Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trở về

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9943)
Trở về

TRỞ VỀ

Thích Nhất Hạnh

BẠN CÓ NHỚ gì không về cái thuở còn nằm trong bụng mẹ? Chín tháng ở đó, cả một thời gian dài. Tôi thiết nghĩ nằm trong bụng mẹ, tất cả chúng ta ai cũng đã có dịp mỉm cười. Thế nhưng chúng ta cười gì vậy? Khi hạnh phúc chúng ta thường cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ em, mỉm cười lúc ngủ.

Thời gian ở trong bụng mẹ quả thật tuyệt vời. Mình chẳng phải lo lắng đến chuyện ăn uống. Từng cơn nóng lạnh được che chở. Chuyện học hành, làm lụng cũng không đụng tới. Trong bụng mẹ thật an toàn biết mấy. Không phải lo lắng điều gì. Mà không lo là điều tuyệt nhất. Tôi nghĩ nhiều người vẫn còn tiếc nuối thời gian nằm trong bụng mẹ. Nhiều người có cảm giác rằng đã có một lần được sống trong một thiên đường yên ổn, diệu kỳ, và giờ đây đã đánh mất thiên đường này. Họ nghĩ chắc có một nơi đẹp đẽ, an lành như thế ở đâu đó bên ngoài, nơi ấy chẳng còn chi để lo sợ, và mong ước được trở lại chốn đó. Trong tiếng Việt, dạ con còn được gọi là “tử cung” có nghĩa là “cung điện của đứa con”. Thiên đường ngày xưa là ở trong bụng mẹ.

blankNằm trong bụng, mình được mẹ lo cho hết. Mẹ ăn, mẹ uống cho mình. Mẹ thở cho mình từng hơi thở vào ra. Tôi nghĩ có lẽ mẹ nằm mơ cả cho mình nữa. Tôi mường tượng chắc mình cũng mơ những gì mẹ đang mơ. Nếu mẹ cười chắc mình cũng cười. Và nếu trong giấc mơ gặp khốn đốn mẹ khóc, mình hẳn cũng khóc theo mẹ. Mình cười khóc theo từng giấc mơ lành, từng cơn ác mộng của mẹ, bởi vì mẹ và mình đâu phải là hai. Mình dính chặt với mẹ qua cuống nhau, hay sợi dây rốn. Qua dây rốn này mẹ đã cho mình thức ăn, nước uống, tất cả mọi thứ, kể cả lòng yêu thương của mẹ. Có lẽ khi có thai mình, mẹ đã chăm sóc thân thể mẹ kỹ càng hơn. Mẹ đi đứng nhẹ nhàng. Có lẽ mẹ đã bỏ uống rượu và hút thuốc. Một cách thể hiện tình yêu thương của mẹ thiết thực nhất. Mình chỉ mới trong bụng mẹ chưa được chào đời mà đã được dành cho biết bao là trìu mến.

Mẹ nuôi dưỡng mình cả trước khi mình ra đời, nhưng nhìn thật sâu thì thấy lúc đó mình cũng đang nuôi dưỡng mẹ mình. Nhờ có mình trong bụng mà mẹ tươi cười, yêu đời thêm. Ba cũng thế. Mình chưa làm được gì, thế mà riêng sự có mặt của mình cũng đã nuôi dưỡng ba mẹ rồi. Cuộc đời của ba mẹ dường như đổi khác từ ngày mẹ có thai mình. Có lẽ mẹ cũng nói chuyện với mình cả khi mình chưa chào đời. Và tôi tin chắc rằng lúc đó mình đã nghe được mẹ và đáp ứng lại mẹ. Có những lúc mẹ lơ là dường như quên đi sự có mặt của mình trong bụng. Lúc đó mình đạp một cái để nhắc mẹ. Cái đạp là tiếng chuông chánh niệm giúp mẹ nhớ ra và mẹ dỗ dành mình: “Cưng à, mẹ biết con mẹ đang có mặt trong đó, và mẹ hạnh phúc biết bao, con yêu ơi”. Đó là câu thần chú yêu thương thứ nhất.

Rồi đến ngày chào đời, ai đó cắt cuống nhau cho mình. Và có lẽ đó là lúc mình cất tiếng khóc đầu tiên trong đời. Bây giờ mình phải tự thở một mình. Bây giờ mình phải tập làm quen với mọi thứ ánh sáng chung quanh. Bây giờ lần đầu mình mới biết thế nào là đói. Ra ngoài rồi mà mình vẫn còn như trong bụng mẹ. Mẹ ôm hôn mình với hết cả tình thương. Và mình cũng bấu chặt mẹ. Mình cũng chưa sống thiếu mẹ được. Rồi mẹ cho mình bú. Mẹ chăm sóc ngày đêm. Dù cuống nhau giữa mẹ con không còn, mình vẫn còn được nối với mẹ bằng một sợi dây máu mủ thâm tình.

Khi trưởng thành, mình phải phấn đấu gay go với chính mình để tự thuyết phục rằng mình và mẹ là hai cá thể biệt lập. Nhưng sự thật không phải vậy. Mình là sự tiếp nối của cha mẹ mình. Khi thiền quán, tôi thấy cuống nhau vẫn còn nối tôi với mẹ. Khi quán chiếu sâu, tôi thấy được những sợi dây rốn vẫn nối tôi với vạn hữu trong đời. Mỗi sáng mai, mặt trời mọc cho ta ánh sáng và hơi ấm. Thiếu những thứ đó, ta không thể tồn tại.

Như thế là đã có cuống nhau nối mình với mặt trời. Một cuống nhau khác nối mình với những đám mây trên trời. Nếu không có mây, mình sẽ không có mưa và nước để uống. Không có mưa, mình sẽ không có sữa, trà, cà-phê, không có cà-rem, không có gì hết. Có một sợi dây rốn nối liền mình với dòng sông, một sợi dây khác nối mình với rừng cây. Nếu tiếp tục quán chiếu như vậy, mình sẽ thấy mình dính liền với mọi sự và mọi người trong vũ trụ này. Sự sống của mình tùy thuộc vào sự sống của tất cả mọi hiện hữu khác - không phải chỉ tùy vào mọi sinh vật mà vào tất cả cây cỏ, đất đá, không khí, nước và đất.

Giả thử mình gieo một hạt bắp và chừng một tuần sau hạt bắp nảy mầm và nhú lên đọt non. Khi cây bắp vươn cao, mình không còn nhận ra được đó là hạt bắp mình đã gieo ngày nào. Nhưng nếu nói rằng hạt bắp đã chết thì không đúng. Bằng đôi mắt của Bụt, mình sẽ thấy rằng hạt bắp vẫn còn sống nơi thân cây bắp. Thân bắp là sự tiếp nối của hạt bắp về hướng tương lai, và hạt bắp là sự tiếp nối của thân bắp về hướng quá khứ. Hai thứ ấy không phải là một, nhưng cũng không phải hoàn toàn khác biệt nhau. Mình và mẹ mình không phải là một người, nhưng không phải là hai người hoàn toàn khác biệt. Đó là một chân lý về tính tương thuộc, mọi vật nương vào nhau mà sống. Không ai có thể tồn tại biệt lập. Là mình, chúng ta đồng thời là tất cả những thứ khác. Để có mặt, để hiện hữu, chúng ta phải cùng nhau có mặt, cùng nhau hiện hữu. Đạo Bụt gọi đó là tương tức.

Trong bụng mẹ, thân ta không phải chịu nhiều căng thẳng, nên vẫn còn mềm mại, dẻo dai. Nhưng khi vừa mới chào đời, sự căng thẳng ập đến, có khi từ hơi thở đầu tiên. Để buông thư nhưng căng thẳng nơi thân, ta phải buông thư những căng thẳng nơi hơi thở. Nếu thân ta không bình an thì hơi thở ta cũng không được bình an. Khi chúng ta phát khởi được năng lượng của chánh niệm và ôm ấp được hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào ra của ta sẽ được cải thiện. Thở chánh niệm thì hơi thở trở nên êm dịu và sâu lắng hơn. Sự căng thẳng nơi hơi thở tan biến mất. Khi hơi thở đã nhẹ nhàng, mình có thể chăm sóc và làm lắng dịu hình hài. Bụt gọi đó là làm cho thân ta “an tịnh”.

Có một kinh Pali tên là Kayagatasati Sutta, tức "Kinh Niệm Thân”. Trong kinh này, Bụt dạy ta phép thực tập để buông thư từng bộ phận của cơ thể cũng như của toàn thân. Bụt dùng hình ảnh của một bác nông dân leo lên kho và đem xuống một bao đựng đủ các loại hạt. Bác nông dân mở đầu bao và để các loại hạt tuôn ra. Với đôi mắt còn rất tinh tường, bác có khả năng phân biệt được các loại hạt và thấy được đây là đậy xanh, đây là đậu ngự, v.v... Bụt khuyên ta hãy học cách chú tâm như bác nông dân nọ.

Trước hết, bạn hãy nằm trong tư thế thoải mái, chú ý đến toàn thân, sau đó tuần tự xem xét từng bộ phận một của cơ thể. Bắt đầu từ đầu hay tóc trên đầu lần lượt xuống đến các ngón chân. Bạn có thể nói: “Thở vào, tôi đang ý thức về bộ óc của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với bộ óc của tôi”. Tiếp tục như thế cho đến khi nhận diện được hết các bộ phận trong cơ thể. Như người nông dân đang xem xét các hạt đậu, bạn hãy chiếu soi từng cơ phần cơ thể mình, không phải bằng quang tuyến X, mà bằng ánh sáng của chánh niệm. Chỉ cần mười lăm phút, từ từ bạn có thể soi chiếu toàn thân với năng lượng của chánh niệm.

Khi một bộ phận trong cơ thể được nhận diện và ôm ấp bởi năng lượng chánh niệm, tỉnh giác, bộ phận ấy dần dần thư giãn ra, và sự căng thẳng được lắng dịu. Thế nên mỉm cười là cách tốt nhất để giúp cho thân thư giãn. Nụ cười thuở ban sơ trong bụng mẹ hẳn là những nụ cười hết sức thoải mái. Trên mặt ta có hàng trăm bắp thịt, mỗi lần giận hay sợ, những bắp thịt này bị căng thẳng rất nhiều. Nhưng nếu ta biết thở; thở vào để nhận diện các bắp thịt trên mặt, thở ra mỉm cười với chúng, ta có thể giúp chúng thư giãn rất nhiều. Với một hơi thở vào, và một hơi thở ra, khuôn mặt ta đã có thể được biến đổi. Mỗi nụ cười có thể đem đến một phép lạ.

Nếu trong lúc đang soi chiếu, có một bộ phận nào đó của cơ thể bị bệnh hay đau nhức, ta hãy tập trung tâm ý lâu hơn ở đó. Ta có khuynh hướng vội vàng đi phớt qua những chỗ đau. Nhưng vội vàng như thế chỉ làm gia tăng căng thẳng chứ không giúp làm cho những nơi ấy được êm dịu và chữa trị. Nếu ta biết dành thì giờ cho những chỗ đau, ôm ấp những nơi ấy với năng lượng chánh niệm, mỉm cười với chỗ đau, thì sự căng thẳng sẽ giảm được nhiều. Làm được như thế, chỗ đau sẽ rất chóng lành.

Có thể thân mình đang đau nhức lắm. Chánh niệm giúp mình nhận diện được đây chỉ là cái đau nhức của thân. Bụt có dạy về mũi tên thứ hai qua câu chuyện một người bị tên bắn rất đau. Giả sử có một mũi tên thứ hai lại bắn đúng vào ngay chỗ đó. Sự đau đớn hẳn phải tăng lên gấp cả trăm lần, vì người này đã bị thương sẵn. Đã bị thương rồi mà còn lo lắng, sợ hãi, cường điệu hóa, tức giận về hành động gây ra thương tích, thì có khác nào rước thêm một mũi tên thứ hai khiến cho vết thương càng thêm trầm trọng. Vậy nếu bạn đã bị trúng tên rồi, hãy thực tập chánh niệm để cho mũi tên của lo lắng, sợ hãi... không đến cắm trúng vào nơi thương tích.

Trong “Kinh Niệm Thân”, Bụt khuyên ta hãy ý thức rõ về sự có mặt của tứ đại nơi thân ta. Trong bụng mẹ, bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa này hoàn toàn quân bình. Bà mẹ điều hòa cho cái thai, cung cấp dưỡng khí, thức ăn trong khi đứa con nằm nghỉ ngơi trong dung dịch nước. Khi được sinh ra, nếu có sự điều hòa trong bốn đại thì sức khỏe của mình rất tốt. Nhưng thường thì các yếu tố không được quân bình; chúng ta lạnh không sao ấm nổi, hoặc không thở được cho tròn. Bằng hơi thở chánh niệm, ta có thể tái lập lại quân bình một cách tự nhiên giữa các yếu tố này một cách tự nhiên

Bụt cũng có dạy ta hãy ý thức rõ về tư thế và hoạt động của thân. Trong khi ngồi thiền, cái đầu tiên phải ý thức rõ là mình đang ở trong tư thế ngồi thiền. Rồi sau đó ta có thể ngồi cách nào cho được an tịnh, vững chãi và khỏe khoắn. Trong mỗi phút giây, ta có thể nhận diện được tư thế của thân, dù đang ngồi, đi, đứng hay nằm. Ta có thể ý thức rõ về các hoạt động của ta, như đang đứng lên, cúi xuống hay đang mặc áo. Ý thức tỉnh giác mang ta trở về với chính mình. Khi chúng ta hoàn toànchánh niệm về thân, và sống trọn vẹn bây giờ và ở đây thì chúng ta đang ở trong quê hương đích thực của mình.

BẠN CÓ BIẾT bạn có một quê hương đích thực? Câu hỏi này đặt ra cho tất cả mọi người. Ngay cả khi bạn có cảm giác mình không thuộc vào một đất nước, một dân tộc nào, không thuộc một di sản văn hóa nào, một chủng tộc nào, bạn vẫn có một quê hương đích thực để quay về. Khi bạn ở trong bụng mẹ, mình cảm thấy yên ổn. Có lúc mình mơ ước trở về chốn ấy để được an lành, bảo bọc. Nhưng giờ đây, chính trong thân thể này, mình có thể quay về.

Quê hương đích thực của mình là nơi này và ở đây. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Quê hương đích thực của mình không phải là một ý niệm trừu tượng. Đó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống với nó từng giây từng phút. Với niệm và định, các nguồn năng lượng của Bụt, bạn có thể nhận ra quê hương đích thực trong sự an trú thân tâm trong phút giây hiện tại. Không ai có thể lấy đi quê hương đích thực của mình. Người ta có thể xâm lăng chiếm cứ đất nước của mình, thậm chí nhốt mình trong tù ngục, nhưng người ta không thể nào lấy đi quê hương đích thực và sự tự do của mình.

Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình, và có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Đây là con đường Bụt đã chỉ bày cho chúng ta. Khi thở vào, ta gom hết thân tâm về một mối; ta trở thành một. Đã được trang bị với năng lượng của niệm và định rồi, ta có thể cất bước đi. Ta có được tuệ giác đây là quê hương đích thực của mình - ta thực sự có mặt trong sự sống, ta thực sự tiếp xúc với sự sống như một thực tại. Quê hương đích thực này là một thực tại chắc nịch, mình có thể sờ mó được bằng chân, bằng tay và cả bằng tâm ý.

Mình cần phải tiếp xúc cho được quê hương đích thực của mình và nhận ra quê hương đích thực của mình trong cái bây giờ và ở đây; đó là điều thiết yếu cơ bản. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Bằng hơi thở ý thức và bằng bước chân chánh niệm, mình có thể đưa tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, tâm và thân thường đi theo hai hướng khác biệt. Mình nằm trong trạng thái xao lãng, ý một đàng thân một nẻo. Thân đang mặc áo thì tâm bận rộn chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Thế nhưng giữa tâm và thân có một gạch nối: đó là hơi thở. Mình chỉ cần quay về với hơi thở, thở cho thật chánh niệm thì chẳng mấy chốc thân và tâm có thể hợp nhất. Khi thở vào, mình không nghĩ gì hết; mình chỉ chú tâm vào hơi thở vào. Tập trung tâm ý, đầu tư một trăm phần trăm thân tâm vào hơi thở vào. Hơi thở với mình là một. Sự tập trung trên hơi thở vào này là một định lực sẽ đưa thân tâm về lại với nhau trong khoảnh khắc. Và bỗng nhiên ta thấy mình đang có mặt tròn đầy, sinh động. Không còn nỗi khát khao được quay về nằm trong bụng mẹ, quay về thiên đường tuyệt hảo. Ta đã về rồi trên quê hương đích thực của mình.

(Bài tập Thiền buông thư, do Thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn để giúp làm thư giãn thân tâm. Thật sự có mặt, thật sự tỉnh giác, ta thấy mình đã trở về. Bài này được dịch từ tiếng Anh trong tờ Shambhala Sun, March 28, 2006)

Thích Nhất Hạnh

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25639)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37864)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18658)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9496)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10649)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19696)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23195)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10743)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20200)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9955)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14868)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17593)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13184)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31156)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25742)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13976)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17500)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10970)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12287)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10463)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12264)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11755)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12350)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8490)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9951)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14412)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9898)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10965)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14081)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15201)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13035)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23974)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15421)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16545)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16087)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11583)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17821)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10776)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9672)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10238)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14650)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24798)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15935)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15563)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12996)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14569)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18511)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18580)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19011)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18829)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11827)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13334)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47977)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11062)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13545)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11057)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12547)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11046)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31765)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11658)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant