Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10838)
Lễ Vu Lan Nguyễn Du lập đàn bạt độ cô hồn thập loại

LỄ VU LAN NGUYỄN DU LẬP ĐÀN
BẠT ĐỘ CÔ HỒN THẬP LOẠI
Thích Tâm Tôn 

Ai đã từng sống long đong trong bể khổ không cùng cũng như trong hoan lạc chơi vơi, hay từng trải qua những ngày dài quạnh quẽ và những đêm tàn hoang vu, ắt hẳn không sao tránh khỏi trỗi dậy nỗi động lòng dào dạt khiến lệ trào dâng mi khi đọc Văn Tế Thập Loại Cô Hồn đầy ai oán cảm sầu của cụ Nguyễn Du. Một Nguyễn Du thiên tài, song lại là một mảnh đời lận đận và có phần bạc mệnh như chính cuộc đời Kiều. Phải chăng, đó là nghiệp báo lao xao của một kiếp chúng sanh mà ông đã nhìn nhận trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh:

"Mỗi người một nghiệp khác nhau, 
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?"

Nghe ra thấy toàn là chất nhân sinhtâm linh Phật giáo. Và chất Phật giáo ấy có gì lạ, bởi chính ông là một Phật tử trí thức thấm nhuần giáo lý Phật Đà. Hình như cái tư tưởng Phật giáo đã vô hình ứng hiện vào tận nguồn cảm hứng sáng tác cho một nghệ sĩ Nguyễn Du, để tạo nên những áng thi chương lẫy lừng bất hủ. Điều đó đã được thể hiện trọn vẹn trong hai tác phẩm bất tuyệt của ông: Truyện Kiều và Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Cả hai tác phẩm này có thể được xem như là những bản kinh của Phật giáo Việt Nam, mang tính cầu an như truyện Kiều và cầu siêu như Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Nhân Lễ hội Vu Lan xin được lạm bàn về vài áng văn tế của Nguyễn Du, như thể để nhắc lại cái giá trị văn hóa tâm linh Phật giáo tuyệt với mà ông đã thể hiện một cách trọn vẹn về nghĩa cử báo hiếu tình thân và thi ân tế độ phổ đồng. Đó chính là hai mục tiêu trong một ý nghĩa "Giải Đảo Huyền" mà người Phật tử Việt Nam nào vào dịp tiết Trung Nguyên - Lễ hội truyền thống Vu Lan cũng vọng hoài thổn thức.

Đức Phật từng dạy: "Nếu đem nước mắt của hết thảy chúng sanh trong vòng luân hồi từ vô thỉ đến nay tích chứa lại thì nhiều cũng như nước của cả một đại dương". Đức Phậthiện sinh của tinh thần đượm nhuần đức tánh nhân áitừ bi vô lượng. Bằng vào mọi phương tiện, tinh thần nhân ái cao cả đó được Ngài thể hiện một cách tài tình hằng che chở cho tất cả chúng sanh. Tánh đức từ bi vô ngần ấy chính là tinh thần cảm thông với những nỗi thống khổ bất tận mà những chúng sanh tội lỗi và bệnh tật hằng mang. Đức Phật tỏ bày: "Nỗi thống khổ của người cũng chính là nỗi thống khổ của ta, và niềm hạnh phúc của người cũng chính là niềm hạnh phúc của ta." Tình thương cao cả ấy quả là cái đức bạt ngàn của người cha và cái lòng bao la của người mẹ dành cho con thơ tội nghiệp.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam mang theo những tinh ba tươi đẹp nhất để làm tươi mát cho những tâm hồn khốn khổ, đồng thời cũng xúc tác những nguồn tư tưởng phong phú làm trào dâng cho bao trái tim nhân sĩ trí thức Việt Nam. Chỉ có tình thương của đạo Phật mới sản sinh ra những con người giàu đức hiếu sinh, hiếu hòa và giải thoát như Lý Thánh Tôn qua những tâm sự này: "Ta ở trong cung kín, sưởi lò than, khoác áo lông mà còn rét thế này. Nghĩ đến các tù nhân bị nhốt nơi lao ngục, bị trói buộc khổ sở mà chưa biết phải trái ra sao, ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân; gió rét, tất có kẻ chết không nơi nương tựa. Ta thật lấy làm thương… Ta yêu con ta thế nào thì ta thương dân cũng thế. Vì dân không hiểu luật lệ nên mắc tội, ta thực lấy làm thương xót. Vậy từ nay về sau, tội nặng hay nhẹ, các ngươi cũng khá xử cho khoan hồng." Và tình thương ấy chúng ta cũng lại được thấy trào dâng bàng bạc vào tận cả chốn u đồ của Cô Hồn Thập Loại mà Nguyễn Du đã động lòng cảm thông trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Đó là tình thương trải rộng, tình thương phổ đồng của tinh thần đại bi nhà Phật. 
Tinh thần ấy được Ngài Thật Hiền khai mở trong Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm như sau: "Ta với chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời làm cha mẹ nhau, có ơn với nhau. Nay do cách đời mờ ám, không biết được nhau, nhưng lấy lẽ mà suy cứu thì làm sao có thể không có sự báo bổ. Ngày nay là thú vật, nhưng biết đâu ngày trước ta đã từng là con cái của chúng. Hiện tại là vi sinh, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã từng là cha mẹ của ta. Thường thấy, nhỏ mà xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình bóng song thân, huống chi cha mẹ bà con đời trước, ngày nay kẻ họ Trương người họ Vương, khó mà nhớ được nhau. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngưỡng trong ngạ qủy, thống khổ ai biết, đói khát ai hay. Ta dầu không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu cầu vớt. Kinh mới dạy được việc ấy, Phật mới tỏ cảnh này, còn kẻ tà kiến thì làm sao biết được. Nên Bồ Tát nhìn sâu kiến cũng thấy toàn là cha mẹ quá khứ và Chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng." 

Hình ảnh Đức Bổntừ phụ của chúng ta sụp lạy đống xương khô trong Kinh Phụ Mẫu Báo Hiếu Ân thể hiện rõ nét cho tinh thần này. Nói đến Nguyễn Du, bậc văn chương chính nhân xưa nay đều hay cái duyên của người nghệ sĩ này với cái chất Phật giáo nó khắng khít thế nào.

Mở đầu cho bài văn tế 184 câu, Nguyễn Du như vừa thì thầm ngâm thơ vừa than thở trong lệ rơi cho nỗi niềm trăn trở đầy ê chề áo não.

"Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuộm bạc, lá khô rụng vàng."

Trước hết, nếu chỉ xét đơn thuần về khía cạnh tâm hồn người nghệ sĩ trước cảnh vừa đẹp vừa buồn của tiết thu thì Nguyễn Du cũng như Nguyễn Khuyến hay Lưu Trọng Lư không hơn không kém. Đối cảnh sanh tình là cái bệnh "đa cảm đa sầu" bình thường muôn thuở của người nghệ sĩ. Hình ảnh của tiết thu như: mưa dầm, hơi lạnh, sương khô, lá rụng vàng không gì lạ lẫm trong hồn thơ của những bậc thi nhân. Nhưng thoát ra ngoài phạm vi nghệ sĩ ấy, ta cảm nhận như Nguyễn Du không phải bị rơi vào chỗ đồng điệu với cái buồn man mác của chiều thu, mà hình như tự trong sâu lắng tâm hồn ông kết đọng một nỗi niềm u uất hay khắc khoải một hoài vọng xa xăm về một thế giới tâm linh u huyền nào đó. Cái chất thu ở Nguyễn Du có mang một chút sáng tối áo não hòa quyện sắc màu âm dương, dễ dàng khơi dậy một thứ cảm giác bâng khuâng về cái ân và cái nghĩa theo nhà Phật được thể hiện trong Lễ hội Vu Lan mà mỗi con người ai cũng hằng mang nặng. Như vậy, ở đây cái thu không chỉ là cảm xúc khi đối cảnh của tình nghệ sĩ, mà còn là cái thu mang nặng nghĩa ân tình thâm trọng của người con Phật.

"Tháng bảy mùa thu lá rụng vàng,
Ấy mùa báo hiếu lễ Vu Lan."

Đọc những vần thơ tiếp theo ta mới thấy rõ hơn về sự liên tưởng từ cái "hữu hình" đến cái "vô hình", từ cái "dương thể" đến cái "âm thể" trong một tâm hồn trăn trở Nguyễn Du:

"Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm."

Từ một trực cảnh hiện sinh, thiên tài Nguyễn Du mở ra những cánh cửa bí mật dẫn vào tâm hồn u uẩn của cô hồn thập loại và của chính tâm hồn mình. Ở đó ta thấy xuất hiện một nỗi niềm kỳ lạ khó hiểu trong con người của ông vào lúc cuối cuộc đời. Khi phải bệnh nặng, Nguyễn Du không chịu uống thuốc. Lúc gần chết, sai người sờ tay chân xem còn nóng hay đã lạnh. Người nhà bảo: Đã lạnh cả rồi. Nguyễn Du nói: "Được!" Nói xong thì im lặng mà từ giã cõi đời.
Theo thuyết Nghiệp Chủng Thức Phật giáo, mà rõ rànggiải thích của Thái Hư Đại Sưbài kệ:

"Đảnh Thánh, nhãn sanh Thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,

Bàng sanh tất cái ly,

Địa ngục cước tâm xuất."

Để đoán biết một người sau khi chết sẽ sanh về cảnh giới nào thì chỉ cần xem người ấy vào lúc lâm chung điểm hơi ấm cuối cùng xuất ra ở chỗ nào trên thân. Nếu ở đảnh đầu thì sẽ sanh về cõi Thánh, nếu ở trán thì sanh vào cõi trời, nếu ở tim thì sanh được làm người, nếu ở bụng thì sanh làm ngạ quỷ, ở đầu gối thì sanh vào loài súc sanh, còn ở bàn chân thì phải đọa vào địa ngục.

Nguyễn Du đã dùng phương pháp này để đoán xem mình sẽ sanh vào thế giới nào. Người nhà bảo lạnh cả rồi mà ông vẫn còn trong trạng thái hoàn toàn tỉnh, rồi bảo rằng: "Được!" Từ "Được" ấy chính là cái điểm nóng cuối cùng diễn biến đúng như ý của Nguyễn Du. Cũng chính trong cái im lặng ra đi của ông toát lên một sức mạnh gì đó mang tính được dự định cho điều bí mật hiện hữu trong một tâm hồn. Đó phải chăng là một sự tỉnh thức mà từ lâu Nguyễn Du đã tu tập được để chuẩn bị cho một phẩm vị ở cảnh liên trì tự tại.

Sống, Nguyễn Du cứ bị thôi thúc bởi hai chữ "Sinh hóa". Chính vì vậy mà mở đầu bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, ta toàn trực diện với những từ ngữ chứa chan sắc màu lắng đọng của âm dương chập chờn hòa quyện.

"Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,

Thương thay thập loại chúng sanh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người."

Đạo Phật luôn lấy sứ mạng đem ánh sáng và tình thương đến cho muôn loài làm lý tưởng sống. Ánh sáng của tinh tú, của mặt nhật, mặt nguyệt chỉ có thể giúp chúng sanh thoát khỏi sự hỗn mang phiền tạp cũng như sự mò mẫm, và đen đặc của trời đất hay của cuộc đời. Ánh sáng chánh pháp, của tình thương chính là hai sự trạng chan chứa trong tinh thần của Phật giáo. Chính cái tình thương phổ đồng mới đưa tất cả chúng sanh cùng hòa vào một khối yêu, và ngay ở chính đó mỗi cá thể sẽ tìm thấy được cái tình thân ấm áp lạ lùng. Đây quả là lời tỉnh giác, là lời mở đầu bài thuyết linh cho chúng cô hồn "phách chiếc lênh đênh" không nơi nương tựa của một Pháp sư chứ không phải của một Nguyễn Du mà mọi người chỉ biết dưới danh nghĩa một đại thi hào.

"Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tỉnh đàn rưới hạt dương chi

Muôn nhờ Đức Phật từ bi,

Giải oan cứu khổ hồn về Tây Phương."

Đến đây chúng ta càng thấy rõ hơn Nguyễn Du đã thật sự thoát xác hóa thân thành một pháp sư, thành một đạo sĩ tay cầm nhành dương rưới nước phép, mở khai phương tiện quyền xảo đi vào tận cùng thế giới không tên của trăm nghìn kiếp sống mà hiển thật hóa duyên. Một danh nhân không chỉ của riêng dân tộc Việt Nam hay của Phật giáo Việt Nam, mà còn được cả thế giới công nhận và xếp vào hạng những nhà văn hóa nổi bật của mọi thời đại lại còn xiển dương việc "lập đàn giải thoát" như thế ấy. Đó chính là phẩm chất của nhà văn hóa Nguyễn Du và cũng là phẩm hạnh cao đẹp của một vị Bồ Tát. Có ai nào dám mạo danh vì một chủ nghĩa, một học thuyết lý luận nào đó mà phê phán hay chỉ trích ấy là việc làm mê tín dị đoan phải bài trừ? Chỉ những ai thiếu kiến thức văn hóa mới hời hợt đánh giá đó là phi văn hóa. Và chỉ có những ai lạm dụng cái giá trị văn hóa đó để phục vụ cho mục đích riêng mình mới là người thiếu văn hóa.

Cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Trời đất nào dung tha kẻ ác,
Cớ sao còn có lễ Vu Lan,

Từ bi, ta muốn nhờ công sức,

Cứu được bao người chịu khổ oan?"

Đó là cách nói răn dè để dạy đời theo quan điểm đạo đức về thiện ác, thưởng phạt do trời đất định đoạt mang tính khắt khe của người Nho gia. Theo truyền thống báo hiếu, đáp nghĩa, đền ân thuộc đạo lý làm người của Phật giáo thì chẳng những khi còn sống chúng ta phải biết quan tâm và tử tế với nhau, mà ngay cả sau khi chết chúng ta cũng phải biết thương tưởng hướng về nhau. Vì thế, Vu Lan phải được xem như là một nghĩa cử cao đẹp không chỉ cứu tử mà còn có giá trị độ sanh nữa. Với lại, về mặt pháp luật, không luật lệ nào không có ngoại trừ, cũng không có tòa án xử tội nào lại không có điều khoản ân xá.

Theo Phật giáo, trong thế giới tương đối này, hết thảy vạn hữu đều phải chịu ảnh hưởng của quy luật Nhân Quả. Tất cả đều tương quan tác động qua lại với nhau, duyên vào nhau mà tồn tại. Do đó, nghi lễ cầu an và cầu siêu là những trợ duyên cần thiết, những đìều kiện hỗ trợ một cách hợp lý cho sự sống và sự chết của con người về mặt tinh thần. Đứng về phương diện đạo lý thường tình mà xét thì "lễ" là sự thể hiện cho cái "nghĩa" sống của con người, song để thể hiện cái "lễ" ấy thì cần phải dựa vào "nghi thức" để thực hiện cho phải lẽ kính tôn.

Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh đang điêu linh nơi âm cảnh ở một đại thi hào. Lòng xót thương đã khiến người nhận ra được tính đồng thể mà chỉ có các Bồ Tát, các bậc giác ngộ trong loài hữu tình mới nhận thấy được để từ đấy phát nguyện độ tận chúng sanh. Một tình thương bao la như thể biết dùng những phương tiện cứu độhóa duyên, mà ở đây là "đàn khai cam lồ môn" được Nguyễn Du thiết lập theo nghi Vu Lan Bồn để giải oan bạt độ cho chúng cô hồn lạc lõng bơ vơ.

Ngày rằm tháng bảy, tất cả các cửa ngục đều mở, mọi hình phạt đều tạm ngưng, các tội nhơn trong chốn u đồ đều có cơ hội được xá tội. Đêm hôm ấy, kiến lập Vu Lan để cúng tế chúng sanh nơi âm giớibáo đáp cù lao. Ở hội này có thiết lập một đàn "khai cam lồ môn" để giải oan bạt độ cho chúng sanh chịu khổ chốn u đồ được giải thoát siêu thăng. Như vậy, "đàn giải thoát" mà Nguyễn Du nói đến chính là đàn này vậy.

Theo các khoa nghi chẩn tế thì cô hồn tùy theo nghiệp chủng mà biến hiện ra nhiều hình thù khác nhau để chịu khổ báo. Có những loại cô hồn bụng to như cái trống mà cổ lại nhỏ bằng ống kim, không thể nào ăn uống được. Có những loại cô hồn vì tánh xan tham nên để giành lấy thức ăn họ lại cấu xé nhau đến chết mà vẫn chịu cái khổ đói khát. Có những loại cô hồn nhìn thức ăn thấy toàn máu mủ và than hồng không sao ăn uống được. Ngoài ra còn nhiều nỗi thống khổ không sao tả xiết được mà chúng sanh phải chịu ở chốn u đồ.

"Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa;

Cho hay thành bại là cơ,

cô hồn biết bao giờ cho tan."

Hơn ai hết, Nguyễn Du làm lắng đọng lòng người để nghe những âm thanh vang động tiếng thiết tha đầy thê thảm của chúng sanh khi viết nên tiếng ai oán Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh. Ở đó, ông cũng phác họa nên những hình ảnh âm linh kinh hoàng chịu những nỗi rét mướt lạc loài của những oan hồn cô mộ.

Với thuyết nghiệp báo của Phật giáo, tất cả chúng sanh đều có nghiệp quả, chúng đều hưởng thọ nghiệp quả, chúng lệ thuộc vào nghiệp quả. Chính nghiệp quả mà phân biệt chúng sanh thành các chủng loại: thấp-cao, sang-hèn, quý-tiện, hạnh phúc-khổ đau. Hay nói theo Lê Thánh Tôn trong Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn:
"Hồn là thần, phách là quỷ, 
No nên Bụt, đói nên ma."

Như vậy, qua sự hiện hành của nghiệp quả mà người ta đánh giá được nghiệp nhân của chúng sanh. Nghiệp quả càng vô cùng đa dạng thì hình thức hiện sinh của chúng sanh càng đa dạng không cùng.
"Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu, phách lạc biết đâu bây giờ?"

Và cái đa dạng phảng phất ấy trong khoa Mông Sơn Chẩn Thí Cô Hồn có trình bày: "Hà sa thập loại khôn cùng,… không chùa không miếu lấy ai nương nhờ. Từ đường đâu có phụng thờ. Cô đơn, độc lập nương nhờ gốc cây, lênh đênh mặt nước cung mây, đầu đường xó chợ hồn bay lạc loài". Hễ cõi dương có bao nhiêu cảnh phiêu bồng lạc lõng thì cõi âm có bấy nhiêu cảnh lang bạt tiêu điều. Trở lại lời thỉnh mời, và cũng là lời mà Nguyễn Du thức tỉnh cho những tâm hồn mang nặng oán thù sân ngoa.

"Cô hồn thất thểu dọc ngang, 
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sanh."

Theo quan điểm Phật giáo thì thiên đường hay địa ngục đều do ở mỗi con người mà ra.

"Nghiệp duyên vốn tự mình ra,
Nơi vuông tấc đủ thiên đường, địa ngục."

(Vịnh Phật - Nguyễn Công Trứ)

Vậy muốn thoát những cái khổ dằn vặt trong chốn tam đồ thì ở mỗi chúng sanh phải tự mình thức giác diệt trừ mê lầm oán thân, nhờ đó sẽ đạt tới đỉnh cao giác ngộgiải thoát - hạnh phúctự do. Đó không chỉ đơn thuần là lời thức giác cho những cô hồn nặng oan khiên mà còn là lời phản tỉnh cho những con người đang hiện sinh lầm lạc trong cả cuộc đời này.

"Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn vật giai không;

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi."

Ở đây, Nguyễn Du đã diễn tả rất chính xác thực trạng vô thường theo quan điểm nhà Phật, đó là một thực tại khách quan, một chân lý phổ biến khắp không gianthời gian. Nó không dựa trên ý thức cảm tính hay khái niệm chủ quan, lại hoàn toàn không phải hư cấu giả tưởng hay thêu dệt để lung lạc lòng người. Hết thảy vạn vật kể cả thập loại chúng sanh đều có những điều kiện, những nhân duyên tạo thành, không có cái biệt lập riêng rẽ. Đó là nguyên lý tất yếu, là nhận thức giác ngộ. Nếu giác ngộ đúng sự thật thì lòng ta sẽ vơi, sẽ không còn day dứt, khổ đau; vượt trên những vui buồn thường tình; tháo gỡ những oán thù, những tham lam ích kỷ. Đây là lời thuyết linh, lời phản tỉnh dẫn dắt hết sức tài tình của pháp sư Nguyễn Du. Đồng thời đó cũng là lời thiết tha kêu gọi mọi người hãy mau mau giác ngộ sự thật cuộc đời. Một khi lòng ta đã giác ngộ thức tỉnh thì Phật tại tâm, Phật ở tại lòng ta, vì Phật chính là giác ngộ vậy.
Kết thúc bài văn tế Nguyễn Du viết:

"Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không;

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,

Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài."

Khi Đức Phật quyết định dấn thân vào đời, Ngài phát bốn thệ nguyện rộng lớn để làm lý tưởng sống giữa cuộc đời: "Thệ nguyện độ tất cả chúng sanh, thệ nguyện từ bỏ tất cả phiền não, thệ nguyện học hết thảy giáo lý cao siêu, thệ nguyện thành tựu đạo giác ngộ vô thượng." Bốn lời thệ nguyện này là hành trang của lòng yêu thươngtừ bi vô tận, là tiêu điểm hướng đến thành tựu Phật quả. Bốn câu kết của Nguyễn Du ở bài văn tế bao hàm đủ ý nghĩa của "Tứ hoằng thệ nguyện" này. Ta thấy tình yêu thương của ông trang trải khắp tận cùng thế giới chúng sanh. Chính cái tình yêu thương vô tận ấy là nguồn xúc tác khơi dậy những vần thơ trác tuyệt làm rạng rỡ hình ảnh của một đại thi hào. Đứng về mặt đạo đức thế gian, ông quả là một người có đầy đủ hiếu tâm, hiếu đạo, trọn nghĩa, trọn tình. Đứng về mặt giác ngộ, ông có đầy đủ phẩm hạnh của một Phật tử sống biết thể hiện tinh thần tự độ, độ tha.

Tóm lại, đứng trên địa hạt lợi tha, đạo Phật luôn khích lệ tất cả mọi người phải ghi nhớ, tích cực tìm cách báo âncứu khổ. Xét rộng thì tất cả chúng sanh đều là ân nhân của nhau. Và cái khổ mà cần cứu cần vớt đó là cái khổ thống thiết của chúng sanh trong chốn u đồ.

Nhân mùa Vu Lan đến với người con Phật, tất cả chúng ta hãy cùng với Nguyễn Du đồng chấp tay hướng về Tam Bảo, đồng thể hiện tình thương tưỏng đạo giáo vô biên của người con Phật đến tận khắp pháp giới chúng sanh còn đang đau khổ đọa đày trong cảnh u đồ, và hiện tại thế gian đang sống cơ hàn vì thọ nghiệp đáng thương, các chơn linh anh hùng liệt sĩ vì nước vong thân, đồng bào tử nạn. Hãy cùng nhau thành kính nguyện cầu cho tất cả đều được siêu sanh thoát hóa. Ấy là ý nghĩa báo ân mang tính vừa cao cả, vừa bao la hòa đồng và cảm thông cùng khắp của Nguyễn Du, của người Phật tử trong tinh thần Phật giáo chánh nhân. Cuối cùng, xin hãy đồng niệm câu kinh của Phật tử Nguyễn Du để nguyện cầu cho hết thảy chúng sanh đều được lợi lạc, an lànhhạnh phúc trong ngày lễ Vu Lan này.

"Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài".

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31297)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11136)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10729)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16465)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11901)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11396)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10582)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12249)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11093)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10233)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10607)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9701)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10331)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10206)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9795)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10968)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11931)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10074)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10693)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8683)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14433)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12445)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10327)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9234)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8701)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10415)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9058)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11919)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9627)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10163)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8909)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9489)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14654)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10015)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8268)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8880)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8649)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9251)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14449)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8660)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10432)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8541)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24140)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10075)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8904)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9379)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15232)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10243)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9474)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17275)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21199)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12063)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10152)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19077)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7893)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14648)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11257)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9424)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12255)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11791)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10606)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9893)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9190)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9288)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15717)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant