Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Ngày Lễ hội truyền thống

02 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8806)
3. Ngày Lễ hội truyền thống

VU LAN VÀ TUỔI TRẺ
Thông Huệ
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2008

NGÀY LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Hàng năm, vào ngày rằm tháng bảy, các Phật tử đến chùa tụng nghi lễ Vu Lan, nghe quý thầy giảng về đạo Hiếu; đây là một điều rất đáng tán dương. Có thể nói, ngày Vu Lan đã trở thành một lễ hội truyền thống, là ngày đền ơn đáp nghĩa, không chỉ riêng cho những người con Phật, mà chung cho cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nhân mùa Vu Lan năm nay, chúng ta cũng cần nhắc lại những ý nghĩa sâu xa của lễ hội này, để hiểu rõ do đâu mà ngày rằm tháng bảy được gọi là ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, ngày Tự tứ và là ngày Phật hoan hỷ.

VU LAN VÀ ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA 

Đức Khổng Tử đã nói: “Nhơn vi vạn vật tối linh” (Con người là tối linh trong muôn vật). Loài vật chỉ có thiên tính nuôi con, không có ý thức phải sống như thế nào cho phù hợp với đạo đức; còn con người có khối óc, có lý trí, nên ngoài bản năng, con người còn biết nhớ ơn và đền ơn. Chúng ta sinh ra và lớn lên, không ai có thể độc lập tồn tại được, mà phải nhờ cha mẹ và các ân tình khác trong cuộc sống. Đức Phật dạy, có bốn ơn lớn mà con người cần phải biết để báo đền: Ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh và ơn tổ quốc, gọi là Tứ trọng ân. 

Trong các hình thức văn hóa, chúng ta thường thấy ca ngợi tình mẹ hơn là tình cha. Không phải vì cha không thương con bằng mẹ, công lao nuôi dạy con không bằng mẹ, mà bởi vì tình cảm của người cha thường ít biểu lộ ra ngoài, nên con cảm thấy gần gũi mẹ hơn cha. Thật ra, đức nghiêm của cha và đức từ của mẹ kết hợp nhau, dung hòa lẫn nhau mới tạo nên sinh khí và sự bình ổn trong gia đình, mới là điều kiện cần và đủ cho sự giáo dục con cái. 

Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công của cha cao vòi vọi như ngọn núi lớn, nghĩa của mẹ rạt rào bất tận như suối nguồn. Công và Nghĩa là hai phạm trù có thể diễn đạt được ý nghĩa của tình cha mẹ đối với con. Hiểu được điều này, chúng ta thấy cha và mẹ đều có địa vị cao cả ngang nhau trong lòng con cái. Vì vậy, mỗi người chúng ta đều phải tìm mọi cách báo đáp trọng ân này. Nhưng làm cách nào để báo đáp cho tròn chữ hiếu?.

Kinh Tăng Chi Bộ tập I, Phật dạy rằng: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng cung phụng cha mẹ bằng của cải vật chất, thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳkheo! Ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác-trí-huệ, khuyến khích hướng dẫn an trú vào trí huệ. Cho đến như vậy, này các Tỳkheo! Là làm đủ và trả đủ ơn cha và mẹ”. Dựa vào lời Phật dạy, chúng ta đã biết báo hiếu đúng nghĩa phải như thế nào. Trước tiên, chúng ta phải lo cho cha mẹ đầy đủ về vật chất, tùy khả năng của mỗi người. Kế đến, chúng ta phải nghĩ đến đời sống tinh thầnđạo đức cho cha mẹ. Nếu người có tà kiến, phải giúp đỡ người có được chánh kiến; nếu người theo tà giới, phải khuyên người theo chánh giới; nếu người làm điều ác, phải khuyên người làm những hạnh lành; nếu người chưa có chánh tín, phải khuyến khích người trở về nương tựa nơi Tam-bảo, sống một cuộc đời hiền thiện.

Chúng ta đọc câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất là hai vị đệ tử lớn của Phật, thấy hai Ngài đều có mẹ vì tạo tội nên bị đọa vào khổ xứ. Sau khi được Phật chỉ dạy, các Ngài khẩn thiết xin với chư Tăng tu hành thanh tịnh, vào ngày rằm tháng bảy thành tâm chú nguyện cho mẹ mình. Tâm thành của chư vị Thánh Tăng chuyển được tâm ác của hai bà mẹ nên hai bà thoát kiếp đọa đày. Chuyện này cho thấy, hai vị tôn giảxuất gia tu hành đã được giải thoát, vẫn nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Không phải chỉ nhớ đến cha mẹ đời này, mà còn nghĩ tưởng đến cha mẹbà con quyến thuộcvô số kiếp về trước. Đức Phật đã từng lạy đống xương khô, nhân đó thuyết bài Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu, một áng văn tuyệt tác, làm rơi lệ biết bao nhiêu người từ thời ấy cho mãi đến ngàn sau. Cho nên, với tầm nhìn của người bình thường, những người xuất gia dường như là bất hiếu. Nhưng thật sự, cung phụng cha mẹ bằng món ngon vật lạ chỉ có giá trị giới hạn, vì thuộc về vật chất hữu hình hữu hoại. Còn người xuất gia tu hành đạt đạo, khuyến khích cha mẹ cùng tu hành để thoát khổ sinh tử luân hồi, đó mới là đại hiếu vì có giá trị vĩnh hằng, đó mới thực sự xứng đáng đền ơn cha mẹ.

 Kinh Tương Ưng tập I có nói: 

Người nào theo thường pháp,
Nuôi dưỡng mẹ và cha,

Chính do công hạnh này,

Đối với cha với mẹ,

Nhờ vậy bậc Hiền Thánh,

Trong đời này tán thán,

Sau khi chết được sanh,

Hưởng an lạc chư Thiên”.

Thường pháp là pháp không biến đổi theo thời giankhông gian, là chân lý muôn đời. Do lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, những người con ấy được các bậc Hiền Thánh tán thán; và sau khi chết được sanh về cõi trời, hưởng nhiều sự an lạc. Thật ra, một người con hiếu thảo sẽ tự cảm nhận trong thân tâm mình có sự tươi mát bình an. Đó là cảm thọ của chư Thiên ngay trong hiện kiếp. Ngược lại, những người bất hiếu với cha mẹ thì không xứng đáng với danh nghĩa là người. Đây là điều kiện để những tội ác khác phát sinh, vì đạo hiếu là căn bản của đạo đức con người. Nếu chúng ta không thương cha mẹ, thì chắc chắn không thể nào chúng tatình thương thật sự đối với ai. Cho nên, điểm đầu tiên của lòng từ bi phải là lòng hiếu thảo. Phật đã dạy, phụng thờ trời đất quỷ thần không bằng hiếu kính với cha mẹ, vì cha mẹthần linh bậc nhất, chính là Phật tại thế. Điều này cho thấy, địa vị của cha mẹ đối với con cái rất quan trọng. Nhất là trong xã hội hiện tại, đôi nơi đã đánh mất nền tảng đạo đức, chạy theo xa hoa phù phiếm, thì trong gia đình và học đường, mỗi đứa trẻ đều phải được dạy bảo để thấm nhuần về đạo hiếu.

Ơn lớn thứ hai cần phải báo đáp là ơn đối với sư trưởng. Đó là các thầy cô dạy chúng ta những kiến thức thế gian, từ lúc còn thơ chưa biết chữ đến khi thành người hữu dụng. Người tu còn có một ân nghĩa xuất thế, đó là Chư Phật Bồ tát và Thầy Tổ. Chính các Ngài có đầy đủ Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, giúp chúng ta có một cái nhìn siêu việt về cuộc sống, giúp chúng ta đẩy lui vô minh, tẩy trừ tập khí phiền não, để trở thành một người tự tại an lạc trong dòng đời. Cho nên, tinh thần tôn sư trọng đạo, từ bao giờ cho đến bây giờ, vẫn cần được nhắc nhở và đề cao.

Đối với ơn chúng sanh, ta cần phải quán chiếu mới thấu triệt. Thân chúng ta sinh ra và lớn lên là nhờ công ơn của rất nhiều người, từ người nông phu cho lúa gạo, người thợ dệt cho vải vóc, người thợ nề xây nhà cho ở... đến bạn bè, người láng giềng, những kẻ giúp việc... mỗi mỗi đều giúp đỡ ta trong những công việc hàng ngày. Nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ thấy có một sự liên hệ hỗ tương giữa mình và vũ trụ vạn hữu, đây là thuyết trùng trùng duyên khởi Phật đã dạy. Cho nên, không những nhớ ơn chúng sanh hữu tình, ta còn phải mang nặng công ơn của vạn vật vô tình nữa. Vào thời đức Phật, một vị Tỳ kheo ngồi nghĩ dưới gốc cây một lát rồi ra đi, cũng phải nhớ ơn cái cây đã tỏa bóng mát che nắng cho mình. Nói gì đến không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, ánh sáng mặt trời ban sức sống cho muôn loài... Tất cả là ơn chúng sanh mà mỗi người đều thọ nhận, dù khó thể đáp đền. Vì thế, nếu có dịp cứu giúp người hoạn nạn, khốn khổ hơn mình, nếu nơi nào bị thiên tai dịch họa, chúng ta cần đóng góp tài lực, vật lực, tùy theo khả năng. Đây là tinh thần lá lành đùm lá rách, mà cũng là để đền ơn chúng sanh. Trong nhiều kiếp luân hồi, biết đâu những người bị nạn ấy là thân nhân quyến thuộc của mình? Với cái nhìn duyên sinh, phóng tầm mắt đến đâu ta cũng thấy toàn là bà con thân quyến. Mà đã là thân nhân với nhau, chẳng lẽ chúng ta nỡ làm hại người, làm người phiền não, chẳng lẽ không cùng gánh vác chia xẻ những nỗi đau thương mất mát của người? Đây chính là tiền đề của lòng từ bi, ban vui và cứu khổ.

Ơn lớn thứ tư là ơn đối với tổ quốc. Nếu không có sự bảo hộ của nhà nước, của pháp luật; nếu không có binh phòng, vệ phòng ngày đêm giữ gìn an ninh trật tựđề phòng giặc ngoại xâm, liệu chúng tayên ổn sinh sống và tu hành được không? Những người Việt sống xa quê, do hoàn cảnh hay do sinh kế phải bôn ba nơi đất lạ, vẫn mang trong lòng nỗi nhớ quê hương. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc luôn luôn vang vọng trong mọi con tim người dân Việt, vì vậy bao nhiêu giặc ngoại xâm - kể cả những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn nhất, cũng đành chịu thất bại trước sức quật cườngtinh thần yêu nước của dân tộc Việt-Nam.
 
Làm người là một hạnh phúc vô cùng to lớn, nên chúng ta phải biết trân quý từng giây phút, để sống thế nào cho có đạo lý, phù hợp với tình cảm giữa người và người. Việc báo ân báo hiếu là điều cần thiết phải làm để đem lại hạnh phúc cho gia đình, tạo nền móng đạo đức căn bản, tạo sự an bình cho xã hội. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng của tất cả mọi người, không phải dành riêng cho những người con Phật. Bởi vì, dù ở địa vị nào, sống trong quốc độ nào, theo tôn giáo nào, tinh thần đền ơn đáp nghĩa vẫn có giá trị muôn đời. Vì thế, có thể nhắc lại mà không sợ lầm, Vu Lan là một ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Việt-Nam. 

VU LAN VÀ TỰ TỨ

Một số Phật tử tụng kinh hằng đêm, chắc nhớ hai câu này: 

Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”.
(Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ).

Những chúng sanh tạo nghiệp nặng nơi thân khẩu ý, lúc chết phải đọa vào ba đường ácđịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhà Phật nêu lên hình ảnh của một người bị treo ngược chân lên trời, đầu chúc xuống đất, để tượng trưng cho những nỗi khổ cùng cực. Cái khổ cùng cực này không chỉ người bị đọa tam đồ mới chịu, mà ngay người đang sống, đôi lúc cũng lâm vào những cảnh quẩn bách khiến thân tâm có thể cảm nhận rõ điều này.

Tinh thần từ bi của đạo Phật ban rải khắp muôn loài. Cho nên, ngày Vu Lan còn có ý nghĩa là ngày xá tội vong nhân. Chúng ta đừng hiểu lầm Vu Lan Bồn là cái chậu đựng trăm món ngon, chờ đến ngày rằm tháng bảy đem đến chùa nhờ chư Tăng cầu nguyện cho thân nhân còn sống hay đã chết. Chữ Vu Lan Bồn có nghĩa là Giải đảo huyền hoặc Cứu đảo huyền, tức giải cứu khỏi cái khổ treo ngược.

Trong vòng luân hồi sanh tử, chúng ta đã bao lần là bà con quyến thuộc với nhau. Vì vậy, sự liên hệ do duyên nợ giữa chúng ta và tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới là một điều có thể hiểu được. Từ đó, tình thương của chúng ta sẽ chan hòa một cách bình đẳng đến muôn loài muôn vật, không hạn cuộc thời giankhông gian. Và ý nghĩa trọng đại của lễ Vu Lan chính là lòng biết ơnđền ơn tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Tình thương của chúng ta đối với mọi loài có tính cách xả kỷ, rộng lớn và bình đẳng chứ không còn là tình cảm luyến ái hệ lụy trong gia đình. Nếu hiểu được chân nghĩa này, từ trong vô thường huyễn mộng của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm được một hướng đi và lẽ sống tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính ngày Vu Lan giúp chúng ta hướng tâm mình đến chân trời bao la đó. 

Nhưng làm cách nào để có thể cứu giúp chúng sinh đang bị đọa đày nơi khổ xứ ?

Đức Phật dạy, ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ. Trong ngày ấy, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, vì thấy chư Tăng tu hành thanh tịnh, hòa hợp. Nhờ đức hạnh, đạo lực của chư Tăng mới có thể hướng tâm người quá vãng đến nẻo thiện, chuyển được nghiệp ác cho họ. Như vậy, gốc của lễ Vu Lan là ngày Tự tứ.

Từ thời đức Phật còn tại thế, mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, chư Tăng phải thực hiện chế độ an cư, nghĩa là yên ở nơi một trú xứ thu nhiếp các căn, nỗ lực tu tập Giới - Định - Huệ. Nguyên nhân đầu tiên để Phật đặt ra chế độ này, là vì trong ba tháng hạ, ở Ấn Độ mưa nhiều, nước ngập cả lối đi, sau đó côn trùng sinh sôi nảy nở, nên trở ngại cho việc đi lại hoằng pháp và vô tình giẫm chết côn trùng. Sau ba tháng cấm túc, Phật nhận thấy nhiều vị Tỳkheo đắc Thánh quả, nhờ ít bận rộn đi lại, tránh bớt các duyên và quyết liệt tu hành. Do kết quả đó nên sau này, chế độ an cư trong ba tháng hạ được duy trì mãi trong Tăng chúng.

An cư phải đi đôi với kiết giới. Sinh hoạt của chư Tăng trong thời gian này khác hơn so với ngày thường. Những ngày bình thường, do duyên sự bề bộn, các vị có thể du phương làm Phật sự, kỷ luật trong Tăng-đoàn có khi lơi lỏng. Nhưng trong ba tháng hạ, mọi việc đều thu xếp gọn lại, chư Tăng chỉ đi lại giới hạn trong khuôn viên của tự viện; chỉ có những vị có duyên sự đặc biệt, phải xin phóng giới mới được ra ngoài. Mới nhìn, chư Tăng có vẻ rảnh rỗi, không bận tâm về sinh kế vì nhờ Phật tử hỗ trợ cúng dường; nhưng thật ra nội tâm của các vị quả là một trường chiến đấu! Một mặt, phải khép mình vào một kỷ luật hết sức nghiêm khắc; mặt khác, phải chiến đấu không ngơi nghỉ với bao nhiêu tập khí phiền não. Nhờ vậy, sau thời gian kiết hạ, nếu vị nào giữ giới tinh nghiêm, nỗ lực tu học, có sức tỉnh lực thì sẽ có tiến bộ đáng kể; nơi nào tổ chức tu hành nghiêm túc sẽ có thể sản sinh những người xuất cách, còn nếu tổ chức lơi lỏng sẽ khó đào tạo được Tăng tài.

Cũng cần nhấn mạnh một điều: Tinh thần an cưthanh tịnhhòa hợp. Đây cũng là ý nghĩa của chữ Tăng và cũng là sức mạnh của Tăng đoàn. Một nhóm người chung sống hòa hợp với nhau nhưng tâm không thanh tịnh, sinh hoạt và hành động không theo chánh pháp thì không phải là người tu chân chính. Ngược lại, dù sống thanh tịnh, giữ giới đúng mức nhưng lại bất hòa với nhau, thì sức thanh tịnh cũng vẫn còn hạn chế, chưa đúng với danh nghĩa người tu.

Trong nhà Thiền, tinh thần an cư còn có một ý nghĩa về Lý. Dù ở nơi nào, dù vắng vẻ hay ồn náo, nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trầntâm không duyên theo các pháp, đó mới thật sự là “độc xử nhàn cư”. Như vậy, hàng cư sĩ tại gia, nếu sắp xếp được công việc, tránh bớt các duyên, hàng năm có thể tổ chức cho mình một thời gian nhất định nào đó để tĩnh tu. Do chúng ta căn cơ và trình độï tu hành còn kém, nên cần có độc cư về sự để trợ duyên cho việc tu tập.

Cuối cùng của chế độ an cư, và cũng là cốt tủy của lễ Vu Lan, là ngày Tự Tứ vào rằm tháng bảy. Tự là chính mình, Tứ là đưa ra trước mọi người. Nội dung của Tự Tứ là mỗi người tự trình bày những lỗi lầm mình đã phạm, không giấu giếm, gọi là phát lồ sám hối; đồng thời kính thỉnh đại chúng, nếu thấy, nếu nghe, nếu nghi mình có mắc phải lỗi nào mà chính mình không biết, xin từ bihoan hỷ nêu ra để mình sửa đổi. Đối với người thế gian, điều này thật khó thực hiện; nhưng đối với người tu thì đây là điều cần thiết. Người cử lỗi phải hoan hỷ, thật tâm muốn huynh đệ của mình tốt đẹp; người được cử lỗi cũng phải lấy làm sung sướng, vì có đại chúng chỉ dạy, ban bảo cho mình. Người xuất gia, nhất là mới vào đạo, phải được ở gần Thầy và đại chúng, để được chỉ bảo cho mình những điều mà tự mình không hay biết.

Do tất cả Tăng chúng đều an trú trong sự thật, can đảm tự cử lỗi của mình và chỉ lỗi cho người, nên ngày Tự Tứ là ngày chư Phật mười phương đều hoan hỷ. Do tâm các vị thanh tịnh như thế, Phật tử mới quy hướng về nơi kiết hạ, chờ ngày Tự Tứ nhờ chư Tăêng cầu siêu cho thân nhân đã khuất được sanh về các cõi lành, cầu cho người sống được thân tâm an lạc, vững chải sống trong chánh pháp. Nhờ phước lực của chư Tăng trong ba tháng thanh tịnh tu hành, nên thức tỉnh được tâm người đã khuất và làm người sống cảm thấy bình an. Cho nên, ngày rằm tháng bảy là ngày hết sức quan trọng trong ba tháng an cư. Bản chất của ngày này là An cưTự Tứ, từ đó mới có cái ngọn là Vu Lan và Báo Hiếu hay đền ơn đáp nghĩa.
 

Vu Lan chính là ngày hội tụ những niềm vui lớn trong tâm hồn những người con hiếu hạnh, những người có đạo đức, biết trở về nguồn cội. Nếu quán triệt được và sống được đúng tinh thần của Vu Lan, thì chính con người của chúng ta cũng là hiện thân của “Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát”. Chúng ta không tìm một vị Mục Kiền Liên nào trong thời quá khứ, mà phải tìm Mục Kiền Liên ngay trong con người xác thịt của chúng ta.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, đảnh lễ trước Phật đài, chúng ta thề nguyền noi gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên, làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Chúng ta cũng nhớ đến tất cả chúng sinh đang còn chìm đắm trong vô minh tăm tối, nguyện hồi hướng công đức cho muôn loài đều phát Bồ đề tâm, đồng tu hành và đồng thành chánh giác. Từ chỗ đứng vững chắc của mình bằng hạnh hiếu và bằng tất cả lòng thành, chúng ta đã có vật phẩm dâng lên cúng dường Tam bảo một cách có ý nghĩa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19328)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18435)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15889)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29691)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25370)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21526)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17739)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20727)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26221)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51945)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22758)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23321)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39493)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21705)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22283)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6761)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22625)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69632)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43863)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22948)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34870)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43947)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42765)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44267)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24791)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24258)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39066)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39049)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17161)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17910)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19170)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24110)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19499)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20318)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18222)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18889)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18866)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17406)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19224)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30665)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19102)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20411)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19431)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19663)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29656)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17757)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19307)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19785)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58620)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24331)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23397)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39652)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26602)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40630)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22792)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22810)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21496)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18524)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22507)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21004)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19126)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20839)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20243)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30444)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20099)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17367)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16500)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16769)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14878)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14762)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22743)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15965)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16122)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15166)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25937)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17083)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15678)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19657)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17581)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14601)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14644)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19028)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15020)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17349)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19010)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21696)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22848)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16535)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16373)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16362)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22831)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12585)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29356)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27555)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25760)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18365)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant