Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Rằm tháng bảy và lễ Vu Lan

30 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9588)
Rằm tháng bảy và lễ Vu Lan

RẰM THÁNG BẢY VÀ LỄ VU LAN

Đồng Thành

Sự xuất hiện của Phật giáo tại Trung Hoa được xem là một hiện tượng văn hóa độc đáo có ảnh hưởng lớn đến những biến chuyển nội tại tất yếu của nền văn minh bản xứ. Tư tưởngluân lý của Phật giáo đã từng là những yếu tố tiên quyết góp phần hình thành nên lối tư duy thâm thúy cũng như những nếp sống vốn nặng tính truyền thống của người dân nơi đây. Vai trò của Phật giáo tại Trung Hoa không chỉ giới hạn trên lĩnh vực tư tưởng triết học, mà còn được thể hiện qua nhiều hình thái sinh hoạt văn hóa thấm nhuần tinh thần nhân bản của giáo lý nhà Phật. Một trong những nếp sinh hoạt như thế được diễn ra vào ngày rằm tháng bảy, đó là lễ Vu Lan.

Tại Trung Hoa, ngày rằm tháng bảy âm lịch thường rơi vào khoảng thời gian giữa Hạ chí và Thu phân. Tháng bảy là lúc những cơn gió lạnh từ phương xa thổi về, bầu trời thường giăng đầy sương mù vào mỗi buổi sớm. Chương Nguyệt Lịnh trong sách Lễ ký có chép rằng vào tháng Mạnh Thu, gió lạnh tràn về, sương trắng buông tỏa, ve sầu kêu vang, giống chim ưng đuổi bắt các loài chim nhỏ khác. Trong sinh hoạt nông nghiệp, giai đoạn đầu mùa Thu là thời điểm thu hoạch nông sản ở phương Bắc, nhưng lại là lúc gieo trồng mùa vụ thứ hai ở phương Nam. Sách Lễ ký còn chép rằng đến ngày lập Thu, vua cùng các đại thần trong triều lên đàn tế lễ phía Tây để nghênh đón tiết Thu. Cũng vào tháng ấy, nhà nông hiến nộp lúa thóc, vua thiết lễ dâng cúng tại lăng tẩm thờ các bậc tiên vương.

Một trong những phong tục rất phổ biến dưới thời nhà Hán vào tháng bảy đó là tục Thu hễ. Theo tục này, vào ngày mười bốn tháng bảy dân chúng thuộc nhiều tầng lớp khác nhau tụ họp trên bờ sông làm phép tẩy trừ ma quỷ và các điềm xấu ác, rồi cùng nhau uống rượu, ăn mừngthưởng thức thơ ca. Ngoài ra, một buổi lễ khác cũng phổ biến trong dân gian đó là lễ cúng vào đêm mồng bảy tháng bảy. Theo truyền thuyết, đây là đêm duy nhất trong năm mà Ngưu Lang và Chức Nữ, đôi uyên ương phạm luật trời bị phạt sống cách biệt ở hai đầu sông Ngân, gặp được nhau qua chiếc cầu Ô thước. Vào đêm ấy, dân chúng thường rủ nhau ra sân ngắm những ánh sáng của dải ngân hà rồi hiến cúng lễ phẩm, cầu cho gia đình được phúc lộc, giàu sang[1]. Phong tục này đã xuất hiện vào khoảng đầu TK II TL. Như thế, trong các sinh hoạt dân gian, tháng bảy được xem là tháng thu hoạch mùa vụ, là tháng của những lễ hội văn hóa thấm đượm tình người, là lúc mà vua chúa và dân chúng cùng tưởng nhớ, dâng lễ, và cúng bái tổ tiên nhiều đời.

Ngày rằm tháng bảy cũng là thời điểm diễn ra tiết Trung nguyên của Đạo giáo. Tín đồ Đạo giáo thường sùng bái ba vị quan chính là Thiên quan, Địa quan, và Thủy quan, gọi là Tam quan đại đế. Mỗi vị có một trọng trách riêng: Thiên quan ban phước vào tiết Thượng nguyên, Địa quan xá tội vào tiết Trung nguyên, và Thủy quan giải ách vào tiết Hạ nguyên. Tương truyền, vào tiết Trung nguyên, Địa quan, người có chức trách theo dõi các sinh hoạt cùng những việc làm thiện ác của loài người trong nhân gian cũng như các loài ma quỉ nơi địa ngục, sẽ triệu tập các vị thần khác để cùng phán xét tội phước và tuổi thọ của loài ngườima quỉ. Khi ấy, các loài ma quỉ, tội nhân trong địa ngục cùng tập họp tại một nơi. Suốt cả ngày hôm ấy, tại các ngôi miếu của Đạo giáo, tín đồ trang hoàng lộng lẫy, dâng cúng hoa quả, thực phẩm, các Đạo sĩ thì giảng đạo, tụng kinh với niềm tin rằng nhờ sự cúng tế ấy mà tổ tiên vốn bị đọa làm tội nhân trong địa ngục và các loài quỉ đói được ăn uống đầy đủ, xa lìa mọi thống khổ, sanh về cõi người[2]. Trai giới lục, một tác phẩm của Đạo giáo được biên soạn vào cuối TK VII TL còn nói rằng trong những buổi lễ cúng tế ba vị thần trên, người ta thường sám hối những lỗi lầm của mình. Như vậy, tiết Trung nguyên không chỉ là dịp để tín đồ Đạo giáo dâng lễ vật cúng tế thần thánh, tổ tiên, mà còn là dịp để sám hối cho những hành vi sai trái của mình.

Để giải thích cho ý nghĩa của tiết Trung nguyên, các Đạo gia đã biên soạn một số bản kinh chứa nhiều giai thoại liên quan đến ngày lễ này. Trong quá trình biên soạn như thế, các tác giả đã vay mượn khá nhiều thuật ngữ, khái niệm, và các mẫu chuyện trong kinh điển Phật giáo. Chẳng hạn như cuốn Thái thượng đổng huyền linh bảo tam nguyên ngọc kinh huyền đô đại hiến kinh (được biên soạn vào TK VI TL) có nội dung giống hệt như kinh Vu lan bồn. Trong Đại hiến kinh, Nguyên Thỉ Thiên Tôn cũng phóng hào quang đến cõi u minh, và cuộc đối thoại giữa Thiên Tônđệ tử mình là Thái Thượng Đạo Quân về cách cứu độ tội nhân trong địa ngục giống hệt như cuộc đối thoại giữa đức Phậttôn giả Mục-kiền-liên trong kinh Vu lan bồn. Điều khác biệt là Thiên Tôn dạy rằng cách cứu độ duy nhất các tội nhân trong địa ngục là dâng phẩm vật cúng dường các Đạo gia. Điều này cho thấy khởi đầu từ quan niệm cúng tế thần thánh cùng ngạ quỉ, ngục nhân... lễ Trung nguyên về sau mang ý nghĩa gần gũi hơn và cũng chịu ảnh hưởng phần nào tư tưởng hiếu đạo trong kinh điển nhà Phật.

Khi Phật giáo được truyền đến Trung Hoa, một quốc gia vốn luôn đề cao tinh thần hiếu đạo cũng như những luân lý căn bản trong đời sống gia đình theo tư tưởng Khổng giáo, các nhà sư Phật giáo đã ý thức được tầm quan trọng của việc giới thiệutruyền bá những lời dạy mang tính đạo đức thâm thúy của đạo Phật nhằm góp phần xây một xã hội nhân bản và tôn vinh những giá trị luân lý vốn có nơi đây. Lễ hội Vu Lan Bồn được tổ chức vào ngày rằm tháng bảy, thời điểm kết thúc mùa an cư của chư Tăng, được xem là một trong những cống hiến tiêu biểu trên phương diện văn hóatín ngưỡng của Phật giáo đối với người dân Trung Hoa. Nội dung của lễ hội này là bày tỏ lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ hiện tiền, thiết lễ cúng dường Tam bảo để hồi hướng công đức cầu nguyện cho cha mẹ đã quá vãng cùng tổ tiên nhiều đời, và cúng thí cho các chúng sanh đang bị đọa đày trong các cảnh giới khổ đau. Tất cả những việc làm này của người Phật tử đều xuất phát từ tinh thần hiếu đạo vốn đã được đức Phật tôn vinh và khuyến tấn. Tinh thần hiếu đạo ấy đã xuất hiện lâu đời trong những sinh hoạt tâm linh của các hàng Tăng sĩ và Phật tử Ấn Độ.

Tại Ấn Độ, mùa an cư được kết thúc bằng nghi thức Tự tứ và sau đó là lễ dâng y Kathi­na. Các bộ kinh, luật còn lại không nói gì về việc thiết lễ cúng dườngcầu nguyện cho người đã khuất của hàng Phật tử tại gia sau mùa an cư của chư Tăng. Tuy nhiên, tư tưởng hiếu đạo trong đạo Phật vẫn được khắc họa rõ nét qua những lời dạy của đức Phật trong kinh điển về việc biết ơnđền ơn, về công ơn to lớn của các đấng sanh thành, về cách hành xử đạo đức của con cái đối với cha mẹ, về sự tôn kính của con cháu đối với tổ tiên trong nhiều đời, v.v... Truyền thống báo hiếu trong đạo Phật được thể hiện qua chính cuộc đời của đức Phật khi Ngài độ cho cho cha mẹ mình chứng đắc thánh quả. Tôn giả Xá-lợi-phất cũng noi gương đức Phật đã trở về quê hương độ cho mẹ già quay về với chánh đạo trước khi tôn giả viên tịch.

Truyền thống này còn được minh họa qua mẩu chuyện hiếu hạnh của một nhà sư trẻ trong truyện Bổn Sanh Sāma như sau. Có một chàng thanh niên sinh trưởng trong một gia đình giàu có tại Xá-vệ. Sau một đôi lần nghe đức Phật thuyết pháp tại tinh xá Kỳ Viên, anh ta khởi tâm cảm mến và xin được xuất gia trong Tăng đoàn. Đức Phật hứa khả và khuyên anh ta nên trở về xin phép cha mẹ trước khi thực hiện nếp sống thanh bần của đời khất sĩ. Vì thương quí người con duy nhất của mình, cha mẹ chàng do dự, không muốn con mình phải sống một cuộc đời thanh đạm, cơ hàn. Song chàng thanh niên vốn đã quyết chí xuất gia nên bèn nhịn ăn bảy ngày mong cha mẹ chấp thuận ước nguyện của mình. Cuối cùng thì cha mẹ chàng đành phải đồng ý cho con mình ra đi theo tiếng gọi của lý tưởngniềm tin. Sau khi được xuất giathọ giới, nhà sư trẻ này liền giã từ phố thị, theo chân các vị sơn Tăng, ngày đêm tinh cần tu tập thiền định tại một am thất nhỏ giữa rừng sâu. Trong khi ấy, cha mẹ của nhà sư này càng ngày càng già yếu và một ngày kia tai họa lại xảy đến với họ: bọn gia nô cướp hết tài sản của gia đình và tẩu thoát. Không còn tiền bạc, nghề nghiệp gì, hai vợ chồng già trở thành những người hành khất xin ăn qua ngày. Khi hay tin ấy, nhà sư trẻ bèn từ giã núi rừng, trở về làng quê với ý nguyện là sẽ hoàn tục để phụng dưỡng cha mẹ. Khi đến một ngã ba, sư lưỡng lự không biết nên theo hướng rẽ về tinh xá Kỳ Viên để gặp đức Phật trước hay hướng về nhà mình gặp cha mẹ trước. Suy tính hồi lâu, sư cho rằng mình nên gặp đức Bổn sư lần cuối trước khi quay về với đời sống thế tục. Nghĩ thế, sư liền cất bước hướng về tinh xá Kỳ Viên. Cảm thông với tình cảnh đáng thương ấy, đức Phật liền giảng bài kinh Mātuposaka Sutta cho nhà sư. Sau khi nghe xong bài pháp, nhà sư bèn tỉnh ngộ rằng mình không cần phải từ bỏ đời sống xuất gia trong khi phụng dưỡng cha mẹ. Kể từ đó, sau mỗi lần khất thực, sư bèn đem thức ăn về dâng cho cha mẹ trước và bản thân mình ăn phần cơm còn dư lại. Mỗi khi được dâng cúng vật phẩm gì, sư đều mang về chia sẻ cho cha mẹ mình. Khi ấy có một số vị Tỳ-kheo cho rằng việc làm này của nhà sưtrái với giới luật nên bạch lên đức Phật. Đức Phật không những không trách cứ mà còn khen ngợi nhà sư. Nhân đó, Ngài bèn kể lại một mẩu chuyện về sự phụng dưỡng của Ngài đối với cha mẹ trong đời quá khứ.[3]

Câu chuyện trên cho thấy rằng người tu sĩ trong Tăng đoàn Phật giáo tuy đề cao nếp sống viễn ly để hướng đến sự giải thoát, nhưng trong phạm vi đạo đức xã hội, trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ là điều mà vị ấy không thể không thực hiện. Những lời dạy của đức Phật về hiếu hạnh trong kinh điển không phải chỉ dành cho người cư sĩ tại gia, mà ngay cả cho các vị xuất gia. Một tấm gương hiếu hạnh khác được nhắc đến trong Ngũ phần luật là Tỳ-kheo Tất-lăng-già-bà-sa (Pilindavatsa). Cha mẹ ngài vốn nghèo khổ, nên ngài muốn đem y của mình dâng cho cha mẹ mà không dám. Ngài bèn bạch lên đức Phật. Đức Phật nhân việc này bèn họp cả hội chúng và dạy rằng: ví như một người vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ suốt cả trăm năm, dầu cha mẹ có phóng uế trên người, dầu cung phụng cha mẹ thức ăn cùng y phục hiếm quý cũng chưa báo đáp được ân đức sanh thành. Vì thế, nếu Tỳ-kheo không phụng dưỡng cha mẹ thì mắc trọng tội.[4] Tinh thần hiếu hạnh trong Phật giáo Ấn Độ không những được thể hiện qua những tấm gương hiếu thảo của các vị xuất gia mà còn được biểu hiện qua sự cúng dường của hàng Phật tử tại gia nhằm hồi hướng công đức cho cha mẹ. Rất nhiều bia ký được tìm thấy tại các di tích Phật giáo ở khắp Ấn Độ như Bhārhut, Kharoṣṭhī, Mathurā, Bodh-Gayā, Nāgāήunikoṇda, Sarnath, Ajaṇṭā... cho biết rằng trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà sư cũng như tín đồ Phật giáo, từ hoàng tộc cho đến hàng dân dã đã xây chùa, dựng tháp, tạc tượng, dâng y, v.v... để cúng dường lên Tam bảo hầu hồi hướng công đức cho cha mẹ, cho tổ tiênpháp giới chúng sanh.[5] Điều này cho thấy rằng, kể từ thời đức Phật cho đến nhiều thế kỷ sau đó, đạo hiếu đã được hàng Phật tử nhiệt tâm thực hành trong đời sống thường nhật của mình. Điều đáng chú ý là các bia ký này đều ghi lại rằng, khi dâng cúng một vật phẩm gì lên Tam bảo, người cúng dường đều không vì cầu lợi ích cho mình mà phát nguyện hồi hướng công đức đến cho cha mẹ hiện đời hay đã quá vãng. Như thế, đây chính là việc thực hành đạo hiếu một cách đúng đắn theo lời dạy của đức Phật.

Truyền thống hiếu hạnh trong Phật giáo Ấn Độ như thế đã được lưu truyền trong các sinh hoạt của người Phật tử tại nhiều mảnh đất khác nhau. Riêng tại Trung Hoa truyền thống đó không chỉ thâm nhập trong nếp sống thuần hòa của người Phật tử mà nó đã phát triển thành một lễ hội quan trọng trong dân gian. Lễ hội đó chính là lễ Vu Lan.

Lễ hội này được tổ chức dựa theo lời dạy của đức Phật về phương thức và ý nghĩa báo hiếu trong nhiều bản kinh khác nhau như Phật thuyết vu lan bồn kinh, Phật thăng Đao lợi thiên vị mẫu thuyết pháp kinh, Phật thuyết phụ mẫu ân nan báo kinh, Phật thuyết báo ân phụng bồn kinh, Phật thuyết hiếu tử kinh, Tịnh độ vu lan bồn kinh, v.v... Trong số những bản kinh này, Phật thuyết vu lan bồn kinhbản kinh quan trọng nhất bởi lẽ (1) cách thức và ý nghĩa của lễ Vu Lan đều y cứ vào bản kinh này; (2) đây là bản kinh chính được trì tụng trong lễ Vu Lan; và (3) các nhà chú giải kinh điển thường chọn bản kinh này để viết sớ giải và trích dẫn khi viết về truyền thống hiếu đạo trong Phật giáo. Trong các thư mục kinh điển Phật giáo, Xuất tam tạng kí tập của ngài Tăng Hữu (445-518) là tác phẩm đầu tiên nhắc đến kinh này. Đến năm 597, khi biên soạn Lịch đại tam bảo kỉ, Phí Trường Phòng cho biết dịch giả của bản kinh này là ngài Trúc Pháp Hộ (265-3130.[6] Các tác phẩm khác được biên soạn trong thời gian sau này như Cổ kim dịch kinh đồ kỉ (648), Đại đường nội điển lục (664), và Khai nguyên thích giáo lục (730) đều cho biết rằng dịch giả của bản kinh này là ngài Pháp Hộ. Theo nội dung của bản kinh này và Kinh báo ân phụng bồn, y theo lời dạy của đức Phật, tôn giả Mục-kiền-liên là người đầu tiên thiết lễ Vu Lan để nhờ sức chú nguyện của chư Tăng cứu độ mẹ mình khỏi cảnh ngạ quỉ đói khát. Noi theo gương hiếu hạnh này, vào ngày rằm tháng bảy, chư TăngPhật tử cùng tổ chức lễ Vu Lan để cầu nguyện cho cha mẹtổ tiên của mình.

Trong Phật giáo, ngày rằm vốn là ngày quan trọng trong mỗi tháng vì đó không chỉ là ngày Bố-tát của chư Tăng Ni, mà còn là ngày các vị có oai lực lớn trong thế gian như bốn vị vua trời thường xem xét nếp sống hiếu thảo, đạo đức của loài người. Theo kinh Tạp A-hàm, quyển 40, vào ngày mồng tám mỗi tháng, bốn đại thiên vương sai các đại thần đi xem xét nhân gian, ngày 14 vua sai thái tử thị sát nhân gian, đến ngày rằm bốn vị thiên vương sẽ đích thân xuống thế gian để xem xét loài người có còn hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ và làm các việc lành khác như bố thí, trì giới, bố-tát... hay chăng.[7] Riêng ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ, ngày kết thúc mùa an cư của chư Tăng, gọi là Phật lạp nhật, tức ngày cuối năm tính theo lịch Phật giáo. Trong Đại Tống Tăng sử lược, ngài Tán Ninh (919-1001) có viết rằng, theo kinh luật Phật giáo, ngày 16 tháng 7 là ngày đầu của mỗi năm mới, đánh dấu sự sanh thành giới thân huệ mạng của mỗi vị Tỳ-kheo. Vì thế, ngày rằm tháng bảy là ngày cuối năm. Bậc Tỳ-kheo là người thoát tục, không tính theo lịch thế gian mà tính theo hạ lạp. Vì vậy kinh luật gọi ngày rằm tháng bảy là ngày Phật lạp.[8] Ngoài ra, đối với truyền thống luật học Phật giáo, vào ngày rằm tháng bảy, vị luật sư thường dâng hương cúng dường và chấm một điểm vào quyển luật nghi mình đang thọ trì để đánh dấu một năm vừa trôi qua. Truyền thống này được y cứ vào thuyết Chúng Thánh Điểm Kí. Theo thuyết này, ngài Ưu-ba-li, vị đã trùng tuyên luật tạng trong kỳ kiết tập thứ nhất, thường chấm một điểm vào luật tạng vào ngày Tự tứ sau mỗi mùa an cư để đánh dấu một năm. Noi theo truyền thống đó, để đánh dấu cho một năm trôi qua, các vị luật sư đời sau thường chấm vào luật tạng một điểm sau mỗi mùa an cư.

Nếu căn cứ vào kinh Vu lan bồn, ngày rằm tháng bảy làm thời điểm thích hợp nhất để thiết lễ Vu Lan hầu cầu nguyện cho cha mẹtổ tiên trong nhiều đời vì rằng đó là ngày chư Phật hoan hỷ, ngày mà oai lực của chư Tăng được tăng trưởng sau ba tháng an cư, và cũng là ngày chư Tăng câu hội đầy đủ để có thể hộ niệm cho người đã khuất. Như lời Phật dạy cho tôn giả Mục-kiền-liên trong kinh này, để có thể cứu độ mẹ mình ra khỏi cảnh giới ngạ quỷ, tôn giả phải nhờ đến sức oai thần không phải của một hay một vài vị Tỳ-kheo mà là của chư Tăng trong mười phương (đương tu thập phương chúng Tăng oai lực chi thần nãi đắc giải thoát). Vì thế, sự câu hội đầy đủ của chư Tăng trong ngày rằm tháng bảy là thời điểm thích hợp nhất để thiết lễ Vu Lan Bồn.

Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ, hồi hướng phước báu cho cha mẹ hiện tiền, còn có thêm lễ cúng thí cho loài ngạ quỷ. Có thể nói rằng lễ cúng thí này xuất hiện là do ảnh hưởng của sự hưng khởi của truyền thống Mật tông tại Trung Hoa mà người có ảnh hưởng chính là ngài Bất Không Kim Cương.

Như đã trình bày ở trên, theo các thư mục Phật giáo còn lại, kinh Vu lan bồn được ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316). Bản kinh này cùng kinh Báo ân phụng bồn dần dần phổ biến trong Phật giáo Trung Hoa, nhất là vào TK VI. Trong Biện chánh luận, ngài Pháp Lâm (572-640) có ghi lại rằng dưới thời vua Cao Đế (trị vì 479-483) nhà Tề, vào ngày rằm tháng bảy vua gởi bồn phẩm vật đến các chùa để cúng dường cho ba trăm vị danh Tăng.[9] Phật tổ thống kỉ cho biết rằng vào năm 538 vua Lương Võ Đế (trị vì 502-550) đích thân đến chùa Đồng Thái, nơi vua thường tổ chức các lễ nghi quan trọng, để thiết lễ Vu Lan Bồn[10]. Trong các triều đại kế tiếp, nhiều vị vua theo gương của vua Võ Đế thường thiết lễ Vu Lan để cúng tế tổ tiên. Cuốn Cựu Đường thư có thuật lại rằng vào ngày rằm tháng bảy năm 692 triều đình gởi cúng bồn Vu Lan đến nhiều chùa khác nhau, Hoàng đế Võ Tắc Thiên cùng các đại thần trong triều đích thân cùng dự lễ Vu Lan[11]. Đến thời vua Đại Tông (trị vì 762-779), với sự trợ giúp và hướng dẫn của ngài Bất Không Kim Cương (705-774), lễ Vu Lan được tổ chức rất long trọng vào năm 766 ngay trong hoàng cung. Để thiết lễ cầu nguyện cho bảy đời phụ mẫu, vua cho đặt bảy chiếc ngai cùng bảy lá phướn thật lớn, trên đó có ghi tên của các tiên vương. Kể từ đó trở đi, mỗi năm lễ Vu Lan đều được tổ chức trọng thể trong hoàng cung[12].

Cũng từ giai đoạn này về sau, lễ Vu Lan còn có thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Nghi lễ này được thiết lập dựa trên cuốn Phật thuyết cứu diện nhiên ngạ quỷ đà-la-ni thần chú kinh (do ngài Thật-xoa­nan-đà dịch vào năm 695-700) cùng với ba tác phẩm Mật tông khác do ngài Bất Không Kim Cương dịch, đó là Phật thuyết cứu diệm khẩu đà la ni kinh, Du già tập yếu cứu a nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh, và Du già tập diệm khẩu thí thực khởi giáo a nan đà duyên do. Dựa vào những tác phẩm Mật tông này, ngài Bất Không Kim Cương, người được xem là tổ thứ ba của Mật tông Trung Hoa, đã soạn ra nghi thức cho lễ Thí ngạ quỷ và nghi này nhanh chóng được phổ biến trong khắp quốc gia[13]. Đến giữa TK IX, mặc dầu Phật giáo gặp phải pháp nạn dưới thời vua Võ Đế (trị vì 840-846), nhưng khi ấy Vu Lan Bồn vốn đã trở thành một ngày hội dân gian, nên cứ vào rằm tháng bảy âm lịch dân chúng khắp nơi đều về chùa thiết lễ Vu Lan thật long trọng. Ký sự của Viên Nhân, một nhà sư Nhật có mặt tại Trung Hoa vào năm 844 có ghi lại rằng: vào ngày rằm tháng bảy năm ấy các chùa trong kinh thành đều trang hoàng rất tôn nghiêm, dân chúng trong những bộ y phục mới đẹp cùng đưa nhau về chùa dự lễ, nhang trầm, đèn nến, hoa trái, thức ăn, lễ vật dâng cúng thật trang nghiêm nơi điện Phật. Khi ấy vua chỉ trọng Đạo giáo nên ra lệnh cho dân chúng vào ngày rằm tập hợp tại ngôi miếu chính của Đạo giáo là Hưng Đường Quán để cùng vua thiết lễ. Vua còn ra lệnh tịch thu tất cả hoa quả, thuốc men dâng cúng tại các chùa đưa về ngôi miếu này. Nhưng dân chúng đã không những không đến Hưng Đường Quán, mà còn phản đối việc vua tịch thu lễ vật nhà Phật để dâng cúng cho ma quỷ. Vua rất ngạc nhiên khi thấy dân chúng không đến Hưng Đường Quán để dự lễ theo chiếu chỉ của mình[14]. Điều này cho thấy lễ hội Vu Lan không chỉ là một lễ nghi hạn cuộc trong Phật giáo mà nó đã trở thành một sinh hoạt tâm linh rất quan trọng trong dân gian. Lễ hội này không những được phổ biến trong xã hội Trung Hoa mà còn hiện hữu trong tất cả các quốc gia Phật giáo Đại thừa tại Á châu như Nhật Bản, Triều TiênViệt Nam.

Như thế, theo truyền thống Phật giáo, rằm tháng bảy là thời điểm hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau trên cả hai phương diện văn hóatôn giáo: ngày kết thúc chu kỳ một năm theo lịch Phật giáo, ngày đánh dấu giới đức của hàng xuất gia được tăng trưởng sau mùa an cư qua lễ tự tứ, ngày thu hoạch mùa vụ của dân chúng, ngày các vị thiên vương xem xét nhân gian, ngày tổ tiên thác sanh, v.v... Nếu như trong văn hóa dân gian ngày rằm tháng bảy là ngày mà nhịp cầu Ô thước chắp nối cho bao nỗi nhớ nhung của hai trái tim nặng tình đôi lứa, thì trong đạo Phật lễ Vu Lan như một nhịp cầu nối liền những tâm hồn hiếu thảo, giữa con cháu và cha mẹ, giữa cõi dương và cõi âm, giữa thế giới trần tụccảnh giới tịnh độ của các bậc thánh hiền. Đối với những kẻ bất hạnh, lạc loài trong cuộc đời, đây là dịp để họ nhìn lại chính mình và tìm về một lẽ sống ý nghĩa hơn, cao thượng hơn. Đối với những ai hiếu kính cha mẹ, biết trân trọng huyết thống của tổ tiên, đây là thời khắc vô cùng ý nghĩa để thể hiện nếp sống hiếu hạnh của mình. Niềm hạnh phúc của một người con khi báo đáp được phần nào công ơn cha mẹ như thế thật khó có thể diễn tả bằng lời, bởi lẽ tình mẫu tử vốn thiêng liêng, bao la, vượt thoát những rào chắn nhỏ hẹp trong ngôn ngữ của loài người.

(Phapluan)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10116)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10515)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10134)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20397)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11652)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13790)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19121)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46712)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12093)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11674)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23084)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17855)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10159)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17765)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13935)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14049)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15113)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20299)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18294)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17411)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18177)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12722)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12854)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13426)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17036)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11480)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18291)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18594)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21383)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22168)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16874)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12562)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15331)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24619)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14233)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11646)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19737)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13423)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22810)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18463)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21626)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20533)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20033)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14077)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13795)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15109)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17240)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15300)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15882)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12999)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13138)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15024)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22651)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7158)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37701)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9175)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8683)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17903)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14875)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27050)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19948)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15269)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15487)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26794)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14569)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19713)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14635)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18660)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15927)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16358)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19364)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19736)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19907)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18608)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29832)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14578)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17767)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32438)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15277)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17313)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29769)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31542)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64712)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32811)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20239)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18532)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30822)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19927)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45911)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32602)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39359)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40457)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50148)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19097)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18564)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20696)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant