu của tâm thức xảy ra với những tâm niệm (= niệm tưởng) của nó. Những tâm niệm này có thể giản lược xuống thành tám mươi (80) loại ý niệm, trong đó ba mươi ba (33) sinh khởi từ sân (đối nghịch), bốn mươi (40) từ tham (dục tham), và bảy (7) từ vô trí hoặc si (=ngu si). Ba mươi ba (33) loại tâm niệm nối kết với đối nghịch, ghét bỏ, và giận dữ tan biến trong giai đoạn thứ nhất. Ngay cả nếu kẻ thù dữ dội nhất của chúng ta hoặc kẻ ám sát cha mẹ của chúng ta có đứng trước mặt chúng ta, chúng ta sẽ không còn một chút nào sân hận với kẻ đó.

Kế đến, nguyên lí nữ đỏ tái hấp thu, từ rốn đi lên, hướng về trái tim ; đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đỏ giống như quang sắc của mặt trời. Bốn mươi (40) loại tâm niệm nối kết với dục (desire: dục) và luyến (attachment ; luyến: hâm mộ, ưa thích,yêu mến, quấn quýt, không rời ra, không quên) chấm dứt ở giai đoạn này. Ngay cả nếu một vị trời nam hoặc nữ lộng lẫy, rực rỡ, duyên dáng, quyến rũ, nếu có xuất hiện, chúng ta cũng chẳng còn trải nghiệm bất cứ một dục nào.

Khi hai nguyên lí nam nữ tái hấp thu trong tim, tâm thức đánh mất tính năng nhận biết sáng tỏ của nó. (When the two principles reabsorb in the heart, the consciousness loses its faculty of knowing). Đây là trải nghiệm của tính giác cảnh chiếu đen, tương tự như một màu lam thẫm nửa đêm hoặc một đêm tối thẫm (This is the experience of black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night). Trong một người bình thường, tâm chìm vào trong đen tối toàn thể. Ở thời điểm này bảy (7) loại tâm niệm nối kết với vô trí (mental dullness) hoặc ngu si (stupidity) chấm dứt. Bất cứ cảnh nào có thể sinh khởi trong tâm sẽ chẳng còn được xem là tốt hoặc xấu.

Toàn thể tiến trình hoà tan, từ lúc khởi đầu cho tới lúc trải nghiệm tính giác cảnh chiếu đen được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

Vào lúc chấm dứt của sự hoà tan, quang sắc giác chiếu (clear light), hoặc bản chất thật của tâm, được khai hiển. Tất cả hữu tình có một trải nghiệm của quang sắc giác chiếu, nhưng hữu tình bình thường không nhận định được nó. Đối với người đó, sự nhận định đó thì bị thay thế bởi một thời kì vắng mặt của trải nghiệm, hoặc bất thức (unconsciousness). Đó là sự thiếu vắng của thật chứng, hoặc vô minh, nó che lấp hữu tình bình thường trong suốt giai đoạn của bất thức hoàn toànbất thức hoàn toàn thay thế trải nghiệm của quang sắc giác chiếu. Nhưng ngay cả nếu nó cực kì thoáng qua và đi mất không được nhận ra, trải nghiệm này của quang sắc giác chiếu xảy ra với mọi hữu tình.

Về một mặt khác, nếu một người đã nhận định được bản chất thật của tâm trong cuộc đời người ấy—đó là đã thật chứng đại thủ ấn mahamudra – tâm có thể nhận định được quang sắc giác chiếu căn bản (= bản giác) vào lúc thời-điểm-của-trung-hữu-chết kết thúc và, dù ở bất cứ mức độ nào sự nhận định này thì vững bền, có thể duy trì hấp thu vào nó.

Đối với một hành giả du già như thế, quang sắc giác chiếu con gái, nó được trải nghiệm trong đời sống người ấy và quang sắc giác chiếu bản mẫu hợp nhất. Đây là trạng thái phật (=phật quả).

(For such a yogi the daughter clear light, which is experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unte. This is the state of buddhahood)

-------------------------------

Chú thích

1. Emptiness; Openness; Skt. sunyata; tính không; chân không; chân không diệu viên; chân không diệu hữu.

Clarity; lucidity: Skt. prabhasvara; viên minh; giác chiếu;viên minh giác chiếu; tính giác viên chiếu; tính giác quang chiếu

Clear light; clear light transparence; Skt. prabhasvara; quang sắc giác chiếu ;quang minh giác chiếu; quang minh tự chiếu, tính giác viên chiếu ; linh tâm tự chiếu; thường tịch quang;…

Nếu dịch Light (trong Clear Light) là ánh sáng, thì độc giả có thể hiểu nhầm, như là ánh sáng của một đường hầm (light in the tunnel) – nên Light ở đây dịch là quang sắc (transparence) 

Luminosity: tính giác cảnh chiếu (quang: chủ thể năng chiếu; cảnh: đối tượng sở chiếu)

Prabha:Skt. quang minh

Daughter clear light : quang sắc giác chiếu con gái

Clear light fundamental mother: quang sắc giác chiếu bản mẫu. (bản mẫu = bản nguyên mẫu thân; mẫu thân vô thủy vô chung; mẫu thân muôn thuở )

Khi người con gái (= quang sắc giác chiếu con gái), ngày tháng lang thang sáu cõi, với cái tâm lang thang, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân, vào thời điểm trung hữu chết, li biệt với cái thân tứ đại, nhận biết sáng tỏ (=tuệ tri) quang sắc giác chiếu bản mẫu (bản trí, bản giác, trí tuệ bát nhã, tính bản phật phổ hiền, thường tịch quang, tự tánh di đà,…) chính là bà mẹ muôn thuở, bản lai diện mục, ta về gặp lại tình ta, và hợp nhất với bà mẹ muôn thuở, là trạng thái phật.

Wind of karma and becoming: khí nghiệp và tái sinh hữu. (gió nghiệptái sinh)

2. Quang cảnh: quang là chủ thể năng chiếu; Cảnh là đối tượng sở chiếu. Nếu năng sở (=chủ khách) hợp làm một thì gọi là Quang cảnh nhất như.

Nếu tâm chiếu vật và cảnh sở chiếu không đối lập nhau mà dung hợp nhau để đạt đến cảnh giải thoát, thì gọi là quang cảnh câu vong (=quang cảnh đều mất), Quang cảnh mẫn tuyệt (= quang và cảnh dứt bặt)

3. Kalu Rinpoche giảng:

Bản chất của tâm thanh tịnh có thể được nghĩ đến trong trạng thái có ba phương diện bản chất căn bản, kết hợp, và đồng thời:

1. chân không diệu viên [openness; emptiness ; open to possibilities for manifestations; Skt. sunyata; chân không là rỗng thông lìa các tướng và diệu viên là mở ra các khả hữu cho biến hiện -- gặp sắc trần thì cái thấy biến hiện, gặp thanh trần thì cái nghe biến hiện, v.v.. nên gọi diệu viên],

2. quang minh viên chiếu (clarity; lucidity; Skt. prabhasvara; quang minh viên chiếu; tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp thường trụ; thường tịch quang…), và 

3. diệu minh biện biệt vô ngại (sensitivity; nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn ngại).

---------------------

Nguồn: Đặc san Hiện Thực. số 23/ 2011 . Năm thứ 8. Kính mừng Phật đản 2635.
Vietnamese Buddhist Magazine. Quán Âm Buddhist Monastery.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kalu Rinpoche

The Bardo of the Moment of Death

When the bardo of the moment of death appears may I abandon attachments and mental fixations, and engage without distraction in the path which the instructions make clear.
Mind projected into the sphere of uncreated space, separated from body, from flesh and blood, I will know that which is impermanence and illusion.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

-----------------------------------------------------------

The different vital factors that sustain life deteriorate and disappear at the end of a lifetime. The extinguishing of life is described as the dissolution or outer reabsorption of the principal elements – earth, water, fire, and air – and the inner reabsorption of the different types of thoughts and cognitions. During this bardo, the various winds that animate the body are destroyed.

In general, our body is controlled by five main winds, called the life-bearing wind, the upward-moving wind, the pervasive wind, th fire-dwelling wind, and the downward-voiding wind. These winds animate the physical body, and their proper functioning assures good health. At the moment of death, another wind manifests, called the wind of karma and becoming. It is usually diffused throughout the whole body. When it manifests, it upsets and interferes with other winds; different pathological symptoms appear as the body approaches death.

Outer Dissolution

The wind that regulates the absorption of nourishment, or the fire-dwelling wind, is the first wind to be disturbed. It leaves its location in the navel cakra and ceases to function, which means that we can no longer be nourished by food, nor can food that is absorbed be digested; nutrients are quickly rejected.

Next, the life-bearing wind is disturbed and leaves its location at the heart, which results in emotional distress and a lack of mental clarity. This disturbance next affects the downward-voiding wind of the lower abdominal functions so that retention of feces and urine is disrupted, causing incontinence or intestinal obstruction.

Then the upward-moving wind is impaired, causing short, labored breathing and difficulty with swallowing. Finally, the pervasive wind is affected, which brings on unpleasant physical sensations as well as difficulty moving the limbs.

The disturbances of these winds cause them to leave their usual location in the body.This migration brings about the destruction of the subtle channels through which the winds normally circulate, as well as their two main centers or wheels, cakras in Sanskrit.

The destruction of these channels and their centers occurs concomitantly with a deterioration of the body’s principal elements and the physical aspects connected with them: physical body, respiration, body temperature, blood, and flesh, corresponding respectively with the elements of space, air, fire, water and earth. The secondary winds, located in the five great centers already mentioned, migrate and disappear at the same time as the main winds.The destruction of these secondary winds causes the gradual disappearance of the sense perceptions.

The destruction of the five winds happens at the same time as the dissolution or reabsorption of the elements, which occurs from the grossest to the most subtle. So, the earth element absorbs into water element, water into fire, then fire into air, and air to consciousness.

The dissolution begins with the reabsorption of the earth element into the water element. The physical or outer symptons include the disappearance of physical strenghth, so that the head has a tendency to fall and the trunk of the body caves in; flexing and extending the limbs becomes difficult and remaining seated is no longer possible. Phlegm and saliva flow out.

Various inner signs correspond to sensations experienced by the dying person during this phase. The mind lacks clarity, as though it were plunged in great darkness. The dying person has the urge to move, to change position or rearrange the covers, but is physical unable to. In fact, the immobile body becomes very sluggish; the dying person feels heavy, as though knocked down and buried under a mountain. The eyes, which can no longer see straight, tend to roll up in the head.

The most subtle or secret symptoms are visual experiences or visions, which also begin to develop during the time of the outer and inner symptons. During this first reabsorption, the dying person’s vision is unstable, as if looking at a mirage, or there is a visual distortion, like the appearance of water in a scorching desert or under a blazing sun.

The outer symptom of the second phase, which corresponds to the reabsorption of the water element into the fire element, is the drying out of the nose, mouth, and nostrils, along with the eventual loss of sphincter control, which results in incontinence. Inner symptoms are extreme mental agitation; unpleasant thoughts disturb the mind. The dying person feels as though he or she is being carried away by a torrent and has the sense of falling and being swallowed up, and hears the sound of a violent waterfall. At the secret level, the dying person’s vision is foggy and perceives everything as blending into clouds of smoke.

The third phase is the dissolution of the fire element into the air element. Outer symptoms are the chilling of the mouth and nostrils, shortened breathing, and a loss of feeling associated with decreased vital heat, which leaves the arms and legs starting from the extremities and reabsorbs from the exterior to the core of the body. Inner symptoms include the momentary loss of mental clarity and lucidity. Things are no longer seen clearly. Secret symptoms include visions of blazing light , as if the universe were on fire. This is combined with visions of sparkling lights resembling fireflies.

Next comes the reabsorption of the air element into consciousness. The outer symptoms are gasping for breath with long exhalations and short, labored inhalations. The eyes roll back; breathing slows and approaches its eventual cessation.Inner symptoms are the appearance of apparitions that correspond to the dying person’s karma. At the moment of death, the body is extreme frail; however, the mind is very strong. This physical weakness combined with the strength of the mind produces very intense illusory appearances. If the dying person has performed many negative actions in his or her lifetime, these visions will reflect them and cause extreme fear. For example, a murderer who has killed many animals might see those animals chasing and devouring him. At that moment, his body and speech might show terror by emitting cries or moans. By contrast, a Dharma practictioner whose karma is positive could experience this phase very happily, meeting various luminous divine beings. Inner signs or symptoms at this phase are hearing the sound of an extremely violent wind, a throbbing hum, or a very loud rumble. Secret symptoms are the sense that one is vanishing or fading and the experience of an appearance similar to the glow of a candle.

Inner Dissolution

The consciousness then dissolves into emptiness. At this point, the body takes on a bit of color, breathing stops completely, and heat gathers just above the heart. This is the final moment of death. Dissolution of the consciousness into emptiness is characterized by luminous experiences called white luminosity, red luminosity, and black luminosity. These correspond to the reabsorption of the masculine and feminine principles contained in the body.

Our subtle body is actually made of two principles, masculine and feminine, located respectively at the crown of the head and at the level of the navel.At the moment of death, they absorb into each other at the level of the heart.

Initially, the white masculine principle descends from the crown of the head toward the heart. At this moment, the experience of white luminosity occurs, which is similar to the light of the moon.

The reabsorption of consciousness occurs with its thoughts. These can be reduced to eighty types of conceptions, of which thirty-three arise from aversion, forty from desire, and seven from mental dullness or stupidity. The thirty-three kinds of thoughts connected with aversion, hatred, and anger dissolve during this first phase. Even if our fiercest enemy or our parents’ assassin were in front of us, we would have no more aversion toward him.

Next, the red feminine principle reabsorbs, ascending from the navel toward the heart; this is the experience of red luminosity much like the light of the sun. The forty types of thought connected with desire and attachment cease during this phase. Even if a gorgeous, charming god or goddess were to appear, we would no longer experience any desire.

When the two principles reabsorb in the heart, theconsciousness loses its faculty of knowing. This is the experienceof black luminosity, similar to a midnight blue or a dark night. In an ordinary being, the mind sinks into total darkness. At this moment the seven kinds of thought connected with mental dullness or stupidity cease.Any spectacle that might arise in the mind will no longer be considered good or bad.

This whole process of dissolution, from the beginning up to the experience of black luminosity, is called the bardo of the moment of death.

At the end of the dissolution, the clear light, or mind’s basic nature, is revealed. All beings have an experience of the clear light, but the ordinary being does not regconize it. For him or her, that recognition is replaced by a period of absence of experience or unconsciousness.It is the lack of realization, or ignorance, which obscures the ordinary being during this phase of complete unconsciousness that replaces the experience of the clear light. But even if it is extremely fleeting and goes unrecognized, this experience of the clear light occurs to every being.

On the other hand, if a person has recognized the true nature of mind within his or her lifetime – that is, has realized mahamudra – the mind can recognize the fundamental clear light at this final moment of the bardo of the death and, to whatever degree this recognition is stable, can remain absorbed in it.

For such a yogi, the daughter clear light, which was experienced during his or her lifetime, and the fundamental mother clear light unite. This is the state of buddhahood.

-----------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1272)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 2099)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4903)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4340)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 12174)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6634)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4272)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4694)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 5963)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12518)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 5086)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 5978)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 8031)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5313)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5558)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3585)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 4994)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7659)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7338)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 6005)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 4974)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4815)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5708)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12450)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11686)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12842)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8439)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8390)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6804)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8516)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6221)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 6960)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5471)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9288)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9530)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6152)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8712)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6462)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6570)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8306)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10631)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9298)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8066)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6146)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8858)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 6998)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6634)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 10369)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 8986)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8485)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 9092)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7443)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7058)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6433)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 5998)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 8025)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7901)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11127)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11637)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7830)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10221)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 8030)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8191)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7570)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8206)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7148)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8290)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10218)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11795)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9790)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10340)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9306)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11518)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8307)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10260)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10700)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10442)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11566)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9383)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22750)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10491)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10049)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10259)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10357)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10304)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10750)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 13088)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14636)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13345)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12658)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9648)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11177)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10768)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14504)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12406)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11714)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11684)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23416)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11316)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10533)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant