Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu Lan - rằm tháng bảy

30 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9379)
Vu Lan - rằm tháng bảy

VU LAN – RẰM THÁNG BẢY

HT. Thích Khế Chơn

Hôm nay, nỗi niềm hiếu tâm của người Phật tử đang tràn ngập khắp cõi lòng, làm ngào ngạt hương trầm Vu – Lan tỏa rộng mọi không gian. Toàn thể Tăng Ni Phật Tử chúng ta đang thành kính kỷ niệm Vu – Lan thắng hội Phật lịch 2552.

Rằm tháng Bảy là ngày thiêng liêng, trọng đại, nhắc nhở chúng ta nhớ đến ngày Tự Tứ của Chư Tăng Ni sau ba tháng an cư kiết hạ, rèn luyện thân tâm theo chánh pháp, làm cho hạnh nguyện của mình dần dần trở nên hoàn hảo, không bị thối chuyển mục đích giải thoát cao thâm, khỏi bị lùi tâm trên đường tu hành đầy những chông gai hiểm trở

Đây chính là giờ phút các vị Tăng Ni tự kiểm thảo tư tưởng, ngôn ngữhành vi của mình để rồi hân hoan lãnh thọ thêm một tuổi đạo, tuổi của đức hạnh, của sự tinh tấn trên bước đường tu học

Nếu Tết Nguyên Đán là ngày vui của dân chúng được thêm một tuổi đời, thì lễ Vu Lan là ngày lễ của Chư Tăng Ni được thêm một tuổi đạo.

Thực chất Vu – Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri và hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.

Cũng ngày này, cách đây trên 2500 lịch sử, đức Mục Kiền Liên nặng lòng hiếu đạo đã cứu mẹ hiền thoát khỏi vòng trầm luân cơm lửa khổ đau. 

Đâu đây tiếng chuông chùa ngân vang, hòa lẫn theo nhịp mõ lời kinh tạo thành những âm thanh huyền diệu trong ngày Vu Lan đến, chấm dứt một quảng đời đen tối, mở đầu cho cuộc sống sáng tươi, bà Thanh Đề mẹ của đức Mục Kiến Liên đã từ bỏ chiếc thân đơn bạc, tiều tụy xác xơ của kiếp đọa đày, từ giả luôn cả ngục tù tra tấn, những đói lạnh nguy vong, hiện thân của vô vàn tội lỗi. Bà đã được sinh về cảnh giới an lành, nhờ sức gia trì chú nguyện của thập phương Đại Đức Chúng Tănglòng hiếu thảo của đức Mục Kiến Liên Tôn Giả.

Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ

Bên cạnh những giá trị hùng tráng của một triết lý siêu việtvĩnh cửu, Đạo Phật cũng đã gần gũi đi vào cuộc sống dân tộc bằng một phong thái dung dị, hòa ái đậm đà – Quê hương yêu dấu của chúng ta đã đón nhận dòng suối mát đạo lý ấy như đón thở khí trời thoải mái và khoáng đạt. Vu Lan với lòng báo ân cha mẹ chính là dấu hiệu chứng tỏ sự dung hợp gắn bó giữa giá trị luân lý ngát thơm đạo vị với trái tim tình ái quê hương. 

Mỗi người chúng ta lớn lên, xương thịt và tinh thần đều làm bằng giọt ngọc thủy tinh đôi mắt cha mẹ, đều bềnh bồng ru êm trong tiếng hát thì thầm thương yêu sóng vỗ, đều thơm tho phong bánh chợ chiều đường tre rợp bóng. Chúng ta lớn lên trong tiếng mẹ cha, trở mình trong tình thương yêu ấp ủ của cha mẹ – Vu Lan chính là một sự thức giấc để chúng ta có dịp đi về hoài niệm, để lời kinh báo hiếu ở mãi trong lòng người. 

Nói đến hiếu đạo là nói đến tình thương, một tình thương có trước mà trên tất cả mọi tình thương.

Những gì khác trong cuộc sống của con người thì phải nhờ có sự tiến bộ về tư tưởng hay vật chất con người mới nhận ra, nhưng tình thương của cha mẹ đối với con cái thì đã được cảm nhận từ bao giờ rồi. Cho nên có con người là có hiếu thảo. Đây là một bổn phận phát xuất từ tình thương, vì vậy không có tính chất bắt buộc hay áp đặt nào cả. 

Tình thương của cha mẹ là “nước trong nguồn chạy ra” lai láng, mát dịu, ngọt ngào. Nó chính là thứ dịch thủy đã bao bọc thai nhi trong chín tháng mười ngày, là dung môi cần cho sự sống tăng trưởng. Thiếu nước thì vạn vật héo mòn cằn cõi, thiếu tình thương thì nhân loại lầm than, lụi tàn trong sân hận chấp tranh; thiếu cha mẹ thì người con lâm cảnh khốn cùng giữa cuộc đời sa mạc chói chang, khô sở thiêu đốt, lạc lõng, bơ vơ, thân tâm không nơi nương tựa. Cho nên nếu lỡ ra, chẳng may nguồn thương ấy mất đi thì đó là bất hạnh lớn nhất của đời người

Thế nhưng, cuộc sống vẫn thường diễn ra lắm cảnh trớ trêu, ý thức và cảm nhận về hạnh phúc thường đồng hóa với hạnh phúc. Cho nên khi ở trong hạnh phúc con người thường ít khi thấy mình hạnh phúc, chỉ khi nào hạnh phúc đã vượt khỏi tầm tay mới thấy được hạnh phúc

Khi cha mẹ còn sống, còn khỏe, người con được tắm được bơi trong tình thương yêu dịu mát, ngọt ngào, thì ít ai cảm nhận được cái hương vị tuyệt vời ấy một cách rốt ráo. Chỉ khi cha mẹ đã mất rồi, khi tình thương ấy không còn nữa, mới xót xa nuối tiếc ngợi ca.

Một thi sĩ đã cảm tác lên mấy vần thơ trong khi mất mẹ:

Khi còn mẹ con còn tất cả
Mẹ đi rồi tất cả đều đi

Mẹ ơi con chẳng còn chi

Bơ vơ đến cả khi đi lúc về

Thật đúng! Mất mẹ cha là mất tất cả bầu trời, vì trái tim của cha mẹ là kho tàng chất chứa nguồn thương, tình âu yếm, nét dịu hiền, bao dung, quên mình và tận tụy. 

Ôi! Trọn cả cuộc đời chẳng thảnh thơi
Nhưng mong con trẻ chóng nên người! 

Tình thương của cha mẹ “êm như gió lùa mặt hồ”, “nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ”, “thương con thao thức đêm trường, chẳng nề sớm khuya mưa nắng, lặn lội gieo neo, không quản thân nghèo, không nao mái đầu buồn phiền nhuộm bạc. . .”

Công ơn cha mẹ cao như trời lồng lộng, rộng như đất khó dò. 
Lúc còn nhỏ cha mẹ lo miếng cơm manh áo, ngày lớn khôn lo việc học hành.

Lo cho con lập thân vào đời, sao cho nở mặt rạng mày với thiên hạ. Lo dựng vợ gã chồng, lo sinh cơ lập nghiệp cho con có chỗ nương nhờ tương lai… Chính nỗi âu lo đã làm cho mái đầu cha mẹ sớm bạc trắng trên trán cha mẹ nhiều nếp nhăn nheo và làm cho cha mẹ sớm già hơn tuổi tác. Những đêm dài trằn trọc lo toan, những đêm khuya thức trắng mắt khi con ốm đau tai biến. Nào những ngày triền miên như thế kỷ cha mẹ ngồi đợi trông con, nào những giọt nước mắt lăn trên đôi má mẹ cha, tủi hờn thân thế khi đã tận sức mình mà chẳng lo nổi cho con tròn nguyện ước bình sinh. 

Cha mẹ là nơi ẩn núp an ổn chắc chắn nhất của tuổi ấu thơ! Bị vấp ngã bị vây đuổi, bị đe dọa, chạy vào lòng mẹ, vùi cả đầu, cả khuôn mặt đẫm nước mắt vào áo ôm lấy cha mẹcảm thấy an toàn

Lớn lên, những lúc bị vùi dập, trong nỗi khổ đau tận cùng của thân phận, người con ở bất cứ lứa tuổi nào vẫn gọi “Cha mẹ ơi” để than thở

Thế mà, có những đứa con vì vô minh che khuất không thấy được nỗi niềm của cha mẹ, đang lê thân qua mờ mịt đêm dài, làm trái tim cha mẹ quặn đau, làm đôi mắt cha mẹ rưng rưng! Những đứa con đã ngỗ nghịch từ thuở bào thai, đập phá vẫy vùng làm mẹ đớn đau, làm cha kinh hãi – Những đứa con không biết ơn nặng nghĩa sâu của cha mẹ, đã chẳng trân trọng kính yêu lại còn vong ân thất đức – Không xót xa cù lao chín chữ … thương thay những đứa con mê mờ lầm lạc, trà đình lửa điểm, lãng đãng ngao du theo phương cờ bạc, rượu chè, cần sa ma túy, quên cha, quên mẹ bán bổ thâm tình, phản thầy lừa bạn, lòng lang dạ thú, bội nghĩa vong ân, trọng tiền tài khinh nhân nghĩa, đã trở thành bất hiếu bất nhân. 

Ôi! Những đứa con: 
Thân người ba ngã tối tăm 

Yêu cuồng, sống loạn, uống ăn tối tàn 

Lọc lừa tham ác mưu toan

Đường tu xa mãi, nghiệp oan chất đầy! 

Khi cha mẹ đã mất rồi, người con bất hiếu chỉ biết khóc cho thân phận, hay rưng rưng nuốt lệ ăn năn vì đã lỡ tay đánh mất một hạnh phúc lớn lao và vô phương cứa chữa. 

Hiếu hạnh trong Đạo Phật được quan niệm một cách cứa cánh và siêu việt về không gianthời gian: Về thời gianbáo đền công ơn cha mẹ trong vô lượng, vô số kiếp và không gian là tất cả chúng sanh trong tam đồ lục đạo – Hơn nữa, hiếu là giới luật, là công đức của muôn ngàn công đức và tâm hiếu chính là tâm Phật, hạnh hiếu chính là hạnh Phật. Cho đến muốn cầu thành Phật Quả, hiếu dưỡng cha mẹviệc làm đầu tiên. Tiền kiếp Đức Thích Ca rất nặng lòng hiếu đạo và xem là một công hạnh tiên quyết trong đạo làm người. Ngài không từ chối bất cứ một hy sinh nào miễn cha mẹ sống còn và mạnh khỏe, dù phải móc mắt để làm thuốc, moi tim để thế mạng, hoặc từ bỏ ngai vàng đế nghiệp để phụng dưỡng cha mẹ. Đức Phật đã dạy: “Nếu người nào mong cầu đạo giải thoát, mong cứu khổ chúng sinh hoặc mong đạt đến Thánh quả Vô Thượng, người ấy tuyệt đối phải hiếu kính với cha mẹ. Người con chí hiếu sẽ thành tựu được các hạnh lành”. Chính Phật ngôn này đã trở thành một “Thông điệp hiếu kính” mà Đức Phật đã gởi cho nhân loại cách đây trên 2500 năm lịch sử

Mưa trời ngập chảy ra sông
Nhớ công dưỡng dục ra công đáp đến 

Gió đưa cành trúc la đà 

Mẹ cha còn sống Phật Đà hiện thân! 

Cha mẹ là một ân huệ cao quý của đời ta, xin hãy trân quý nâng niu, đừng vì lý này lẽ nọ mà lãng phí nguồn ân suối ái ấy. Xin hãy nhìn cha mẹ bằng cái nhìn hồn nhiên, cái nhìn tìm gặp một tâm hồn, một niềm ai ủi, mà đôi mắt hiền từ của cha mẹ là cửa ngõ gọi chờ – Hãy nhìn cha mẹ cười, nụ cười xinh tươi hay móm mém đều biểu hiện thân ái và cảm động… nụ cười của cha mẹ đã nói lên tất cả những gì mà mắt và lời nói, không diễn tả hết được. 

Cha mẹtình thương trầm lắng âm ỉ và bất diệt chớm nở giữa loài người từ thuở hồng hoang. Tình thương yêu ấy là cội nguồn của hiếu trung, là nơi xuất phát của tình thương nhân loại. Ta thương mẹ thương cha vì ta là con của cha của mẹ như nước thương nguồn, như cây thương cội. Thương mẹ kính cha không vì những ràng buộc chung quanh mới là hiếu thảo đích thực. 

Thương cha mẹ và còn có cha mẹ để mà thương đời còn chi hơn nữa.

Giàu nghèo sang hèn xin đừng quái ngại, những người con hiếu thảo hãy gạn lọc lòng mình hướng về Tam Bảo cầu cho cha mẹ còn sống phước lạc trăm năm, cha mẹ quá vãng siêu sinh tịnh cảnh

Xin hãy thành tâm cầu nguyện cho năm tháng đều trở thành Vu Lan, cho thế giới ba ngàn khổ lụy tắm cam lồ, cho lời kinh báo ân vang vọng tình đời, cho trần gian không còn đứa con nào làm khổ cha mẹ

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT MA HA TÁT

Cố Đô Huế, mùa Vu Lan năm Mậu Tý, Phật lịch 2552

Hòa thượng THÍCH KHẾ CHƠN

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10452)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12623)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16470)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10738)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11910)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11097)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9507)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10076)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12448)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8709)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9069)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8287)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10145)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10165)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8956)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10437)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9911)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10080)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21215)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19097)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9437)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11793)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10610)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15721)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant