Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận suy về bông hồng cài áo

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8883)
Luận suy về bông hồng cài áo

LUẬN SUY VỀ BÔNG HỒNG CÀI ÁO 

Thích Thiện Chí

Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãiViệt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ

Sở dĩ, được mến mộ, vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ. Thượng tọa đã đáp ứng nguyện vọng thiết tha ấy và khơi đúng nguồn cảm xúc sâu xa tận đáy lòng mọi người. Bằng cách diễn đạt cảm xúc tận đáy lòng của chính mình. Chắc có lẽ, ai có mẹ, cũng thương mẹ, cũng nhớ mẹ và nghĩ về mẹ như thế. Rồi cũng có điều, làm mọi người xốn xan. là mình đã lơ là, thiếu bổn phận, khi cha mẹ còn sanh tiền. Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng liêng, vô giá

Cho nên, đối với mọi người - còn mẹ hay mất mẹ, "Bông hồng cài áo" làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó, hiểu mình phải làm gì, để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng Bảy, đồng bào Việt Nam, cũng như tính đồ Phật giáo đều đi chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành, cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền được sống lâu trăm tuổi, người đã qua đời, siêu sinh thác hóa. 

Sau khi hành lễ và nguyện cầu. Từ sân chùa, tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi, vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền

Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra, cũng thể hiện cái gì đó, đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó, mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón "Bài thơ", với tà áo dài phất phơ tung gió. Trước ngực mọi người, ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng, mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc, cho thân phận mồ côi của mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chang chứa tình người mà ai đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thì người đó, đẹp nết lẫn đẹp lòng

Cho nên, hòa cùng với gió thu nhè nhẹ, mưa ngâu lất phất: mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con người trở thành hiền diệu, bởi vì ai cũng hành trai, giữ giới hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng, điểm tô thêm cái đạo đức của con người. Biểu tượng "Bông hồng cài áo" đã được Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, chủ trương thực hiện tại Việt Nam, sau khi Thượng Tọa đi du hóa tại Nhật, có ngày lễ của mẹ. Ngày ấy, mọi người cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó hay hay, nên khi về Việt Nam, Thượng Tọa đã viết bài "Hoa Hồng cài áo" và phát động "cài Hoa hồng" vào dịp Vu Lan. 

Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc. Tại sao Thượng Tọa không cho cài hoa khác. Chẳng hạn: hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ, thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ cha được trường thọ. Hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng - mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc hoa hồng chức đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ nói gì, để biện minh cho biểu tượng "Bông hồng cài áo". 

Nếu chúng ta quan sát. Chúng ta thấy cây hoa hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang năm lá nhỏ. Lá gần nụ hoa, chỉ còn ba lá nhỏ mà thôi. Năm chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tính). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống đạo đức của người phụ nữ Á Đông, và phụ nữ toàn thế giới, nói chung. 

Trước hết bàn về ngũ thường. Một người con gái, người phụ nữ, người mẹ - xứng đáng, là người giử trọn nhân cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình thương. Chính vì vậy, người con gái rất sợ đau thương, chia lìa, chết chóc. Cho nên, con gái thường thương yêu súc vật, sợ giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng, sữa là máu huyết, nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất cả. Miễn sao con được no lòng. Tình thương của mẹ thật dạt dào nên, trong 

Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn: "Mẹ thời, ăn đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con... lại còn khi ngủ, ướt mẹ nằm. khô ráo phần con... Miễn con sung sướng dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm... ". Chính cái lòng "nhân" đó, chính sự thương yêu đó, người phụ nữ, mềm mỏng, nhiều cảm tình và đã hy sinh, chịu đựng cho người khác; cho con cái của mình. 

tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có cùng tột. Người con gái, người mẹ, được mọi người quý kính vì mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã biết trau dồi "công, dung, ngôn, hạnh". Nghĩa là tự sửa đổi và sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình "tiết sạch giá trong". 

Cho nên "khuê môn bất xuất", giữ đạo làm con, học hạnh làm người. Khi về nhà chồng thì "thủ phận dâu con" kính trên nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắt được huấn dục từ nhỏ. Người con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương tự đắt. Người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn hạnh của mình. Cho nên, đối với cha mẹ, thì hiếu thảo. Đối với anh chị em thì thuận hòa. Đối với xã hội thì kính trên nhường dưới. Đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Làm vợ thì trung nghĩa

Người ta thường nói "Trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Xét ra thì quá khắt khe với phụ nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đức tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có "Nghĩa" như vậy, mới chứng tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có "Hòn Vọng Phu". Người đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi hóa đá, sự hóa đá đó, nói lên sự sắc son, nghĩa khí của người vợ, người mẹ. Cái "Nghĩa" đó là bài học giáo dục, là tình thương to lớn của người phụ nữ đối với chồng và con. Thường thì người mẹ nào thủ tiết thờ chồng, con cái trong gia đình nên danh nên phận. Người ta thường đánh giá con qua tư cách của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng". Cho nên sự trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá của con. 

Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào, cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá. Người phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa, may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ "Nội tướng" vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong nhà, đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người, phải chăng do trí của bà mẹ? 

Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ, tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàn, giáo dục khôn khéo v.v... đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái "Trí" của mẹ vậy. 

Cuối cùng là chữ "Tín". Rất quan trọng đối với phụ nữ. Người mẹ được con yêu vì cũng vì chữ tín. Nghĩa là, tư cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời nóiviệc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá qua sinh hoạtđời sống đạo đức của con người. Xưa kia, Khổng Tử thấy người ta giết lợn. 

Về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử đáp: "Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn". Đã lỡ lời, dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ, không phải tự nhiên mà được. Mà là do hấp thụ các nhân cách, đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngủ thường là đức tính cao quý mà tất cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ - để sau này truyền thụ lại cho con. Năm lá hoa hồng tượng trưng cho đức tính cao đẹp ấy. 

Khi hoa hồng có nụ. Năm chiếc lá giảm xuống còn có ba. Tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là, muốn cho tình thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ. Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời, thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói: "giọt nước trước, chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy". 

Cho nên, người mẹ muốn con mình hiếu thuận, trước hết phải làm con hiếu thuận. Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời, không muốn tự do và hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, người đàn bà đã hy sinh, đánh mất đi sự tự do của bản thân mình. Chịu nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đức gia phong. Đến khi có chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết thờ chồng nuôi con. Cho nên Tam Tòng là kết tinh cái giá trị cao quý của người đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người phụ nữ từ khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó, kết tinh thành nhựa sống, sự yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và khởi sắc trước ánh mặt trời

Hoa hồng, ngoài cái sặc sỡ của màu sắc; còn chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá, còn ba lá, để sau cùng, nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba bão táp, để rồi góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy cái cao quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con. Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên, màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã mất đi sức sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như hoa hồng không còn màu sắc. 

Bởi trải qua quá trình hy sinh, gian khổ. Cho nên, người mẹ dễ dàng kiệt lực. Hình ảnh chiếc hoa hồng sớm tàn phai phải chăng nói lên sự tàn phai, kiệt lực của người mẹ. Vì ai? Phải chăngchúng ta, những người con của mẹ. 

Muốn chiếc hoa hồng đừng vội khô héo, úa tàn. Chỉ cần ngâm cành hoa vào ly nước lạnh. Nước lạnh thì có chất bổ dưỡng gì. Nhưng có nó, chiếc hoa hồng thêm sức sống. Cũng vậy, tình con đối với mẹ lợt lạt, lơ là. Nhưng mẹ thiếu tình con, mẹ cũng chóng úa tàn, ủ dột. Vì vậy, rất diễm phúc cho người mẹ nào có con hiếu thảo. Người mẹ ấy sẽ sống lâu, thanh thản vui tươi một đời. Cho nên, hiếu thảo với cha mẹ là thêm sức sống cho cha mẹ. Thiếu tình thương với cha mẹ, hoặc sống không đạo đức, để cha mẹ lo âu, phiền muộn là bức tử cha mẹ - như hoa hồng thiếu nước vậy. 

Tuy nhiên, dù con có đối xử thế nào đi nữa, thì cha mẹ vẫn cưu mang. ưu hoài lo lắng về con. Suốt cuộc đời, nào phải dưỡng nuôi, tần tảo, rồi giáo dục, dựng vợ gả chồng. Đến khi gần chết, còn lo cho con, cho cháu đói no, thiếu kém. Nên cuối cùng còn để cho con di sản, gia tài. Tục ngữ Việt Nam có câu "Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Nghĩa là công ơn của cha mẹ cao lớn, bất tận. Cũng như vậy, hoa hồng dù chóng tàn phai, nhưng đài hoa luôn luôn xanh tươi rắn chắc. 

Cái khó chịu nhất của biểu tượng hoa hồng cài áo là những chiếc gai của nó. Bởi vì, nói mẹ là tình thương, là đạo đức, là... nhưng cuối cùng, những chiếc gai đó, như phá tan, làm đổ nát cái cao quý thiêng liêng về mẹ. Nhưng suy đi nghĩ lại. Chính những cái gai đó mới lột tả hết cái tình thương cao quý của mẹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, có những bà mẹ, vì quyền lợi, địa vị, danh vọng của con đã bằng tất cả mưu trí, kể cả tính độc ác để soán ngôi, tráo chúa. Vì con, mẹ cũng dám xé xác tình địch để dành chồng dành cha. Vì con, mẹ dám giết gà mổ heo để cho con được bổ dưỡng.

Cho nên Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có dạy : "Vì con miễn sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi giam cầm". Tất cả tính ích kỷ, nhỏ nhoi, độc ác, tị hiềm, thủ lợi v.v... của mẹ - là vì con. Con chó, con gà khi có con thì trở thành hung hăng. Loài súc sanh còn thế, huống chi con người. Cho nên, thật là hay, nếu chiếc hoa hồng thiếu gai, nhưng hoa hồng sẽ khó giữ được cái tươi đẹp, cái trọn vẹn của hoa hồng. Người con gái không có cứng rắn thì khó giữ được sự tinh nguyên của người con gái. 

Người mẹ thiếu đi tính ích kỷ, độc ác thì làm sao bảo vệ, nuôi dưỡng đàn con. Do đó, cái cay cú, độc hiểm mới thể hiện đức tính cao quý của mẹ, một cách trọn vẹn. Như vậy, biểu tượng "Hoa Hồng cài áo" là một biểu tượng diễn đạt hết tâm tình của người mẹ đối với con. Cho nên cứ mỗi độ Vu Lan Rằm tháng Bảy, tất cả những người con sung sướng được gắn chiếc bông hồng lên áo. Nơi đó, tim ta đang thổn thức, làm chiếc bông hồng thêm sinh động. và tình mẹ con thêm dạt dào nhớ thương. Nhưng cài hoa hồng lên áo, không có nghĩa là chỉ ca ngợi về mẹ, mà còn nhắc nhở chúng ta có hiếu với cha mẹ. Chúng ta có bổn phận phải đền đáp lại ân đức hy sinh của cha mẹ; đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục

Nhưng đền đáp bằng cách nào - chẳng thấm tháp vào đâu! Giống như hạt muối bỏ vào biển. Như hạt cát thêm vào sa mạc. Nhưng dầu sao, có làm, có thể hiện thì cũng hơn không. May mắn cho chúng ta. Chúng tagiáo lý của Đức Phật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường cao thượng và phương pháp trả hiếu trọn vẹn. Ngày lễ Vu Lan, cung thỉnh thập phương Tăng, thiết trai cúng dường - với thức ăn trăm món, trái cây trăm màu v.v... chỉ là thử thách lòng nhiệt thành của chúng tatháo gỡ, cứ thoát tâm bỏn sẻn, ích kỷ của cha mẹ khi còn sinh tiền. Cái quan trọng là chúng ta ý thức được sự hiếu đạo và thực hiện trong cuộc đời. Thông thường khi chúng ta thọ ân ai muốn đền đáp lại, ai cũng muốn trả ơn cái mình đã thọ. Nếu khôngđạo Phật thì chúng ta khó thể hiện được điều nầy. Bởi vì, công ơn cha mẹ cao như trời biển. Nhưng để đối lại cái đạo đức, cái khắc kỷ "ngũ thường" của cha mẹ, chúng ta giữ "ngũ giới" của Phật giáo

Cha mẹ mong cho chúng ta nên người, thành người đạo đức cho nên suốt cuộc đời người đã nhẫn chịu khuôn phép đạo đức; của tổ tông, trui luyện đúng nhân phẩm. Nay chúng ta cũng phải suốt đời giữ tròn năm giới. Sở dĩ năm giới của Phật Giáo có thể đối đãi với công ơn cha mẹ, vì năm giới của Phật Giáo xuất thế - vượt trên cái đạo đức của con người. Giữ tròn năm giới không những chúng tađạo đức của một con người, mà chúng ta còn có tình thương bao la với người, với vật mà còn thoát khỏi cái nghiệp báo luân hồi. Một khi chúng ta thoát được nghiệp quả luân hồi thì chúng ta còn cứu thoát quả khổ của cha mẹ - như gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên

Cho nên, muốn cha mẹ yên lòng không gì hơn là chúng tatình thương với muôn loài. Lục đạo chúng sanh cũng là cha mẹ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Muốn cứu rỗi cha mẹ, không gì hơn là thoát khỏi luân hồi. Người xưa có dạy :"Nhứt nhơn thành đạo, cữu huyền thăng". Cho nên giữ tròn năm giớiđáp lại năm đức của cha mẹ. Đồng thời cứu thoát cha mẹ khỏi trầm luân. Nhưng muốn hiểu và thực hành đúng năm giới đó, chúng ta phải quy y Tam Bảo. Bởi vì chỉ có Đức Phật, lời dạy của Phật, và sự hướng dẫn của chư Tăng là chơn chánh. Mẹ chúng tachúng ta mà giữ tam tòng, để tròn đức hạnh của một người mẹ. 

Chúng ta muốn tròn đức hạnh và xứng đáng là người con - không gì quý hơn là phải sống chơn chánh - bằng cách quy thuận và thực hành theo giáo huấn của Tam Bảo. Phần tự tu tự độ cho chúng ta, nhờ thế được trọn vẹn. Nhưng điều đó chỉ đáp lại công hy sinh sức nhẫn nại của cha mẹ đối với chúng ta. Chúng ta phải phát tâm thêm nữa, thương người mến vật. 

Tình thương bao la rộng lớn ấy, mới đáp lại phần nào, tình thương của cha mẹ đối với chúng ta. Cho nên hạnh lợi tha (làm lợi ích cho người khác) là công đức trọn đầy để hồi hướng cho tình thương của cha mẹ. Cha mẹ sanh tiền thương ta, muốn chúng ta sống an nhàn đạo đức, nếu chúng ta giữ tròn tam quy, ngũ giới thì đã làm cho cha mẹ vui lòng. Cha mẹ chết đi, để lại cho chúng ta gia tài sự sản. Đáp lại, làm con, chúng ta phải tìm cách siêu độ vong linh về thế giới an lành. Muốn vậy, chúng ta phải ăn chay, niệm Phật, tụng kinh v.v... mong sao cha mẹ mình về nơi an vui vĩnh viễn. Có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ tất cả nghiệp chướngcha mẹ chúng ta đã vì chúng ta mà gây tạo. 

Tóm lại, đáp lại đức hạnh của mẹ, chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Đáp lại tình thương của mẹ, chúng ta phải phát tâm tu tập

Đáp lại công ơn sanh thành và dưỡng dụclo lắng của cha mẹ, chúng ta phải cầu nguyệnhồi hướng công đức cho cha mẹ sớm về cõi Cực Lạc và để cởi bỏ nghiệp chướngcha mẹchúng ta phải đeo mang, bằng sự tu tập chứng đắcthanh tịnh của chính mình. 

Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng bổn phận làm con và Bông Hồng cài áo trọn đầy ý nghĩa.

Thích Thiện Chí

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10443)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10059)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20234)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11539)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13697)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18955)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46566)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12016)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11579)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22933)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17742)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10054)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17590)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13820)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13949)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 14991)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20181)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18152)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17271)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18054)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12618)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12732)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13315)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16906)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11402)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18198)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18508)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21247)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22012)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16772)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12493)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15249)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24394)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14156)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11548)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19535)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13304)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22702)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18901)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18365)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21513)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20461)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19931)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13967)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14931)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13726)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15039)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17132)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15191)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12752)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15796)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12884)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13044)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14947)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22514)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7073)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19254)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37441)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9069)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8561)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17777)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14811)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26915)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19820)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15205)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15389)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26705)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14483)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19558)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14524)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18567)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15827)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16258)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19287)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19645)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19831)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18544)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29695)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14504)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17673)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32286)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15213)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17226)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29636)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31367)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64543)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32681)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20129)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30690)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19823)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45811)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32475)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39211)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40310)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49969)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19032)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18470)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20596)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant