Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trăng tháng bảy

01 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9091)
Trăng tháng bảy

TRĂNG THÁNG BẢY

Lê Đàn

Tháng Bảy nước nhảy qua bờ. Những trận mưa dai dẳng tưởng che lấp hết mùa trăng Hội Vu lan báo hiếu; nhưng sau cơn mưa trời quang mây tạnh, Trời Phật xót thương những người con hiếu thảo đang chờ mong một mùa trăng sáng đẹp để quay trở về dưới mái nhà xưa. 

Đêm nay, bầu trời vẫn còn những đám mây bàng bạc, nhưng trăng vẫn sáng không bị mây che khuất. Em rất vui được nắm tay mẹ và chị đi bộ đến chùa, quãng đường chỉ nửa cây số thôi, nhưng hồi còn bé, em mỏi chân, chị phải cõng em khi lên con Dốc Ma này. Mới ngày kia chị đang ở một nơi rất xa đến cả nghìn cây số, bây giờ chị đã có mặt ở nhà, căn nhà cha mẹ sinh thành nuôi dạy chị em mình suốt cả thời thơ ấu. Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa sống lại trong chị trong em. Đi lên tới đỉnh dốc, chị nắm tay em ngồi xuống bên thảm cỏ xanh ngày nào, chị vừa ngắm trăng vừa hỏi lại câu hỏi lững lờ giống như ngày xưa chị đã hỏi bằng bốn câu thơ của nhà thơ Quang Dũng (chị là dân Tú tài ban C mà!): “Mai chị về em gởi gì không?/ Mai chị về nhớ má em hồng/ Đường đi không gió lòng sao lạnh/ Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong”. Bốn câu thơ làm cho lòng em tê lạnh, bâng khuâng xót thương chị hiền da diết. Ngày mai chị tôi “đi” lấy chồng. Ông “Tây tiến”! Ông “Đôi mắt người Sơn Tây” ơi ! Ông không nói “đi” mà nói “về”. Em thích chữ “về” của ông lắm! Ông cũng giống như em ngày ấy rất ngây thơ, sợ chị đi lấy chồng người ta sẽ bắt mất chị. Em đâu có biết chị về nhà chồng rồi thỉnh thoảng chị về thăm mẹ và em chứ đâu có đi hoài không về. Ngày ấy em còn bé lắm, đứng bên đường khóc thút thít đôi mắt đỏ hoe, đôi má ướt lem luốc nhìn đoàn rước dâu đem chị đi mà trong lòng căm giận cái ông chú rể dễ ghét ấy. Chị từ trong đoàn rước dâu bước ra ôm em vào lòng, hai chị em đều khóc, “đường đi không gió lòng sao lạnh”, cả một mùa Hè bỗng dưng trời trở rét… Kỷ niệm ấy làm sao em có thể quên được, cũng tại con phố nhỏ này, biết bao nhiêu đêm rằm chị đưa em đi trên con dốc này đến chùa. Chị kể có lần chị chơi nhảy dây, em khó lắm không cho người lạ bồng, thế là chị bế em nhảy luôn; chị càng nhảy em càng khóc to, chị tức quá phát vô mông em một phát bàn tay in dấu năm ngón đỏ ong, chị biết mình giận mất khôn, chị lấy dầu tràm thoa cho em: “Chị thương! Cho chị xin lỗi, bữa ni trở đi chị không đánh em nữa mô; mai mốt chị không có lấy chồng, chị ở nhà bồng em thôi!”. Thế rồi một năm thôi nôi, em biết đi biết nói chị không phải bế bồng em nữa, em dần dần lớn lên quấn quýt bên tình thương của chị. Chị kể cho em nghe rất nhiều câu chuyện cổ tích, câu chuyện Lục Tích trong “Nhị thập tứ hiếu” mới sáu tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong giấu quả quýt mang về cho mẹ là câu chuyện em thích nhất. Thời đó chưa có lớp mẫu giáo, chị dạy chữ cái cho em bằng sách vỡ lòng “Bé học vần” của tác giả Cao Văn Thái, em thích lắm nên ngày nào cũng đọc cho đến bây giờ em vẫn còn thuộc: 

Bà quý bé cho quả na/ 
Nhà em nhỏ có giàn nho/ 
Ong đốt ông sưng cả má/ 
Đi đổ đá ở đê xa/ 
Dì dắt dê dê do dự/ 
Bê bú bò bú hả hê/ 
Khỉ đố mèo leo cây khế/ 
Cu tí sợ sờ se sẻ/ 
Chị chờ em để che ô/…

Chị sinh hoạt trong ngành Thiếu, còn em ngành Oanh, đi đâu chị cũng đưa em theo, chùa Sắc Tứ, Tỉnh Hội, chùa Sư nữ Long An Nhan Biều,… quý thầy và quý sư cô rất quý và thương chị. Chị không bỏ sót một buổi thuyết pháp nào của quý giảng sư từ phía Nam ra; đặc biệt là buổi giảng của sư Giác Nhiên và sư Giác Huệ, em còn bé chưa hiểu gì nhiều, còn chị xem ra rất thích nghe pháp, những bài pháp thoại đã thấm nhuần vào tim óc của chị làm cho chị trở nên dịu hiền. Một hôm chị thưa với mẹ ngỏ ý xin được xuất gia, mẹ hơi bất ngờ nhưng cũng rất đắn đo để trả lời với chị: “Ba con mất sớm, nhà chỉ có ba mẹ con neo đơn hẩm hút, mẹ phải ngày hai bữa chợ, bây giờ nếu con đi để em một mình nhỏ dại thật là tội nghiệp!”. Chị nghe mẹ nói gần như khóc chị cũng khóc theo nước mắt tuôn trào, chị đâu nỡ bỏ mẹ và em mà đi theo con đường cát ái ly gia, một con đường chị rất muốn đi theo cho đến hết cuộc đời. Nhưng mẹ đâu có giữ chị lại được lâu, một người đàn ông xuất hiện và… chị theo nắng gió Sài Gòn, mang hồn quê đến lấy chồng xứ xa lắc xa lơ. Phận gái mười hai bến nước biết đường mô mà chọn, đêm đêm chị khóc nhớ nhà, mẹ thương chị cầu nguyện chư Phật gia hộ cho chị chân cứng đá mềm. Mỗi tuần chị gởi một lá thư. Đôi ba năm chị mới vê thăm mẹ một lần vào dịp Tết hay Lễ Vu lan.

Trong những năm tháng chị đi xa, em buồn quá, hút thuốc lá rất nhiều, thỉnh thoảng có hội hè hùa theo đám bạn bè tập tành chén chú chén anh, uống mãi trở thành nghiện, em đã phạm vào năm giới cấm, điều tệ hại là em rất xấu hổ nhưng lỡ ghiền mất rồi, có cách gì để cai thuốc lá và rượu? Không biết nhờ ai. Nhờ thầy nhờ bạn đạo thì không dám. Chỉ có chị mới có thể giúp em được thôi, em đã sáng măt ra bởi những dòng thư rất quý của chị Hiền từ xa gởi về: “Em yên tâm, chị không rầy la chi em đâu, đã là người thì ai rồi cũng có lúc lầm lỡ, chị tin ở em là một Phật tử luôn luôn biết sám hối và hướng thiện, ít nhiều em cũng biết một chút giáo lý của Phật. Đọc kinh Lăng Nghiêm em có nhớ một thời Đức Phật còn tại thế, ngài A Nan đang đi khất thực, bị nàng Ma Đăng Già cám dỗ, Đức Phật đã biết trước việc này bèn sai ngài Văn Thù đem thanh gươm trí tuệ đến cứu hộ giúp, ngài A Nan mới tỉnh giác thoát ra khỏi cái bẫy ngũ dục phàm trần. Người Phật tử đã có sẵn đức hạnh Bi trí dũng, em hãy bình tỉnh đem trí tuệ ra suy xét những hậu quả rất xấu của thuốc lá và bia rượu. Từ đó em sẽ biết sợ thuốc lá rượu bia, không còn xem chúng là bạn giải sầu nữa mà chính chúng là thủ phạm giết lần mòn cơ thể rút ngắn tuổi thọ của con người. Chị tin em sẽ cai được vì em của chị rất thông minh sáng suốt đủ dũng cảm để tránh xa chúng ngay bây giờ hôm nay. Chị chúc em thành công”. Thư của chị đầy sức thuyết phục giúp em có đủ quyết tâm để có thể xa rời được những ma lực cám dỗ ấy. Em mừng lắm! Từ ấy đến giờ em thật hạnh phúc vì không bị ràng buộc bởi những con ma men từng ngày tước đoạt đi cái tự do và nhân cách của con người.

Thời gian qua nhanh như bóng câu cửa sổ, năm ngoái cũng nhằm mùa Vu lan chị về thăm nhân dịp mừng thọ mẹ tuổi tám mươi. Chị cũng đã xấp xỉ sáu mươi rồi, con cái chị đã lớn có công ăn việc làm ổn định, nên chị có thể về bất cứ lúc nào. Chị muốn dự lễ Bông hồng cài áo tại ngôi chùa thân yêu nơi quê nhà, ai tha phương mà không ước hẹn ngày về, về chẳng để làm gì cả, chỉ ngồi bên mẹ thôi cũng đủ cho ta hạnh phúc nhất thế gian này. Đêm hôm đó mẹ bất ngờ bị tai biến, may có chị về chăm sóc cho mẹ cả tháng trời, mẹ bình phục xuất viện chị mới vào.

Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào. Cầm micro đến gần bên mẹ và chị bắt đầu hát “Bông hồng cai áo” trong cái cảm giác hạnh phúc xen lẫn nước mắt, giọng ca của một người ở cái tuổi U 60 dù không hay lắm nhưng cũng khiến cho nhiều người ứa lệ.

Mấy năm nay, mẹ tuổi cao sức yếu, không dám cho mẹ đi bộ nửa cây số đến chùa. Được dự buổi lễ này mẹ vui lắm, xong lễ rồi mẹ vẫn chưa muốn về, vẫn còn sớm một đêm trăng rất đẹp, hai chị em đưa mẹ vào một quán nước trên con đường Hoàng Diệu bên bờ sông Hiếu, ngọn gió Nồm từ con sông thổi lên mát lạnh, chị thấy khỏe khoắn hơn bao giờ hết. Chị mê say ngắm vầng trăng in hình trong bóng nước, xa xa bên kia bờ những con thuyền đã đổ bến, nhà thơ Hàn Mặc Tử với khung cảnh như thế này ở thôn Vĩ Dạ đã tự hỏi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Và… thôn Vĩ nổi tiếng từ đó. Còn đây những con thuyền bên dòng sông Hiếu thân thương, chỉ muốn chở trăng về không muốn chở trăng đi. Chỉ cần nổi tiếng với chị với em và tất ca những ai yêu mến chính nơi này. Hãy ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh như mắt em long lanh, hãy uống dòng nước trong mạch nguồn Hiếu giang mát ngọt tình yêu thương. Đêm nay đi bên mẹ có vầng trăng soi sáng, chị hạnh phúc qua đi! Em cũng thế! Từng ngôi nhà góc phố con đường, từng câu chào nụ cười thân quen, xin chia sẻ hạnh phúc này với mọi người nơi đường xưa lối cũ nẻo về.

Có lẽ đêm nay phải thức với trăng thêm một chút, bắc chiếc chõng tre ra trước sân nhà, chị một bên em một bên ngồi cạnh mẹ, nghe mẹ kể về mẹ thời con gái:

“Mười lăm tuổi đi làm dâu khác xã/ 
Năm năm ngủ chung với mẹ chồng/ 
Trầu têm nước rót/ 
Quần xắn ống cao ống thấp/ 
Heo gà vườn ruộng bữa cây bữa cày/ 
Giặt áo cầu ao ngậm ngùi rơi nước mắt/ 
Thương mẹ già cha yếu chưa báo đáp một ngày/ 
Thương lũ em thơ còn đòi chị ẵm/ 
Thương đám bạn bè tóc khét nắng đồng trưa/ 
Thương con bê đôi mắt buồn rười rượi/ 
Thương lũy tre già rủ rỉ gió chiều đưa/ 
Thương củi nè nhen ấm nồng bếp sớm/ 
Thương bụi chuối đầu hồi quấn quýt đàn con/ 
Thương những đêm hè nhìn trăng vỡ giữa ao sương/ 
Hả hê cười khuấy nước/ 
Thương những ngày giáp tết, săm se áo mới xúm xít chợ làng xa/ 
Ngày đi em nép góc nhà/ 
Mẹ sụt sùi cầm tay không nói/ 
Bạn bè chen nhau vẫy gọi/ 
Tre pheo chìa nhánh ngăn đường/ 
Dừng tay hái rau, ngày đang trở tối/ 
Chiều chiều ra đứng cổng sau/ 
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Thơ-Kim Cúc). 

Chị cũng vậy, có khác chi mẹ mấy đâu. Bao nhiêu năm ngỡ khô dòng nước mắt, buổi bạc đầu về khóc giữa quê hương. Mang theo một nửa hồn quê/ Hương ơi sống gởi thác về với hương. Đó là ước nguyện của chị, cua mẹ nhưng đâu có được. Sinh ra con gái ngoại tông/Quê cha thì bỏ quê chồng thì theo. Chị còn có chồng con gia thất. Những đứa con thân yêu đang cần chị trở về. Giống như chị đang cần về ngồi bên mẹ, chị ôm mẹ thật chặt không để cho mẹ biến mất trên cõi đời này. Chị noi gương Đức Mục Kiền Liên, nguyện làm con thảo, nhớ nghĩa thân sinh, ngày đêm nguyện cầu Bồ tát Đại Hiếu Mục Kiền Liên gia hộ cho mẹ thân tâm yên ổn. Ước gì mẹ sống mãi bên con cháu suốt đời.

Mẹ đã đi ngủ, gà nhà ai đã gáy đầu canh, đêm về khuya trăng Vu lan càng sáng tỏ, chỉ còn lại hai chị em, chị muốn thức để tâm sự cùng em thêm một chút nữa thôi, mai chị sẽ tạm biệt nơi dấu yêu này rồi, đường xa ngàn dặm một lần về một lần khó chị dành hết thời gian cho mẹ và em. Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày/ Chín chữ cù lao. Công cha tựa non cao. Nghĩa mẹ như biển rộng. Thức trắng một đêm mới biết đêm dài vô tận. Ôi! Chị thương mẹ biết dường nào! Chị ơi! Em đã nhìn thấy bông hồng cài trên ngực áo chị áo em rất đẹp, và chị hãy nhìn lên bầu trời, ở đó… Trăng tháng Bảy, trăng cài bông hồng thắm. Mẹ Vu lan, mẹ tắm suối dịu hiền. 

LÊ ĐÀN

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20412)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22315)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18755)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27011)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18716)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19934)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38061)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20137)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28315)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46310)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15432)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65652)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13724)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18628)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15534)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14561)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18722)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12623)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17652)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25470)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38710)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17696)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11245)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18589)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17405)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13204)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13309)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17532)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24293)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12372)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13797)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12989)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12881)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14160)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14617)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21100)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22614)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29970)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13863)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18231)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17048)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12617)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30720)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22793)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14630)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12995)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12737)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12506)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13055)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16301)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15200)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23838)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16175)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28984)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20273)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15551)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37227)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45024)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36887)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant