Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 12 - Trung hữu của Hữu tái sinh

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10310)
Bài 12 - Trung hữu của Hữu tái sinh

Kalu Rinpoche 

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 12]
Trung hữu của Hữu tái sinh
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Bardo of Becoming

Những hữu tình của trung hữu không thể đảo ngược lang thang trong một thân ý sinh không vững bền, chúng thì giống như thân vật lí trước đây,
Chúng có tất cả các quan năng và cảm thức và những năng lực phóng chiếu của nghiệp.
Những thân của chúng thì không bị ngăn chặn bởi bất cứ chướng ngại nào .
Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, The Text of Surcho


Trong suốt thời kì của trung hữu của hữu tái sinh, tâm tái kiến tạo trải nghiệm của những phóng chiếu khác biệt sinh ra bởi nghiệp của nó; vào lúc cuối của trung hữu này, phan duyên bởi nghiệp đó, nó tái sinh một trong sáu cõi của sinh tử tương tục. Hoàn toàn như giấc ngủ sâu sinh ra đủ loại những trải nghiệm của thế giới chiêm bao, sau giai đoạn bất thức (unconsciousness) và những linh ảnh thoáng qua của trung hữu của tính không được miêu tả ở bài giảng trước, thì xuất hiện những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh. Đây là một trạng thái trong đó những trải nghiệm có một thật tại tương tự với những cái mà chúng ta đã quen thuộc một cách thật sự, nhưng những điều kiện của hiện hữu thì sai biệt.

Thân và Thế giới tâm ý

Trong trung hữu này, không có thân vật lí mức thô; thay vào đó, có một thân ý sinh tạo nên bởi bốn uẩn và nửa uẩn, đó là: thức, hành, tưởng, thọ và phân nửa của sắc uẩn. Những hữu tình trong trung hữu của hữu tái sinh có một sắc thân vi tế, một thân ý sinh không thể nhận biết đối với người bình thường. Những hữu tình sinh ra với một thân như thế nhận định nó như là của thân của họ và cũng có thể nhận thức những kẻ khác trong cùng một trạng thái (trung hữu của hữu tái sinh).

Nói tổng quát, chúng ta có ba loại thân.Thứ nhất có thân bình thường, được gọi là thân nghiệp duyên (karmic body), bởi vì nó là kết quả của nghiệp đã hoàn toàn thuần thục; đó là thân chúng ta đương có. Thân thứ nhì là thân tập khí (habitual body). Đây là thân của thế giới chiêm bao, nó kết quả từ khuynh hướng của tâm đồng nhất chính nó với một hình dáng vật lí. Nó đến từ những tập khí và những thói quen tích lũy trong trạng thái thức tỉnh. Thân thứ ba, hoặc thân ý sinh (mental body), là thân thuộc về hữu tình trong trung hữu của hữu tái sinh. Trong suốt phần thứ nhất của trung hữu của hữu tái sinh, thân ý sinh giống như phương diện vật lí của đời sống vừa mới chấm dứt. Hữu tình trong trung hữu có thể, nếu bị đe doạ, lo sợ cho đời sống của nó. Nó cũng có thể có cảm tưởng bị giết trong khi đối đầu với những kẻ thù hoặc trong những hoàn cảnh khác. Nhưng tất cả những sự biến này và những kẻ thù đều chỉ là những phóng chiếu hư huyễn sinh ra bởi những ấn tượng tiềm ẩn trong tâm; thân ý sinh không thể bị giết bởi những phóng chiếu khác mà chính chúng cũng đều là tâm ý. Mặc dù nó thì không thể bị tiêu diệt, thân ý sinh trải nghiệm tất cả các loại sợ hãi, khủng bố, và thèm khát bởi vì sự ảnh hưởng của những thói quen và những tập khí từ quá khứ. Trong tất cả chuyện này, những trải nghiệm của thân ý sinh và những hiện tướng của trung hữu của hữu tái sinh đều có thể so sánh với những trải nghiệm và những hiện tướng của những chiêm bao, nhưng chúng mạnh mẽ hơn nhiều.

Hữu tình trung hữu có năm quan năng tương ứng với năm cảm thức bình thường, thêm vào có những năng lực nhất định, tỉ dụ thần thông, cho phépnhận thức thế giới của chúng sinh. Nó cũng có năng lực di chuyển khắp nơi không bị ngăn trở bởi ngững đối tượng vật lí. Thật ra , không một cái gì có thể chướng ngại thân ý sinh. Nó chỉ phải nghĩ, tỉ dụ, về Ấn Độ, và nó ngay tức thời tìm thấy nó ở đó; nếu nó nghĩ về nước Mĩ, nó sẽ ở đó ngay lập tức; nếu nó nghĩ về nhà của nó trước khi chết, nó sẽ ở đó ngay tức thời. Hoàn toàn bằng cách nghĩ đến một nơi chốn, nó sẽ ở đó. Cũng như thế, nó chỉ phải nghĩ về hoặc mong ước đối với một cái gì đó cho trải nghiệm sinh khởi một cách tức thời.

Một cách thật sự, tâm của chúng ta nghĩ rất nhiều. Khi chúng ta ở trong trung hữu của hữu tái sinh, những tâm niệm khác nhau này kết tinh hoá và xuất hiện trong trạng thái những thật thể (realities), sinh ra một thế giới trong dòng đại biến dịch (a world in great flux). Sự đa thù vạn biệt của những tâm niệm (the huge multitude of thoughts), quay hướng và đổi tốc độ như một cơn gió lốc xoáy, làm cho tình trạng này không thể vững bền và khó khăn một cách cực kì.

Khi tới giai đoạn này của trung hữu, một kẻ có, tỉ dụ, một gia đình, sẽ nhớ đến căn nhà của kẻ đó. Ông sẽ thấy những người thân mến đối với ông, vợ ông, các con ông, và các thứ. Ông khao khát nói chuyện với họ, thông đạt với họ, nhưng họ không thể thấy ông và chẳng còn quan tâm đến ông; ông nói với họ, nhưng không có hồi đáp, và điều này làm cho ông đau khổ rất nhiều. Bởi vì ông không thể tạo ra cuộc tiếp xúc, ông nhận định ra ông không còn thuộc thế giới của những sự sống. Cái không có khả năng truyền đạt gây nên sự đau buồn, đau thương, và gây gổ.

Ở điểm này, ông nhận định rằng, thực tế, ông đã rời khỏi thân và có thể thấy xác chết được chôn hoặc hoả táng một cách thực sự. Những trải nghiệm khủng khiếp và đau đớn này làm ông tin rằng ông đã chết. Ông nhận thức những người thân cận và thân mến với ông đang khóc và đang đau khổ. Những cảm xúc của họ có thể làm sống lại tham luyến của chính ông. Chuyện sẽ lớn hơn nữa, nếu những kẻ được ông yêu mến không buồn rầu, hoặc, tệ hơn nữa, nếu họ sung sướng về cái chết của ông, ông cảm thấy giận dữ, và điều này làm ông đau khổ thêm nữa. Nó có thể là những người thừa kế của ông đang đấu tranh với nhau về những gì ông để lại, đó cũng là một cái nguồn khác của thất vọng và tức giận.

Một kẻ đặc biệt gắn bó với căn nhà của mình hoặc những sở hữu sẽ thấy chúng một lần nữa. Ông thấy người ta chiếm lấy các thứ ông đã từng tích lũy, sự đó làm khuấy động lên lòng tham và luyến tiếc của ông. Ông cố gắng nắm giữ chúng, nhưng không ai nhìn thấy ông, và ông vẫn hoàn toàn vô năng lực. Giận dữ thắng ông và có thể làm ông tái sinh trong một cõi địa ngục.

Vài loại trải nghiệm khác nhau của trung hữu của hữu tái sinh tùy thuộc vào hữu tình trong trạng thái đó: nghiệp tiêu cực tạo ra những hiện tướng khủng khiếp và đau đớn, trong khi nghiệp tích cực là một nguồn gốc của những trải nghiệm vui vẻ hạnh phúc.

Thời lượng của trung hữu của hữu tái sinh biến đổi; tái sinh có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào, nhưng một cách tổng quát, ở vào mỗi cuối của bảy chu kì của bảy ngày.Tái sinh có thể xảy ra sau một, hai, hoặc ba tuần. Tối đa thì luôn luôn là (49) bốn mươi chín ngày, nhưng một trung hữu rất dài có thể kéo dài tới một năm.

Nếu tâm có nhiều trải nghiệm trong những khuynh hướng tiêu cực một cách cực kì, trung hữu này chỉ có một khoảng thời gian ngắn, bởi vì hữu tình sẽ đi ngay lập tức tới các cõi thấp hơn (súc sinh, ngạ qủy, địa ngục). Cũng như thế, nếu tâm thấm tràn đầy với những khuynh hướng tích cực, tái sinh sẽ xảy ra một cách nhanh chóng nơi một cõi cao hơn (người, a tu la, chư thiên).Về một phương diện khác, nếu tập khí nghiệp tích cực giảm bớt hoặc yếu, trung hữu của hữu tái sinh sẽ kém cố định và kéo dài hơn.

Bất cứ độ dài thời kì này, những trải nghiệm và những hiện tướng mà người chết nhận thức trong phần đầu của trung hữu của hữu tái sinh quan liên tức thời với đời sống trước. Thế rồi nghiệp dần dần làm những hiện tướng này mờ nhạt đi, trong lúc đó những hiện tướng của đời kế tiếp bắt đầu ứng hiện (manifest). Lúc đó những trải nghiệm tiến đến cho biết rằng đời kế tiếp sẽ ra sao. Một cách luôn luôn, trong suốt ba tuần đầu, thức tái sinh cư trú trong một thế giới nơi mà những trải nghiệm của nó giống nhiều với những trải nghiệm của đời trước. Rồi thì, ở lúc bắt đầu tuần lễ thứ tư, nó bắt đầu nhận thức thế giới trong những cái nó sẽ vào tái sinh.

Trong giai đoạn này của trung hữu, sáu dấu hiệu, trong hình dáng của những trải nghiệm khác biệt, ứng hiện trong những đường lối rất thoáng qua và không thể tiên đoán được, chúng gợi ý cho biết nghiệp và tái sinh sắp đến. Sáu dấu hiệu này là những môi trường tự nhiên khác nhau của cư trú (different habitats), tập hợp điều kiện ảnh hưởng sinh sống (environments), phong cách cư xử (behaviours), thực phẩm, nhóm hữu tình quan liên (company), và những trải nghiệm tâm ý hoặc những nhận thức chúng lưu chuyển từng sát na.

Cũng có bốn trải nghiệm chúng xảy ra giữa tất cả hữu tình trong trung hữu này: đây là những âm thanh khủng khiếp được gọi là bốn kinh sợ (four fearsomes): sự sụp đổ của một quả núi (the collapse of a mountain), một đại hải tràn nuốt (an engulfing ocean), một đại hỏa cháy rực (a blazing inferno), và một cuồng phong xoáy lốc (a gusting whirlwind). Những trải nghiệm này tương ứng với những cái chết nhỏ trong trung hữu đó (little deaths within that bardo), trong trạng thái những gió nhất định được chuyển hoàn lại. Sự chuyển hoàn của gió đất sinh ra cảm tưởng bị chôn vùi dưới một quả núi khổng lồ hoặc dưới một căn nhà. Vào lúc chuyển hoàn của gió nước, có một cảm giác mất chân đứng và đang chìm trong đại hải. Vào lúc chuyển hoàn của gió lửa, có một cảm giác của sự bị nướng trong một ngọn lửa mênh mông, và vào lúc chuyển hoàn của gió khí, có một cảm giác của sự bị cuốn bay, như là bị gió bão mang đi.

Cũng có trải nghiệm của ba sâu thẳm (abysses) trong trung hữu này. Hữu tình trung hữucảm tưởng của sự đang rơi vào trong một cái giếng hoặc đường hầm màu trắng hơi xám, màu hơi đỏ, hoặc tối đen; đây là cái được sinh ra do sự ứng hiện của những khuynh hướng tiến về căm ghét, dục tham, và vô minh, một cách thứ tự tương ứng.

Thời điểm của Tái sinh

Ở điểm này, thời điểm của tái sinh duyên hội xảy ra. Có bốn loại khả hữu của tái sinh: tái sinh thai tạng, tái sinh hoá hiện, tái sinh từ nhiệt và ẩm ướt, và tái sinh từ trứng ; đôi khi chúng được kết hợp. Những sinh vào địa ngục hoặc những cõi trời là những hoá hiện (apparitional).

Tái sinh thì được đi chung với những trải nghiệm khác biệt:

Hữu tình trung hữu -- thức tái sinh, hoặc bardoa trong Tạng ngữ -- trải nghiệm cái lạnh băng giá của miền địa cực thì bị hấp dẫn lôi cuốn đến một ngọn lửa đang cháy. Đây là cái cách như thế nào mà nó đi đến chỗ cuối là bị sinh trong một địa ngục nóng đỏ.

Hữu tình trung hữu cũng có thể bị sợ hãi một cách cực kì và, cảm thấy để được an toàn, đi trốn trong một cái lỗ. Đây là cái cách như thế nào mà nó được tái sinh trong cõi súc sinh.

Nếu hữu tình trung hữu có nghiệp tích cực, nó có thể nhận thức một xứ có chư thiên với một cung điện mĩ lệ. Tiến tới được xứ đó, nó được tái sinh trong những cõi trời của trường thọ, trong cõi đó nó thọ hưởng một thân quang minh suốt một thời gian rất dài.

Nếu hữu tình trung hữu được tái sinh qua thai tạng (=tử cung) trong trạng thái con người, cộng thêm vào đó các nghiệp cần thiết, ba thành tố phải đi chung với nhau : hữu tình trung hữu, tinh trùng của người cha, và trứng của người mẹ. Hữu tình trung hữu nhận thấy cha mẹ đang giao hợp. Nếu hữu tình trung hữu sẽ được tái sinh trong trạng thái nam, nó cảm thấy cảm thức hấp dẫn hướng về người mẹ và có cảm thức chống đối hướng về người cha. Nếu hữu tình trung hữu sắp được tái sinh trong trạng thái nữ, có sự ngược lại -- cảm thức hấp dẫn hướng về người cha và cảm thức chống đối hướng về người mẹ -- sẽ duyên hội xảy ra. Vào thời điểm của thụ thai, tinh dịch của người cha và trứng của người mẹ và hữu tình trung hữu hoặc thức tái sinh thành hợp nhất. Những giao tử (gametes) là những phương diện bên ngoài của tinh chất trắng nam và tinh chất đỏ nữ (The gametes are the outer aspects of the male white substance and female red substance). Chúng chứa tiềm năng cho những thành tố căn bản khác nhau – hư không, khí, lửa, nước và đất trong những phương diện bên ngoài của chúng. Hữu tình trung hữu, với thân ý sinh của nó, chứa những thành tố căn bản này trong những phương diện bên trong của nó. Vào thời điểm của thụ thai, có một sự đông đặc của năm thành tố căn bản bên ngoài và năm thành tố căn bản bên trong. Đây là cách như thế nào một cá nhân sinh khởi. Với sự dung hợp này của hai giao tử và hữu tình trung hữu (=thức tái sinh), đi đến một thời kì của bất thức (the unconsciousness). Một cách có thứ bậc, ở vào thời kì bắt đầu của phát triển phôi, thức sẽ được tìm thấy. Vào thời gian này, không có biệt lệ ngoại trừ, tất cả những kí ức hồi nhớ của hữu tình trung hữu thì bị mất đi.

Hoặc chúng taPhật tử hoặc không là, chúng ta được nối kết với một truyền thống hoặc một truyền thống khác, điều quan trọng nhất cho chúng ta vào lúc chết là nhận biết sáng tỏ tâm của chúng tabản chất của chúng ta và giờ đây tu tập để đạt đếnhội thông hiểu này.

__________________________________

Chú thích

Khi cha mẹ đang gia hợp, thức tái sinh đi vào, qua miệng người cha, rồi qua đầu cơ quan sinh dục người cha và qua cơ quan sinh dục người mẹ.

___________________________________

Kalu Rinpoche

The Bardo of Becoming

The beings of the irreversible bardo wander in an unstable mental body, which looks like their previous carnal body. They have all their faculties and senses and the projection powers of karma.Their bodies are not hindered by any obstacle.

Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, TEXT OF THURCHO.

_________________________

During the bardo of becoming, the mind re-creates the experience of the various projections brought about by its karma; at the end of this bardo, conditioned by that karma, it takes rebirth in one of the six realms of samsara. Just as deep sleep gives rise to all kinds of dreamworld experiences, after the unconsciousness and the fleeting visions of the bardo of emptiness described in the last chapter, there appear the experiences of the bardo of becoming. This is a state in which experiences have a reality similar to those we are actually familiar with, but the conditions of existence are different.

THE BODY AND THE MENTAL WORLD

In this bardo, there is no gross physical body; instead, there is a mental body made up of four and a half aggregates which are: consciousness, compositional factors, perceptions, sensations , and a half of the form aggregate. Beings in the bardo of becoming have a subtle form body, a mental body imperceptible to ordinary beings. Beings endowed with such a body perceive it as theirs and can also perceives others in the same state.

In general, we have three kinds of bodies. First there is the ordinary body, called the karmic body, because it is the result of fully matured karma; this is the body we currently have. The second is the habitual body. This is the dreamworld body, which results from the mind‘s tendency to identify itself with a physical form. It comes from imprints and habits accumulated during the waking state. The third, or mental body, is the one belonging to the being in the bardo of becoming. During the first part of the bardo of becoming, the mental body looks like the physical aspect of the life it just finished. The being in the bardo may, if threatened, fear for its life. It could also have the impression of being killed in confrontations with enemies or in other circumstances. But all these events and enemies are only illusory projections produced by latent impressions in the mind ; the mental body cannot be killed by other projections,which are themselves mental. Even though it is indestructible, the mental body experiences all kinds of fears, terrors, and cravings because of the influence of habits and imprints from the past. In all of this, the experiences of the mental body and the appearances of the bardo of becoming are comparable to those of dreams, but much more intense.

The bardo being has five faculties corresponding to our ordinary five senses, as well as certain powers, such as clairvoyance, which allow it to perceive the world of the living. It also has the power to move around without being hindered by physical objects. In fact, nothing can impede the mental body. It only has to think, for example, about India, and it will immediately find itself there ; if it thinks about the United States, it will instantly be there ; if it thinks of its home prior to dying, it will be there right away. Just by thinking of a place, it will be there. Likewise, it has only to think about or wish for something for the experience to instantly arise.

Actually, our mind thinks a lot. When we are in the bardo of becoming, these different thoughts crystallize and appear as realities, producing a world in great flux. The huge multitude of thoughts, turning and shifting like a whirlwind, makes this situation extremely unstable and difficult.

Having arrived at this stage of the bardo, someone who has, for example, led a family life, will remember his home. He will see those who were dear to him, his wife, children, and so on. He yearns to talk to them, to communicate with them, but they cannot see him and are no longer interested in him; he addresses them, but there is no response, and this causes him tremendous suffering. Because he is unable to make contact, he realizes he is no longer in the world of the living. This inability to communicate provokes grief, suffering, and aggression.

At this point, he realizes that he has, in fact, left his body and can actually see the buried or incinerated corpse. These terrifying and distressing experiences lead him to believe that he is dead. He perceives those who were near and dear to him crying and grieving. Their emotions can revive his own attachment. Moreover, if his loved ones are not sad, or, worse, if they are happy about his death, he feels anger, and this causes him suffering. It might be that that his heirs are fighting among themselves over the division of the things he has left behind, which is still another source of frustration and anger.

Someone who was particularly attached to his home or possessions will see them again. He sees people seizing the things he has accumulated, which arouses his greed and attachment. He tries to hold on to them, but no one sees him, and he remains utterly powerless. Anger overcomes him and can cause him to take rebirth in a hell realm.

The various different experiences of the bardo of becoming depend upon the karma of the being in that state : negative karma produces terrifying and paiful appearances, while positive karma is a source of pleasant, happy experiences.

The duration of the bardo of becoming varies; rebirth can occur at any time, but generally at the end of seven cycles of seven days. Rebirth can also take place after one, two, or three weeks. The maximum usually is forty-nine days, but a very long bardo could last up to a year.

If the mind is steeped in extremely negative tendencies, this bardo will last only a short while, because the being will immediately go to the lower realms. Likewise, if the mind is saturated with positive tendencies, rebirth will occur just as quickly in a higher realm. On the other hand, if the karmic imprints are mitigated or weak, the bardo of becoming will be less certain and last longer.

Whatever its duration, the experiences and appearances that the deceased perceives in the first part of the bardo of becoming relate to the immediately preceding lifetime. Then, karma gradually causes those appearances to fade, while those of the next life begin to manifest. Then come the experiences that suggest what that next lifetime will be. Usually, during the first three weeks, the birth consciousness abides in a world where its experiences are much like those of its previous life. Then, at the beginning of the fourth week, it begins to perceive the world into which it will take birth.

In this phase of the bardo, six signs, in the form of various experiences, manifest in a very fleeting and unpredictable ways, which suggest the karma and the rebirth that will be taken. These six signs are different habitats, environments, behaviours, foods, company, and mental experiences or perceptions that shift from moment to moment.

There are also four experiences that occur among all the beings in this bardo : these are the terrifying sounds called the four fearsomes : The collapse of a mountain, an engulfing ocean, a blazing inferno, and a gusting whirlwind. These experiences correspond to little deaths within that bardo, as certain winds are reversed. The reversal of the earth wind produces the impression of being buried under a gigantic mountain or under a house. At the reversal of the water wind, there is the feeling of losing one’s footing and sinking in the ocean. At the reversal of the fire wind, there is a feeling of being grilled in an immense fire, and upon the reversal of the air wind, there is the feeling of being swept away, as if carried off by a tornado.

There is also the experience of the three abysses in this bardo. The bardo being has the impression of falling into a grayish white, reddish, or dark well or tunnel; this is produced by the manifestation of the tendencies toward hatred, desire, and ignorance, respectively.

THE MOMENT OF REBIRTH

 At this point, the moment of rebirth occurs. There are four possible kinds of rebirths : womb birth, apparitional birth, birth from heat and moisture, and birth from an egg; sometimes they are combined. Birth in hell or divine realms are apparitional.

Rebirth is accompanied by different experiences:

The bardo being – the rebirth consciousness, or bardoa in Tibetan – that experiences artic cold is attracted by a burning flame. This is how it ends up being born in a hot hell.

The bardoa may also be extremely terrified and, to feel secure, goes and hides in a hole. This is how it is reborn in an animal realm.

If the bardoa has positive karma, it can perceive a celestial place with a marvelous palace. Reaching that place, it is born in the divine realms of long life, in which it enjoys a radiant body for a very long time.

If the bardoa is to be born of a womb as a human, in addition to the necessary karma, three factors must come together: the bardo being, the father’s sperm, and the mother‘s egg. The bardo being perceives the parents having sex. If the bardoa will be born as a male, he feels attraction for the mother and revulsion toward the father. If the bardo being will be born as a female, the opposite – attraction for the father and revulsion toward the mother – will occur. At the moment of conception, the father’s semen, the mother’s ovum, and the bardoa or rebirth consciousness unite. The gametes are the outer aspects of the male white substance and female red substance. They contain the potential for the different elements – space, air, fire, water, and eartn in their outer aspects. At the moment of conception, there is a consolidation of the five outer elements and the five inner elements. This is how a new individual arises.With this fusion of the two gametes and the bardoa, there comes a period of unconsciousness. Little by little, at the beginning of embryogenesis, the consciousness will be found. At that time, without exception, all recollection of the bardo is lost.

Whether we are Buddhist or not, whether we are connected to one tradition or another, the most important thing for us at death is to know our mind and our nature well and to practice now to gain this understanding.

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15551)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22999)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14032)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12953)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55080)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9131)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14410)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14178)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13870)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36279)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19859)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18150)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19184)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19106)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17618)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31510)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15907)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14975)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14664)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46150)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21019)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21582)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23366)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34353)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19467)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18925)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22911)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20156)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18331)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19822)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19512)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33387)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34450)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54484)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37683)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21115)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17859)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63616)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17359)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49626)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27406)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20248)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22999)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18880)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16313)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17899)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20926)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17340)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14452)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16358)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17453)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21957)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13479)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14353)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15366)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14968)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12678)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13331)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27373)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12486)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13173)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14470)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16204)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12382)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15385)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12858)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12181)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13180)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21632)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11270)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22688)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15048)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14921)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22413)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14545)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12605)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18887)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14713)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43840)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56934)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13819)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47453)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13642)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14554)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28982)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33275)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38351)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15385)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31201)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40368)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43395)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46633)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant