Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Xin một chút từ tâm

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8321)
Xin một chút từ tâm

XIN MỘT CHÚT TỪ TÂM

Chân Hiền Tâm 

blankNhân duyên giữa mẹ chồng và chị không thuận chiều. Chị nói chuyện đâu đâu với thiên hạ, bà cũng đùng đùng nổi giận rồi chì chiết chị. Bà tiếc từng trái cam, gói mứt với chị. Biết cái duyên giữa mình và bà không thuận. Phận dâu con, chị làm được gì cho bà thì làm, không thì thôi. Nín nhiều hơn nói. Chuyện người ta đặt điều cho chị, bà nói bóng nói gió, chị cũng cho qua không màng đính chánh để miệng khỏi mở. Cực chẳng đã mới phải mở miệng. Ðã cực chẳng đã mới mở miệng, thành mở miệng ra là trăm phần trăm có chuyện …

Trước khi đi chùa, bà còn lớn tiếng đay nghiến “Nhớ lại quá khứ mày ra sao đi!”. Biết duyên không thuận, nhưng vì từ lâu chị coi ông bà như cha mẹ ruột, thành cái gọi là “nhân duyên không thuận” chị cũng quên tuốt. Nhưng quên, không có nghĩa duyên nghịch giữa chị và bà đã hết. Thành ra chuyện không dính gì đến bà, bà cũng đùng đùng nhập cuộc to tiếng. Bà đã mở miệng đuổi chị liên tục. Chị vẫn bình thường. Nhưng đến cái câu nhớ lại quá khứ … mọi thứ tan hoang. Nó như công án của vị thiền sư khai tâm đệ tử. Bùng vỡ tất cả. Chị thấy mọi thứ nguội lạnh. Không còn có gì để nói và làm. Vô tác ngay từ suy nghĩ cho đến hành động. Ðương nhiên không phải theo kiểu thiền sư đại ngộ. Ðược vậy thì còn gì bằng!

Mới biết vì sao Phật dạy tha thứ. Nếu không tha thứ, duyên nghịch giữa mình và người không bao giờ hết. Bởi còn ứ đó, nên người ta nói gì về chị bà cũng tin, chị nói cái gì ra bà cũng thấy khó chịu. 

Chị không thể hiếu hạnh theo kiểu cung cấp tiền bạc nuôi dưỡng ông bà. Bởi tiền nuôi con chật vật. Có khi em chồng còn phải cho thêm. Ông bà lại quá dư giả. Chị chỉ biết gói gọn công việc hằng ngày để có thời gian thăm hỏi, phụ ít công sức khi ông bà đau, an ủi tinh thần khi nhà có chuyện. Chị làm những gì có thể, đến khi hết sức. Quá khứ như thế chắc không đến nỗi để phải nhắc nhở. Nhất định không phải cái khoảng quá khứ đó rồi. Chắc là khoảng trước ... 

Cái khoảng chị mới lấy chồng làm dâu, sinh con đầu lòng. Cái khoảng Cần Ðước nước dâng theo mùa. Không nhớ sáng nước lên, chiều nước xuống hay chiều nước lên, sáng nước xuống. Chỉ nhớ nước bữa xuống bữa lên. Nước xuống đi bộ. Nước lên đi thuyền. Cái khoảng non ngày non tháng thăm chồng tù tội, nước lội buốt xương. Cái khoảng cặm cụi cực nhọc từ Long An sang Cần Ðước, lúc một mình, lúc với mẹ chồng. Chắc khoảng này đây. Cái khoảng chị khổ không sao kể xiết. Tiền bạc không có. Tinh thần thê lương. Khổ nếu từ trước, có khi lại ít thấy khổ. Con gái nhà lành chưa từng lặng lội, khổ tăng rất nhiều. 

Ðầu năm, chị sửa soạn cho con và cả cho mình. Gắng vui, gắng cười, đè nén cảm nhận lẽ loi khi thấy người người vui cười chúc tết lẫn nhau. Hy vọng năm mới bắt đầu tốt đẹp. Hy vọng mọi thứ buồn phiền năm cũ qua đi. Anh rồi sẽ về. Nhưng cha chồng không chịu. Ông không muốn con dâu vui cười dù chỉ là nụ cười gượng khi con ông đang còn trong tù. Mùng một, ông làm bài thơ tặng cháu. Chị hăm hở đọc thơ. Mọi dồn nén trong lòng vỡ ùa. Chị ôm con khóc suốt...

Da lành, muối xát bao nhiêu cũng không rát. Da đang lở, muối rát vô cùng.

Mẹ chồng lại càng khó chịu. Chị phải lãnh những chuyện chị không hề làm. Bà nói “Nó quăng tả lót con nó sai tui phải giặt”. Bà kêu “Tại nó mà tui bị chửi” v.v... Chị phải lãnh những chuyện không phải do lỗi của chị. Cứ như chồng khổ là do ở chị. Cứ như thất bại của anh là do lỗi chị làm. Những gì anh tình nguyện làm cho chị, trở thành cái gai trước mắt ông bà. Khổ này chồng khổ kia, chị như con trâu điên, vùng mình phản kháng. 

Người ta chỉ thấy được sự phản khán của chị, mà không thấy vì sao chị trở thành như thế. Nếu công bình bác ác một chút, liệu chị có thế không? Chị đã hỏi đức Phật vạn lần. Nhưng chẳng có gì ngoài ánh mắt hiền từ và nụ cười đỏ chói nửa như an ủi, nửa như giễu cợt của ngài. 

Mọi người nói với chị “Những gì mình phải chịu trong hiện tại là do nghiệp mình đã tạo ra trong quá khứ”. Chị không biết nghiệp là gì. Nhưng dù là gì, chị cũng không chấp nhận điều đó. Vì sao phải bắt con cái hiếu hạnh khi cha mẹ không có tình thươngxử sự thiếu công bằng với chúng? Chị không tin Phật dạy những điều bất công như thế. Nhưng chị không biết làm sao hỏi Phật, khi Phật chỉ nhìn chị cười mà không trả lời

Chỉ có một câu trả lời khiến chị an lòng: “Cha mẹ con thiếu từ tâm. Giá mà ông bà có chút từ tâm thì chắc con không đến nỗi đau khổ như thế. Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn”. Lời nói đi kèm với một ánh mắt thương yêu, khiến chị càng thấy tin tưởng. Nỗi đau của chị vừa được xoa dịu Không có từ tâm thì nói không có từ tâm. Ðừng nói do nghiệp của chị. Ít nhất cũng có một người nói đúng “sự thật” với chị. 

“Thử nhớ lại coi, trước đây đã có khi nào con đối với ai thế không. Trong một hoàn cảnh khốn khó, nhưng con lại hơi thẳng tay chẳng hạn”. Chị nhớ. Không cần phải moi móc nhiều. Bà mợ của chị một tay nuôi ba đứa con thơ. Chồng đi học tập. Thay vì để bà nương nhờ tiếp tục. Chị đã nói mẹ phát gạo cho bà nấu cháo, tạo sự tự lập. Không thể cứ sống nương nhờ vào mẹ khi mẹ đang sắp cạn kiệt. Cái lý thì đúng, nhưng tình thì không. Việc đó xảy ra nếu sớm một chút hay trễ một chút chắc không đến nỗi. Nhưng ngay lúc đó thì quả tàn nhẫn. Cái lúc người ta cần mình, mình lại đối xử vứt bỏ. Nhưng thường mình hay như thế. Giải quyết sự việc sao cho theo lý của mình, mà ít quan tâm đến nỗi đau khổ của người. 

Chỉ trừ Bồ tát. Còn lại, một người khỏe mạnh, khó hiểu được nỗi mệt nhọc của kẻ đau yếu. Một người hạnh phúc khó hiểu được nỗi khổ đau của kẻ bất hạnh. Mình theo lý riêng của mình nên mình đánh mất cái tình. Chị nhớ không mấy khó khăn những việc như thế. Chị thiếu một sự cảm thông. Chị ít đặt mình vào chỗ của người khi phải giải quyết sự việc. Sự thiếu từ tâm chị phải trả giá.

Buồn phiền uất hận tan theo lời nói nhẹ nhàng “Nỗi đau của người rất lớn. Trải qua một chút để biết thương yêu và biết cảm thông”. Chị hết thấy hận. Nếu không biết đạo, con người sẽ như con tằm làm kén. Tự nhả tự trói không biết ngày nào mới thôi. Nỗi oán hận này kéo theo nỗi oán hận kia, không biết bao giờ mới hết. Thành tâm cảm ơn trời Phật đã cho chị gặp hoàn cảnh như thế để mà tỉnh ngộ

Ừ! Trải qua một chút để biết cảm thông ... 

Chị không đòi hỏi con cái hiếu thảo với mình. Chỉ luôn tự hỏi mình đã làm gì cho chúng? Chị không còn trách sao con không thích gần mẹ. Chị chỉ tự hỏi vì sao nó không thích gần? Luôn có câu trả lời cho những vấn đề như thế để chị thay đổi. Nếu không, chị cũng không buồn, vì đã làm hết sức mình.

Ừ! Trải qua một chút để biết thương yêu ... 

Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy. Cũng không nói đến hiếu hạnh như việc bắt buộc. Cho nên, khi dâu hay rễ gọi chị tiếng mẹ, chị thấy mình có bổn phận với chúng nhiều hơn chúng có bổn phận với mình. Bởi chị không sinh không dưỡng. Chị muốn xứng đáng với một từ mẹ thiêng liêng mà chúng đã dành gọi chị.

Người ta tưởng dâu là con gái chị. Bởi chị không muốn giẫm chân vào vết mà người đã đi. Con trai mình nhậu không sao, nhưng con rể nhậu thì chì chiết khó chịu vô cùng. Chị sợ cái cảnh nhà chồng hay nhà vợ xúm lại hội đồng xua đuổi dâu rễ. Chị sợ cái cảnh ta thán con dâu trong khi con mình cũng chẳng hơn ai. Chị không muốn thế. Chị muốn hiện tại mọi thứ tương đối công bằng. Mọi thứ phải được giải quyết trong sự cảm thông yêu thương dù chỉ tương đối.

Và rồi chị hiểu, dù cha mẹ có như thế nào, đức Phật cũng khuyên mình phải hiếu hạnh và khuyên cha mẹ yêu thương dạy bảo con cái. Không phải đức Phật bênh vực cha mẹ. Chỉ là vì muốn giúp người chấm dứt những vòng nhân quả khắc nghiệt. 

Do thời mạt pháp, con người dễ vướng vào tham, sân, si. Thứ gì cũng chỉ tập trung cho mình và cái mình thích. Cái gì thích thì thứ gì cũng cho. Cái gì không thích thì xua thì đuổi. Từ tham chấp đó, quan hệ cha mẹ con cái trong một gia đình có khi không phải “máu huyết thâm tình” mà là một sự trả vay oan nghiệt. Nếu mình không tỉnh, cứ theo cái đà oan nghiệt mà đi, thì vòng nhân duyên oán ghét lẫn nhau cứ thế luân hồi. Kiếp sau gặp nhau lại oán lại ghét, ngày càng không thuận, đưa đến kết quả đáng thương như nay vẫn thấy: Con giết cha, vợ giết chồng… 

Viết ra điều này, tôi cũng đang làm một chuyện không nên: Khơi lại quá khứ của người. Nhưng dù không khơi, nó vẫn âm thầm hiện diện đó thôi. Chẳng qua một bên sống đạo, thành không có duyên để nó phát khởi, không phải duyên nghịch đã hết. Chi bằng khơi lại đầy đủ để hiểu nhân duyên nhân quả trong đời. Không phải chỉ để chị hiểu hay mẹ chị hiểu, mà để tất cả mọi người chúng ta cùng hiểu. Ðể thấy đến chùa, cúng dường làm phước không thôi chưa đủ. Cần hiểu giáo pháp Phật dạy. Bố thí cúng dường thì được phước báu giàu sang. Nhưng thiếu trí tuệ, có khi chính cái giàu sang giúp mình tạo nghiệp. Bởi nghèo có khi là duyên giúp mình an phận hiền lành, không dám mở miệng. Nhờ vậy mà ít tạo nghiệp. Giàu sang quyền hành, tha hồ miệng lưỡi, tạo nghiệp không ít. Cho nên, cúng dường bố thí chưa đủ mang lại hạnh phúc cho mình. Cần hiểu nhân duyên nhân quả chi phối cuộc đời thế nào mà tránh. 

Duyên nếu không thuận, việc gì cũng buồn. Cái tốt mình làm trong đời đều thành công cóc với người. Nhưng trên phương diện âm đức thì không. Nó đang âm thầm hóa giải nghịch duyên cho mình. Ðừng nản! Kiếp này chưa xong, kiếp sau cũng hết. Hy vọng cái khoảng “tan hoang nguội lạnh” của chị sẽ được ánh đạo sưởi ấm như từng giúp chị đánh tan uất hận trước đây của mình. Ðể khoảng nghịch duyên chấm dứt. Kiếp này ấm áp. Kiếp sau an bình

Thôi thì, tùy duyên tiêu nghiệp cũ và xin… một chút từ tâm, há chị!

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37841)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18619)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14216)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35525)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10634)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19658)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10733)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20171)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10582)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9932)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14843)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17626)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17567)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31108)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25698)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13958)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10944)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12241)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9929)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11189)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8285)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14057)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9880)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15176)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13017)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23938)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12539)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15406)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15026)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16522)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16021)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17575)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10504)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12059)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36366)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9648)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17233)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10446)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12180)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14626)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10298)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15911)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15546)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14485)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14542)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18320)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18497)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18556)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18990)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11799)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47953)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11038)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13529)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13013)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant