Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trăng tháng bảy

01 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9031)
Trăng tháng bảy

TRĂNG THÁNG BẢY

Lê Đàn

Tháng Bảy nước nhảy qua bờ. Những trận mưa dai dẳng tưởng che lấp hết mùa trăng Hội Vu lan báo hiếu; nhưng sau cơn mưa trời quang mây tạnh, Trời Phật xót thương những người con hiếu thảo đang chờ mong một mùa trăng sáng đẹp để quay trở về dưới mái nhà xưa. 

Đêm nay, bầu trời vẫn còn những đám mây bàng bạc, nhưng trăng vẫn sáng không bị mây che khuất. Em rất vui được nắm tay mẹ và chị đi bộ đến chùa, quãng đường chỉ nửa cây số thôi, nhưng hồi còn bé, em mỏi chân, chị phải cõng em khi lên con Dốc Ma này. Mới ngày kia chị đang ở một nơi rất xa đến cả nghìn cây số, bây giờ chị đã có mặt ở nhà, căn nhà cha mẹ sinh thành nuôi dạy chị em mình suốt cả thời thơ ấu. Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa sống lại trong chị trong em. Đi lên tới đỉnh dốc, chị nắm tay em ngồi xuống bên thảm cỏ xanh ngày nào, chị vừa ngắm trăng vừa hỏi lại câu hỏi lững lờ giống như ngày xưa chị đã hỏi bằng bốn câu thơ của nhà thơ Quang Dũng (chị là dân Tú tài ban C mà!): “Mai chị về em gởi gì không?/ Mai chị về nhớ má em hồng/ Đường đi không gió lòng sao lạnh/ Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong”. Bốn câu thơ làm cho lòng em tê lạnh, bâng khuâng xót thương chị hiền da diết. Ngày mai chị tôi “đi” lấy chồng. Ông “Tây tiến”! Ông “Đôi mắt người Sơn Tây” ơi ! Ông không nói “đi” mà nói “về”. Em thích chữ “về” của ông lắm! Ông cũng giống như em ngày ấy rất ngây thơ, sợ chị đi lấy chồng người ta sẽ bắt mất chị. Em đâu có biết chị về nhà chồng rồi thỉnh thoảng chị về thăm mẹ và em chứ đâu có đi hoài không về. Ngày ấy em còn bé lắm, đứng bên đường khóc thút thít đôi mắt đỏ hoe, đôi má ướt lem luốc nhìn đoàn rước dâu đem chị đi mà trong lòng căm giận cái ông chú rể dễ ghét ấy. Chị từ trong đoàn rước dâu bước ra ôm em vào lòng, hai chị em đều khóc, “đường đi không gió lòng sao lạnh”, cả một mùa Hè bỗng dưng trời trở rét… Kỷ niệm ấy làm sao em có thể quên được, cũng tại con phố nhỏ này, biết bao nhiêu đêm rằm chị đưa em đi trên con dốc này đến chùa. Chị kể có lần chị chơi nhảy dây, em khó lắm không cho người lạ bồng, thế là chị bế em nhảy luôn; chị càng nhảy em càng khóc to, chị tức quá phát vô mông em một phát bàn tay in dấu năm ngón đỏ ong, chị biết mình giận mất khôn, chị lấy dầu tràm thoa cho em: “Chị thương! Cho chị xin lỗi, bữa ni trở đi chị không đánh em nữa mô; mai mốt chị không có lấy chồng, chị ở nhà bồng em thôi!”. Thế rồi một năm thôi nôi, em biết đi biết nói chị không phải bế bồng em nữa, em dần dần lớn lên quấn quýt bên tình thương của chị. Chị kể cho em nghe rất nhiều câu chuyện cổ tích, câu chuyện Lục Tích trong “Nhị thập tứ hiếu” mới sáu tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong giấu quả quýt mang về cho mẹ là câu chuyện em thích nhất. Thời đó chưa có lớp mẫu giáo, chị dạy chữ cái cho em bằng sách vỡ lòng “Bé học vần” của tác giả Cao Văn Thái, em thích lắm nên ngày nào cũng đọc cho đến bây giờ em vẫn còn thuộc: 

Bà quý bé cho quả na/ 
Nhà em nhỏ có giàn nho/ 
Ong đốt ông sưng cả má/ 
Đi đổ đá ở đê xa/ 
Dì dắt dê dê do dự/ 
Bê bú bò bú hả hê/ 
Khỉ đố mèo leo cây khế/ 
Cu tí sợ sờ se sẻ/ 
Chị chờ em để che ô/…

Chị sinh hoạt trong ngành Thiếu, còn em ngành Oanh, đi đâu chị cũng đưa em theo, chùa Sắc Tứ, Tỉnh Hội, chùa Sư nữ Long An Nhan Biều,… quý thầy và quý sư cô rất quý và thương chị. Chị không bỏ sót một buổi thuyết pháp nào của quý giảng sư từ phía Nam ra; đặc biệt là buổi giảng của sư Giác Nhiên và sư Giác Huệ, em còn bé chưa hiểu gì nhiều, còn chị xem ra rất thích nghe pháp, những bài pháp thoại đã thấm nhuần vào tim óc của chị làm cho chị trở nên dịu hiền. Một hôm chị thưa với mẹ ngỏ ý xin được xuất gia, mẹ hơi bất ngờ nhưng cũng rất đắn đo để trả lời với chị: “Ba con mất sớm, nhà chỉ có ba mẹ con neo đơn hẩm hút, mẹ phải ngày hai bữa chợ, bây giờ nếu con đi để em một mình nhỏ dại thật là tội nghiệp!”. Chị nghe mẹ nói gần như khóc chị cũng khóc theo nước mắt tuôn trào, chị đâu nỡ bỏ mẹ và em mà đi theo con đường cát ái ly gia, một con đường chị rất muốn đi theo cho đến hết cuộc đời. Nhưng mẹ đâu có giữ chị lại được lâu, một người đàn ông xuất hiện và… chị theo nắng gió Sài Gòn, mang hồn quê đến lấy chồng xứ xa lắc xa lơ. Phận gái mười hai bến nước biết đường mô mà chọn, đêm đêm chị khóc nhớ nhà, mẹ thương chị cầu nguyện chư Phật gia hộ cho chị chân cứng đá mềm. Mỗi tuần chị gởi một lá thư. Đôi ba năm chị mới vê thăm mẹ một lần vào dịp Tết hay Lễ Vu lan.

Trong những năm tháng chị đi xa, em buồn quá, hút thuốc lá rất nhiều, thỉnh thoảng có hội hè hùa theo đám bạn bè tập tành chén chú chén anh, uống mãi trở thành nghiện, em đã phạm vào năm giới cấm, điều tệ hại là em rất xấu hổ nhưng lỡ ghiền mất rồi, có cách gì để cai thuốc lá và rượu? Không biết nhờ ai. Nhờ thầy nhờ bạn đạo thì không dám. Chỉ có chị mới có thể giúp em được thôi, em đã sáng măt ra bởi những dòng thư rất quý của chị Hiền từ xa gởi về: “Em yên tâm, chị không rầy la chi em đâu, đã là người thì ai rồi cũng có lúc lầm lỡ, chị tin ở em là một Phật tử luôn luôn biết sám hối và hướng thiện, ít nhiều em cũng biết một chút giáo lý của Phật. Đọc kinh Lăng Nghiêm em có nhớ một thời Đức Phật còn tại thế, ngài A Nan đang đi khất thực, bị nàng Ma Đăng Già cám dỗ, Đức Phật đã biết trước việc này bèn sai ngài Văn Thù đem thanh gươm trí tuệ đến cứu hộ giúp, ngài A Nan mới tỉnh giác thoát ra khỏi cái bẫy ngũ dục phàm trần. Người Phật tử đã có sẵn đức hạnh Bi trí dũng, em hãy bình tỉnh đem trí tuệ ra suy xét những hậu quả rất xấu của thuốc lá và bia rượu. Từ đó em sẽ biết sợ thuốc lá rượu bia, không còn xem chúng là bạn giải sầu nữa mà chính chúng là thủ phạm giết lần mòn cơ thể rút ngắn tuổi thọ của con người. Chị tin em sẽ cai được vì em của chị rất thông minh sáng suốt đủ dũng cảm để tránh xa chúng ngay bây giờ hôm nay. Chị chúc em thành công”. Thư của chị đầy sức thuyết phục giúp em có đủ quyết tâm để có thể xa rời được những ma lực cám dỗ ấy. Em mừng lắm! Từ ấy đến giờ em thật hạnh phúc vì không bị ràng buộc bởi những con ma men từng ngày tước đoạt đi cái tự do và nhân cách của con người.

Thời gian qua nhanh như bóng câu cửa sổ, năm ngoái cũng nhằm mùa Vu lan chị về thăm nhân dịp mừng thọ mẹ tuổi tám mươi. Chị cũng đã xấp xỉ sáu mươi rồi, con cái chị đã lớn có công ăn việc làm ổn định, nên chị có thể về bất cứ lúc nào. Chị muốn dự lễ Bông hồng cài áo tại ngôi chùa thân yêu nơi quê nhà, ai tha phương mà không ước hẹn ngày về, về chẳng để làm gì cả, chỉ ngồi bên mẹ thôi cũng đủ cho ta hạnh phúc nhất thế gian này. Đêm hôm đó mẹ bất ngờ bị tai biến, may có chị về chăm sóc cho mẹ cả tháng trời, mẹ bình phục xuất viện chị mới vào.

Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào. Cầm micro đến gần bên mẹ và chị bắt đầu hát “Bông hồng cai áo” trong cái cảm giác hạnh phúc xen lẫn nước mắt, giọng ca của một người ở cái tuổi U 60 dù không hay lắm nhưng cũng khiến cho nhiều người ứa lệ.

Mấy năm nay, mẹ tuổi cao sức yếu, không dám cho mẹ đi bộ nửa cây số đến chùa. Được dự buổi lễ này mẹ vui lắm, xong lễ rồi mẹ vẫn chưa muốn về, vẫn còn sớm một đêm trăng rất đẹp, hai chị em đưa mẹ vào một quán nước trên con đường Hoàng Diệu bên bờ sông Hiếu, ngọn gió Nồm từ con sông thổi lên mát lạnh, chị thấy khỏe khoắn hơn bao giờ hết. Chị mê say ngắm vầng trăng in hình trong bóng nước, xa xa bên kia bờ những con thuyền đã đổ bến, nhà thơ Hàn Mặc Tử với khung cảnh như thế này ở thôn Vĩ Dạ đã tự hỏi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Và… thôn Vĩ nổi tiếng từ đó. Còn đây những con thuyền bên dòng sông Hiếu thân thương, chỉ muốn chở trăng về không muốn chở trăng đi. Chỉ cần nổi tiếng với chị với em và tất ca những ai yêu mến chính nơi này. Hãy ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh như mắt em long lanh, hãy uống dòng nước trong mạch nguồn Hiếu giang mát ngọt tình yêu thương. Đêm nay đi bên mẹ có vầng trăng soi sáng, chị hạnh phúc qua đi! Em cũng thế! Từng ngôi nhà góc phố con đường, từng câu chào nụ cười thân quen, xin chia sẻ hạnh phúc này với mọi người nơi đường xưa lối cũ nẻo về.

Có lẽ đêm nay phải thức với trăng thêm một chút, bắc chiếc chõng tre ra trước sân nhà, chị một bên em một bên ngồi cạnh mẹ, nghe mẹ kể về mẹ thời con gái:

“Mười lăm tuổi đi làm dâu khác xã/ 
Năm năm ngủ chung với mẹ chồng/ 
Trầu têm nước rót/ 
Quần xắn ống cao ống thấp/ 
Heo gà vườn ruộng bữa cây bữa cày/ 
Giặt áo cầu ao ngậm ngùi rơi nước mắt/ 
Thương mẹ già cha yếu chưa báo đáp một ngày/ 
Thương lũ em thơ còn đòi chị ẵm/ 
Thương đám bạn bè tóc khét nắng đồng trưa/ 
Thương con bê đôi mắt buồn rười rượi/ 
Thương lũy tre già rủ rỉ gió chiều đưa/ 
Thương củi nè nhen ấm nồng bếp sớm/ 
Thương bụi chuối đầu hồi quấn quýt đàn con/ 
Thương những đêm hè nhìn trăng vỡ giữa ao sương/ 
Hả hê cười khuấy nước/ 
Thương những ngày giáp tết, săm se áo mới xúm xít chợ làng xa/ 
Ngày đi em nép góc nhà/ 
Mẹ sụt sùi cầm tay không nói/ 
Bạn bè chen nhau vẫy gọi/ 
Tre pheo chìa nhánh ngăn đường/ 
Dừng tay hái rau, ngày đang trở tối/ 
Chiều chiều ra đứng cổng sau/ 
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Thơ-Kim Cúc). 

Chị cũng vậy, có khác chi mẹ mấy đâu. Bao nhiêu năm ngỡ khô dòng nước mắt, buổi bạc đầu về khóc giữa quê hương. Mang theo một nửa hồn quê/ Hương ơi sống gởi thác về với hương. Đó là ước nguyện của chị, cua mẹ nhưng đâu có được. Sinh ra con gái ngoại tông/Quê cha thì bỏ quê chồng thì theo. Chị còn có chồng con gia thất. Những đứa con thân yêu đang cần chị trở về. Giống như chị đang cần về ngồi bên mẹ, chị ôm mẹ thật chặt không để cho mẹ biến mất trên cõi đời này. Chị noi gương Đức Mục Kiền Liên, nguyện làm con thảo, nhớ nghĩa thân sinh, ngày đêm nguyện cầu Bồ tát Đại Hiếu Mục Kiền Liên gia hộ cho mẹ thân tâm yên ổn. Ước gì mẹ sống mãi bên con cháu suốt đời.

Mẹ đã đi ngủ, gà nhà ai đã gáy đầu canh, đêm về khuya trăng Vu lan càng sáng tỏ, chỉ còn lại hai chị em, chị muốn thức để tâm sự cùng em thêm một chút nữa thôi, mai chị sẽ tạm biệt nơi dấu yêu này rồi, đường xa ngàn dặm một lần về một lần khó chị dành hết thời gian cho mẹ và em. Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày/ Chín chữ cù lao. Công cha tựa non cao. Nghĩa mẹ như biển rộng. Thức trắng một đêm mới biết đêm dài vô tận. Ôi! Chị thương mẹ biết dường nào! Chị ơi! Em đã nhìn thấy bông hồng cài trên ngực áo chị áo em rất đẹp, và chị hãy nhìn lên bầu trời, ở đó… Trăng tháng Bảy, trăng cài bông hồng thắm. Mẹ Vu lan, mẹ tắm suối dịu hiền. 

LÊ ĐÀN

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15482)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9060)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14344)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19783)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19101)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31381)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14612)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35795)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21473)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34165)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18821)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22832)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54358)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37551)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18812)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17796)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20851)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17270)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16285)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13408)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15305)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27315)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13113)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56808)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13566)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28877)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43245)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46470)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant