Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Ân Tam bảo

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10504)
11. Ân Tam bảo

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN TAM BẢO

Này thiện nam tử! Ân Tam Bảo, không thể nghĩ bàn. Lợi lạc chúng sanh không hề thôi dứt. Nói sơ vì sao phải biết ân Tam bảo.

Thân của chư Phật chân thiện vô lậu, do vô số kiếp tu nhân chứng được. Nghiệp quảtam giới đoạn hẳn không còn. Công đức của chư Phật, núi báu nguy nga không thể sánh, tất cả hữu tình không thể biết. Phúc đức sâu mầu giống như biển cả. Trí tuệ vô ngại đồng với hư không. Thần thông biến hóa đầy khắp thế gian. Quang minh chiếu khắp mười phương thế giới. Đây là nói về thân tướng, công đức, trí tuệdiệu dụng của Phật bảo, khiến chúng sanh được lợi ích

Tất cả chúng sanh, phiền não nghiệp chướng đều không giác biết, chìm trong bể khổ, sống chết không cùng. Tam bảo ra đời, làm đại thuyền sư hay phá dòng ái siêu thăng bờ kia. Những người có trí thảy đều chiêm ngưỡng

BỜ KIA là chỉ cho bờ niết bàn. Nói bờ này, bờ kia nhưng thật không ngoài tâm này. Tâm DÍNH MẮC là biển sanh tử. Tâm KHÔNG DÍCH MẮC là bờ niết bàn. Mọi phương tiện cầu cúng, lễ lạy, sám hối, thiền định v.v… chỉ là những phương tiện tạm thời, cốt giúp chúng sanh đủ trí tuệ, nhận ra tâm vô trụ sẵn đủ nơi mình. Sống được với tâm không dính mắc đó, chính là đến bờ kia. Không có một cõi niết bàn nào khác để ta tới lui như từ Lâm Đồng xuống Nha trang. Thấy đến, đi, ra, vào … chỉ là vọng thấy, như ngủ rồi mộng. Tất cả không ngoài tự tâm của chính mình.

Thứ mà gần như ở đời ít ai tránh khỏiái dục, được thể hiện bằng hai từ rất nên thơ “Tình yêu”. Nó là thứ đem lại cho con người nhiều lạc thú, nhưng con người vật vã khổ đau vì nó không ít. Nếu bạn có tình cảm trong lòng, tức sự dính mắc đã xuất hiện, thì một lời thương yêu hay một nụ cười của người bạn yêu, sẽ làm bạn đau khổ không ít khi nó không dành cho bạn mà cho một người khác. Nếu tình cảm của bạn chỉ là loại tình thương bình thường, mang dấu ấn từ bi hơn ái dục, tức không có sự dính mắc, thì mọi thứ … vô tư. Khổ đau và niết bàn đều do tâm dính mắc hay không dính mắc mà ra. Thành Tổ Long Thọ nói “Thế gian cùng niết bàn không hào ly phân biệt …” 

ÁI, không phải chỉ có ái dục, mà còn chỉ chung cho tất cả mọi sự yêu thích. Phật nói “Có ái sinh lo, có ái sinh sợ”. Lo và sợ là hai thứ khiến mình khổ não không ít. Ái tiền thì vất vả lao nhọc, ái dục quá độ thì sinh bệnh v.v… Ái cũng là cái nhân khiến mình dễ gây tội lỗi vô vàn. Vì thế dứt ÁI, tức chuyển ÁI thành BI, thì sanh tử chính là niết bàn.

NGƯỜI CÓ TRÍ, trong đạo là chỉ cho hàng có thể hiểu được, hành được những gì đức Phật đã nói, ngoài đời là chỉ cho hàng có tri thức, thấy được giá trị thiết thực của đạo Phật. Einstein, ông tổ của ngành vật lý hiện đại từng nói về đạo Phật như sau “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo này siêu việt khỏi một đấng thiêng liêng, tránh hết mọi giáo điềuthần học. Vì bao trùm cả thiên nhiên lẫn tâm linh, tôn giáo này phải được đặt nền tảng trên một ý niệm đạo giáo phát sinh từ những thực nghiệm của mọi sự vật thiên nhiêntâm linh, như là một sự hợp nhất đầy ý nghĩa. Đạo Phật đáp ứng được điều đó”. Đó là một trong các cách mà đây gọi là CHIÊM NGƯỠNG

1 Phật bảo 

Này thiện nam tử! Chỉ một Phật bảo, đủ 3 loại thân : 

1. Tự tánh thân : Có đại đoạn đức. Hai không đã hiển. Tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng. Tự tánh thân này vô thủy vô chung, ly tất cả tướng, tuyệt các hí luận, không thiếu khuyết, vô biên, ngưng nhiên, thường trụ. Đây là nói về pháp thân mà Phật và chúng sanh đồng có, là nói về mặt thể tánh của chúng sanh. Tánh KHÔNG mà mỗi chúng sanh đang sở hữu, chính là TỰ TÁNH THÂN này.

ĐẠI ĐOẠN ĐỨC, là cái đức có được do đoạn hết hai chướng phiền nãosở tri. Vì đoạn đến tận cùng các vi tế nhiễm ô, nên nói ĐẠI ĐOẠN. 

HAI KHÔNG là ngã khôngpháp không. Ngã không là do đoạn phiền não chướng mà có. Pháp không là do đoạn sở tri chướng mà ra. 

2. Tự thọ dụng thân : Có đại trí đức, chân thường, vô lậu. Tất cả chư Phật thảy đều đồng Ý. Có hai tướng : Một là tự thọ dụng. Hai là tha thọ dụng. Phần này là diệu dụng của chư Phật, là khả năng mà chư Phật có được. Mình cũng có khả năng đó, nhưng vì bị hai chướng phiền nãosở tri che lấp mà không sử dụng được. Như người giàu đang bị cầm trói trong NGHIỆP TẬP CHÚNG SINH, nên tuy đầy đủ diệu dụng châu báu mà chịu, không dùng gì được cho bản thân, cũng không dùng được cho người khác. Sau là nói về hai tướng Thọ dụng thân

a. Tự thọ dụng : Ba a tăng kỳ kiếp tu vạn hạnh, lợi ích an lạc cho chúng hữu tình xong, mãn tâm Thập địa, chuyển thân trụ ở cõi trời Sắc cứu cánh, vượt ngoài tam giới, ngồi nơi vô lượng vô số đại bảo liên hoaquốc độ tịnh diệu. Có vô số Bồ tát hải hội vây quanh trước sau[12] … Đây là nói về quá trình tu hành để có thân tự thọ dụng. Thân này chỉ cho khả năng tự mình thọ dụng của báu nhà mình, nên gọi là TỰ THỌ DỤNG

b. Tha thọ dụng thân : Đầy đủ 84000 tướng hảo, ở nơi tịnh độ thuyết pháp Nhất thừa, khiến các Bồ tát thọ dụng Đại thừa pháp lạc vi diệu. Tất cả Như Laigiáo hóa hàng Bồ tát Thập địahiện ra 10 loại Tha thọ dụng thân : Thân này để làm lợi ích cho chúng sanh. Thân này có thể biến hiện ra thành 10 thân, giáo hóa 10 loại Bồ tát thuộc Thập địa. Như vậy, thọ dụng thân này chính là BÁO THÂN, chỉ có tâm thức của hàng Bồ tát Thập địa mới cảm được.

NHẤT THỪA là thừa cao nhất trong các thừa. Giáo Nhất thừa nói về cảnh giới Hoa Nghiêm sự sự vô ngại. Sau là kể ra 10 loại thân, ứng cho 10 địa của Bồ tát. Đây lược bớt, chỉ nêu ra hai Địa.

. Phật thân thứ nhất ngồi ở liên hoa trăm cánh, vì Bồ tát Sơ địa thuyết trăm pháp minh môn. Bồ tát đó ngộ rồi, khởi đại thần thông, biến hóa đầy khắp trăm thế giới Phật, lợi ích an lạc vô số chúng sanh

. Phật thân thứ hai, ngồi ở liên hoa ngàn cánh vì hàng Bồ tát Nhị địa thuyết ngàn pháp minh môn. Bồ tát đó ngộ rồi, khởi đại thần thông, biến hóa đầy khắp ngàn thế giới Phật, lợi ích an lạc vô số chúng sanh

Cứ vậy lên đến Bồ tát Thập địa, có số cánh liên hoa và số pháp môn không thể nghĩ bàn, nên việc giáo hóa của hàng Bồ tát Thập địa cũng khó nghĩ bàn. 

3. Biến hóa thân : Có đại nhân đức, định thông biến hóa. Tất cả chư Phật thảy đều đồng Sự ... Đây là thân thứ ba, gọi là hóa thân, tùy cảm với chúng sanhứng hiện, như Phật với 32 tướng tốt hóa hiện độ hàng Thanh văn, cư sĩ. ĐỒNG SỰ là chư Phật ứng hiện cùng với căn nghiệp của chúng sanh để độ họ, như với người uống rượu thì đầu thai thành người uống rượu để độ họ v.v... 

Trên mỗi cánh liên hoa, có tòa kim cang dưới bồ-đề thọ vương[13] . Dưới cây bồ-đề đó, có trăm ngàn vạn không thể nói các hóa thân lớn nhỏ, phá quân ma xong, nhất thời chứng vô thượng chánh đẳng giác. Các hóa thân lớn nhỏ này, mỗi hóa thân đều đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, vì hàng Bồ tát, Nhị thừaphàm phu mà thuyết diệu pháp thuộc Tam thừa... Phần văn kinh tiếp theo đi sâu vào việc tùy nghi mà có pháp cho hàng Bồ tát, Nhị thừaphàm phu. Như với hàng Bồ tát thì thuyết lục độ vạn hạnh. Với Nhị thừa thì thuyết Tứ đế hay Thập nhị duyên sanh để họ thoát ly sanh già bệnh chết. Với hàng phàm phu thì thuyết giáo pháp thuộc Nhân, Thiên v.v… để họ có đời sống hiện tại được sung túc an vui. Tùy theo ý nguyện của mỗi người mà Bồ tát Thập địa ứng theo đó cho pháp. Các hóa thân lớn nhỏ như thế đều gọi là Biến hóa thân của Phật. 

TRÊN MỖI CÁNH LIÊN HOA… là cảnh giới Hoa Nghiêm của mười phương chư Phật. Nó là cảnh giới đòi hỏi tâm thức phải bặt hết mọi phiền não, quan niệm, định kiến, mới thấu được. Với cái trí của mình hiện nay, cảnh giới ấy trở thành siêu hình. Chẳng qua vì cái nhìn hiện nay của mình bị hạn chế trong nghiệp thức con người, nên mình không thấy được, không phải cảnh giới ấy không có. Ngay cả những cảnh giới, vẫn còn bị ràng buộc trong một tiền đề được định trước, hay phải dựa vào những giả thuyết siêu hình của ngành Vật lý hiện đại cũng như ngành Thiên văn hiện nay, mình còn chưa thể thấy, huống là những thứ phải bặt hết dòng tâm thức mới thấy được nó. Khó mà nghĩ bàn. 

Tam thân này, chỉ có hàng Bồ tát chứng được tự tâm Phật tánh mới sử dụng được. Hàng La hán không sử dụng được các loại thân này, vì chưa nhận được Phật tánh. Đây là lý do vì sao, gọi pháp Thanh vănTiểu thừa, còn pháp của hàng Bồ tátĐại thừa. Phải có được vô số hóa thân như thế cùng lúc ứng hiện giáo hóa chúng sanh, mới gọi là ĐẠI, không phải chỉ với một thân này độ được vài chục ngàn người ở thế gian. Cho nên, có khi rồi một vị với thân tướng Tiểu thừa hiện nay, lại là một trong hàng ngàn hóa thân của hàng Bồ tát Thập địa

32 thân của Quán Thế Âm chính là loại hóa thân nói đây. Tùy căn dục và trình độ của chúng sanh mà hiện hóa làm lợi ích cho họ. Hiện hóa đây không phải là nhập đồng, hay phù phép hóa hiện v.v… mà tùy loài có thân. Như độ người thì có thân người, độ La sát thì có thân La sát v.v… Kinh Lăng Nghiêm nói “Nếu có chúng sanh ưa hạnh xuất gia, giữ các giới luật, con sẽ hiện thân Tỷ kheo vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu … Nếu các chúng sanh ưa thích trị nước, chia đoán ranh ấp, con sẽ vì họ hiện thân tể quan thuyết pháp khiến cho thành tựu…”. THÀNH TỰU nói đây là khơi dậy hạt giống Phật trong chính họ. 

Vì cái trí mình bị hạn cuộc trong nghiệp thức con người, nên mình mới thấy đạo Phậttiêu cực. Theo giáo Nhất thừa, thì thứ gọi là tiêu cực trong Phật pháp chỉ là bước đầu. Nhưng nhờ đó, mới có những tích cực tốt đẹp về sau. Thế giới này sẽ đi về đâu, khi con người chỉ có tri thức mà không có đạo đức đi kèm, khi con người không hiểu được qui luật nào đang chi phối thế gian này? Nếu chỉ muốn mọi thứ tích cực, một sự tích cực bị chi phối bởi lòng tham của con người, thì thế giới này chỉ là hiện thân của khổ đau, muộn phiền và tang tóc. Cái lợi không bù nổi cái hại.

Dù đang trong bất cứ hình thức nào, một Tỷ kheo, một kẻ bần cùng, hay một vị giám đốc v.v… mỗi NIỆM từ ái trong ta, chính là MỘT HÓA THÂN của Quán Thế Âm đang lưu chuyển trong thế giới chúng sanh, để tự độ mình và độ người. NIỆM NIỆM từ ái vì người, là niệm niệm đang hành Bồ tát đạo

Này thiện nam tử! Hai loại ứng hóa thân Phật, tuy hiện diệt độ mà thân Phật này thì tương tục thường trụ. 

PHẬT BẢO nói đây, tuy nói về thân Phật, nhưng cũng chính là Phật trong mỗi chúng sinh. Nếu mình tu pháp môn Tâm địa, nhiễm ô vô minh hết, thì những hóa dụng nói trên sẽ hiển lộ

Khi ấy, 500 trưởng giả bạch Phật rằng : Bạch Thế Tôn! Như Phật đã nói, trong một Phật bảovô lượng hóa Phật đầy khắp pháp giới làm lợi ích an lạc cho chúng sanh, vậy vì nhân duyênchúng sanhthế gian không thấy Phật lại còn chịu các khổ não? Thắc mắc rất chí lý.

Phật nói : Thí như ánh sáng mặt trời phóng trăm ngàn ánh sáng soi sáng thế gian, nhưng người mù lại không thấy. Này thiện nam tử! Ý ông thế nào? Ánh sáng mặt trời có lỗi không? 

Các trưởng giả nói : Thưa không.

Phật nói : Này các nam tử! Chư Phật Như Lai thường thuyết chánh pháp, lợi lạc cho chúng hữu tình. Nhưng chúng sanh thường tạo ác nghiệp, đều không giác biết, không tâm tàm quí, với Phật pháp không thích thân cận. Các chúng sanh như vậy, tội căn sâu nặng, trải qua vô lượng kiếp không thể nghe thấy danh tự Tam bảo. Như người mù chẳng thấy ánh sánh mặt trời.

Pháp thì thường trụ, nhưng nghe được hay không là do mình. Sách thì biếu như nhau, nhưng có người thích đọc, có người lại chê. Cùng đọc một quyển sách, nhưng người thì nhận được chỗ này, người lại nhận được chỗ khác. Đó là vì tâm thức của mỗi người mỗi khác. Mình chỉ nhận được thứ gì phù hợp với tâm thức của mình. 

Một pháp Duyên khởi, nhưng tùy căn cơ mà nhận lãnh có khác nhau. Hàng Thanh văn, chỉ nhận được lý Tứ đế. Hàng Duyên giác chỉ nhận được Thập nhị duyên sanh. Hàng Bồ tát nhận được lý Tánh không-Duyên khởi. Trong phần Tánh không duyên khởi đó, tùy cấp độ tu chứng mà phần nhận hiểu lại có sai khác. Pháp bảo cũng vậy, nó vốn thường trụ, nhưng do căn nghiệp của từng người mà có người được, người không. 

“Các chúng sanh như vậy tội căn sâu nặng”, là muốn nói do tội căn sâu nặng mà dù Phật thường trụthế gian, vẫn không hay biết.

Nếu có chúng sanh cung kính Như Lai, ưa thích Đại thừa, tôn trọng Tam bảo, phải biết người này nghiệp chướng được tiêu trừ, phúc trí tăng trưởng, thành tựu thiện căn, chóng được thấy Phật, xa lìa sanh tử, sẽ chứng bồ đề.

Đây là cách để phúc trí của chúng ta được tăng trưởng, nghiệp chướng được tiêu trừ

2 Pháp bảo 

Này thiện nam tử! Như một Phật bảovô lượng Phật, Pháp bảoNhư Lai đã thuyết cũng lại như vậy. Pháp bảovô lượng nghĩa. Pháp bảo có 4 loại : Giáo pháp, lý pháp, hạnh pháp và quả pháp. Tất cả vô lậu hay phá vô minh phiền não nghiệp chướng. Thanh danh cú văn gọi là giáo pháp. Các pháp hữu vô gọi là lý pháp. Giới định tuệ hạnh, gọi là hạnh pháp. Vi, vô vi quả gọi là quả pháp. 4 loại như thế gọi là Pháp bảo. Dẫn đạo chúng sanh xuất ly sanh tử đến bờ niết bàn.

Pháp bảovô lượng nghĩa, phân thành 4 loại :

1. Giáo pháp : Chỉ cho tất cả kinh luận tạng giáoNhư Lai đã thuyết trong một đời. THANH là chỉ cho âm thanh ngữ ngôn. DANH là y nơi sự mà lập tên. CÚ VĂN là chỉ cho câu từ văn nghĩa. Những thứ này làm thành giáo pháp của Như Lai.

2. Lý pháp : Tất cả pháp ở thế gian, từ sự vật, hiện tượng cho đến con người v.v… đều là giáo thể, đều có thể lấy đó làm Phật sự. Như cây gậy của thiền sư Vân Môn v.v… Kinh Tịnh Danh nói “Có Phật độ lấy quanh minh của Phật làm Phật sự. Ở Phật quốc cực lạc thì chim, nước, rừng cây đều tuyên diệu pháp. Biển tánh Hoa Nghiêm thì đài mây lưới báu đồng diễn pháp âm v.v…”. Tất cả pháp ở thế gian không ra ngoài có và không, nên nói CÁC PHÁP HỮU VÔ ...

3. Hạnh pháp : Chỉ cho loại Pháp bảo nghiên về hạnh tu như giới định tuệ. GIỚI là những giới mà Phật tử phải giữ. Như 5 giới của người tại gia, 250 giới của Tỷ kheo v.v… ĐỊNH, chỉ cho sự bất động của tự tâm. Tâm không vui, buồn v.v… theo 6 trần là sắc, thanh v.v… thì ngay lúc đó ta có định. TUỆ là chỉ cho trí tuệ, bao gồm cả trí hữu sưtrí vô sư. Tùy mực độ an định của tâm mà có loại tuệ tương ưng.

4. Quả pháp : Có hai loại. Thuộc xuất thế, gọi là VÔ VI QUẢ. Như chỗ tâm chứng của hàng La-hán hoặc pháp giới tánh. Thuộc thế gian, gọi là HỮU VI QUẢ, là quả báo có được do tu 5 giới hay 10 thiện. Hành bố thí được phú quí, thì phú quí gọi là quả pháp. 

Này thiện nam tử! Thầy của chư Phật chính là Pháp bảo. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều y theo Pháp bảo tu hành, đoạn tất cả chướng, thành tựu bồ đề, làm lợi ích cho chúng sanh tận mé vị lai. Do nhân duyên đó, ba đời Như Lai thường cúng dường Pháp bảo ba-la-mật vi diệu, hà huống là tất cả chúng sanh chưa được giải thoát mà không cung kính Pháp bảo vi diệu

Nêu lý do vì sao phải biết ân Pháp bảo.

Này thiện nam tử! Xưa, ta từng làm nhân vương cầu pháp, vào hầm lửa lớn mà cầu chánh pháp, đoạn hẳn sanh tử, được đại bồ đề. Cho nên, Pháp bảo có thể phá trừ tất cả lao ngục giống như kim cang phá tan vạn vật. NGỤC LAO là chỉ cho nghiệp tập thói quen của chúng sanh. Chính vì những thứ đó mà mình bị trói buộc lao lư mãi trong phiền não, sanh tử. Quen ăn ớt, sẽ bị ớt trói buộc. Quen đọc kinh sẽ bị kinh trói buộc. Thứ gì thành thói quen, từ vật chất đến tinh thần, mình liền bị thứ đó trói buộc. Làm tất cả mà không bị thói quen trói buộc, chính là giải thoát

Pháp bảo có thể soi chiếu si ám của chúng sanh như mặt trời soi chiếu thế giới. Kinh luận giúp mình khai mở những thứ mình chưa biết. Y pháp tu hành, giúp mình khai mở kho báu nhà mình. 

Pháp bảo hay cứu các chúng sanh bần khổ như châu ma ni mưa xuống các báu. Chịu ứng dụng Phật pháp vào đời sống, mình sẽ thoát bần cùng và khổ não, không ở trước mắt thì tương lai. Cứ gieo nhân, đủ duyên sẽ có quả.

Pháp bảo có thể cho chúng sanh an lạc giống như thiên cổ nhạc của chư Thiên. Nghe pháp mang lại cho mình niềm an lạc. Đọc học kinh luận cũng vậy. Nhất là những kinh luận thuộc Đại thừaNhất thừa. Hỉ lạc không thể nghĩ bàn. 

Pháp bảo làm thang báu của chư thiên, vì lắng nghe chánh pháp được sanh Thiên. Tuy nói lắng nghe, nhưng phải hành cho được những thứ đã nghe đó, mới sanh thiên.

Pháp bảo là thuyền lớn bền chắc đưa chúng sanh qua biển sanh tử đến bờ niết bàn. Không nương pháp, thì không biết đâu mà tu tập, nên nói PHÁP BẢO LÀ THUYỀN LỚN …

Pháp bảo còn như Chuyển Luân Thánh Vương, phá trừ giặc phiền não tam độc. Tam độctham sân si

Pháp bảoy phục trân diệu vì phủ che các chúng sanh không biết tàm quí. Tàm quí là không biết hổ thẹn hối hận

Pháp bảo giống như giáp trụ kim cang, vì phá trừ tứ ma, chứng bồ đề. TỨ MAấm ma, phiền não ma, tử mathiên tử ma. BỒ ĐỀ, chỉ cho tâm chân thật của mình.

Pháp bảo giống như dao trí tuệ sắc bén, cắt đứt sanh tử lìa trói buộc

Pháp bảo chính là xe báu Tam thừa, chuyển tải chúng sanh ra khỏi nhà lửa. NHÀ LỬA, được dùng trong kinh Pháp Hoa để chỉ cho thế gian sanh tử

Pháp bảo giống như tất cả đèn sáng, phá trừ chỗ tối tăm của tam đồ khổ. TAM ĐỒ KHỔ, chỉ cho 3 cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

Pháp bảo giống như cung tên giáo mác, vì trấn giữ đất nước, dẹp hết oán địch. Dẹp hết phiền não sở tri, để tâm địa được an định mà phát huệ và các dụng vi diệu.

Pháp bảo giống như đạo sư trên đường hiểm nguy, vì khéo dụ chúng sanh đạt được bảo sở. BẢO SỞ là chỉ cho bờ cuối cùng mà người tu phải đến. Chính là tự tâm chân thật của chính mình, còn gọi là Phật tánh, chân như, pháp giới tánh

Này thiện nam tử! Ba đời Như Lai thuyết giảng diệu pháp có các việc khó nghĩ bàn như thế, nên nói ân Pháp bảo khó nghĩ bàn.

3 Tăng bảo 

Này thiện nam tử! Thế gianxuất thế gian có ba loại tăng :

1. Bồ tát tăng : Văn Thù Sư LợiDi Lặc … là Bồ tát tăng. Đưa ra Văn ThùDi Lặc … nhưng không phải chỉ có chư vị mới là Bồ tát tăng. Đây là muốn nói đến hàng Tăng Ni đã chứng được căn bản trí, sống được với trí vô sư của mình. Thân tuy ở thế gian mà tâm đã xuất thế gian.

2. Thanh văn tăng : Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên … là Thanh văn tăng. Tương tự, đây chỉ cho hàng tăng chúng đã chứng thánh quả La-hán.

3. Phàm phu tăng : Những vị đã thành tựu biệt giải thoát giới, là chân thiện phàm phu, đầy đủ chánh kiến, hay vì người khác diễn thuyết, khai thị các pháp thánh đạo làm lợi lạc cho chúng hữu tình, gọi là phàm phu tăng. Dù chư vị chưa được giới định vô lậu cùng với tuệ giải thoát, nhưng nếu cúng dường cho chư vị thì vẫn được phúc vô lượng. BIỆT GIẢI THOÁT GIỚI, là chỉ cho giới mà một Tỷ kheo, Tỷ kheo ni … phải thọ khi xuất gia. Tỷ kheo, 250 giới. Tỷ kheo ni, 348 giới v.v… 

ĐẦY ĐỦ CHÁNH KIẾN, là nắm vững về Nhân duyên Nhân quả, hiểu được thực tánh của thế gian.

GIỚI ĐỊNH TUỆ VÔ LẬU cùng với TUỆ GIẢI THOÁT là chỉ cho thứ mà hai loại tăng vừa nêu trên đã có.

Ba loại trên gọi là Chân thật phúc điền tăng.

PHÚC ĐIỀNruộng phước. Gọi là CHÂN THẬT PHÚC ĐIỀN vì những ruộng này, nếu chúng sinh gieo mạ vào đó, nhất định sẽ gặt được rất nhiều lúa thơm trong tương lai. “Ruộng phúc” Phật nói đây không phải chỉ có đầu tròn áo vuông là đủ mà phải có thêm nhiều duyên khác hỗ trợ : 

. Loại ruộng I, đòi hỏi phải là hàng thánh tăng chứng được căn bản trí (Phật tánh). 

. Loại ruộng II, đòi hỏi phải có thánh quả

. Loại ruộng III, đòi hỏi phải gìn giữ giới luật cẩn mật, đầy đủ chánh kiếncuối cùng là giảng nói chánh pháp, làm lợi ích cho chúng hữu tình. 

Nếu chỉ có đầu tròn áo vuông mà không có những việc đi kèm kể trên, chưa gọi là ruộng phúc chân thật

Lại có một loại gọi là phúc điền tăng. Đối với xá lợi Phậthình tượng Phật cùng các pháp chế giới của tăng thánh, sanh lòng kính tin sâu đậm, tự mình không có tà kiến, khiến người cũng được như vậy, hay diễn nói chánh pháp tán thán Nhất thừa, tin sâu nhân quả, thường phát thiện nguyện, tùy chỗ phạm lỗi của mình mà sám trừ nghiệp chướng. Phải biết lực tin Tam bảo của người này hơn hẳn các ngoại đạo trăm ngàn vạn lần, cũng hơn bốn loại Chuyển Luân Thánh Vương, hà huốngcác loại chúng sanh khác. Như hoa Uất kim, dù héo úa vẫn đẹp hơn loài hoa dại. Tỷ kheo chánh kiến cũng như vậy, vẫn hơn chúng sanh trăm ngàn vạn ức, dù hủy cấm giới cũng không hoại chánh kiến. Do nhân duyên này mà gọi là phúc điền tăng. 

Đây kể thêm một loại ruộng có thể làm phúc điền cho chúng sanh. Điều kiện của loại ruộng này không bằng 3 loại trên. Nhưng vẫn cho ra lúa thơm.

Chánh kiến đã vững, nhưng trên sự vẫn chưa hành tốt. Tức KIẾN HOAC đã trừ mà TƯ HOAC chưa xong. Tuy vậy luôn có tâm sửa lỗi, không biện minh hay bẻ quẹo kinh, luật, luận cho phù hợp với chỗ phạm giới của mình. Đó gọi là DÙ HỦY CẤM GIỚI cũng KHÔNG HOẠI CHÁNH KIẾN

NHẤT THỪA là thừa mà giáo chỉ nói về cảnh giới của tâm chân thật trong mỗi chúng sinh. Vị nào nói cho mình biết mình có tánh Phật, là đang nói về cái nhân để có cảnh giới Nhất thừa. Như kinh này đang nói về 3 thân 4 trí của Phật, chính là đang nói về cảnh giới Hoa Nghiêm, thuộc giáo Nhất thừa

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, cúng dường hàng phúc điền tăng đó, sẽ được phúc đức không cùng tận. Cúng dường ba loại Tăng bảo chân thật trước, công đức có được cũng không khác. 4 loại Tăng bảo thánh phàm đó, làm lợi ích cho chúng hữu tình không ngưng dứt, nên nói ân Tăng bảo không thể nghĩ bàn.

Cha mẹ cho thân, nhưng chỉ có thân mà không có trí để biết về những qui luật đang chi phối cuộc sống này thì đời mình sẽ lắm khổ nạn. Có khi trở lại oán cả mẹ cha. Tam bảo là cái duyên giúp mình phát huy được loại trí tuệ đó. Tam bảo dạy ta sống phù hợp với qui luật Nhân quả đang chi phối thế giơi này, để cuộc sống của ta được an lạc sung mãn, tránh tai ương hoạn nạn. Cho nên ân Tam bảo sâu rộng vô cùng

Lúc đó 500 trưởng giả bạch Phật : Bạch Thế tôn, chúng con ngày nay nghe Phật pháp âm, ngộ được Tam bảo rất lợi ích cho thế gian. Nhưng nay không biết vì nghĩa gì mà Phật Pháp Tăng được gọi là bảo? Nguyện Phật giải nói, hiển thị cho chúng hội cùng với tất cả hữu tình kính tin Tam bảo ở đời vị lai đoạn hẳn lưới nghi, được lòng tin bất hoại, tiến vào biển Tam bảo khó nghĩ bàn. 

Hỏi về ý nghĩa của từ BẢO đi sau ba từ Phật, Pháp, Tăng. BẢO có nghĩa là báu quí. BIỂN TAM BẢO KHÓ NGHĨ BÀN, là chỉ cho Tam bảo của tự tâm. Nó là TAM THÂN trong Phật bảo, là QUẢ PHÁP VÔ VI trong Pháp bảo, là BỒ TÁT TĂNG trong Tăng bảo.

Phật nói : Lành thay, Lành thay! Các thiện nam tử hỏi Như Lai về Diệu pháp thậm thâm, cũng là làm lợi lạc cho tất cả chúng hữu tình ở đời vị lai. Giống như trân bảo đệ nhất ở thế gian có đủ 10 nghĩa trang nghiêm quốc giới, làm lợi ích cho chúng hữu tình, Phật Pháp Tăng bảo cũng như vậy. Gọi là báu quí, vì Phật Pháp Tăng có 10 nghĩa như ngọc báu.

1. Kiên cố : Như báu ma ni không ai phá hoại được. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Ngoại đạo thiên ma không thể phá hoại. Không ai phá hoại được Phật Pháp Tăng bảo. Nếu thấy Phật Pháp Tăng bị phá thì đó chỉ là mặt hình tướng tạm thời. Vì tạm thời nên nó mất rồi lại hiện. Còn Phật Pháp Tăng vốn không phải ba, chính là pháp giới tánh của tất cả pháp, từ hữu tình cho đến vô tình. Pháp giới ấy không tướng, nên không ai phá hoại được.

2. Vô cấu : Báu đẹp ở thế gian trong suốt không nhơ. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Đều xa lìa phiền não trần cấu. Trong bùn mà vẫn không không tanh mùi bùn.

3. Ban lạc : Như bình đức của chư Thiên, hay cho an lạc. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy, hay cho chúng sanh sự an lạc của thế gianxuất thế gian. Sự an lạcthế gian, là chỉ cho hạnh phúc đời thường của con người về cả tinh thần lẫn vật chất. Sự an lạc xuất thế gian là chỉ cho tâm thái an lạc khi xuất ly phiền nãosở tri. Dù là thế gian hay xuất thế gian, nếu ta áp dụng đúng những gì Phật dạy vào đời sống bình nhật của mình, mình sẽ được cái quả an lạc. Đến với đạo mà không tìm thấy an lạc, là do mình hiểu không thấu về đạo Phật, mình không biết ứng dụng lời dạy của đức Phật vào đời sống hằng ngày của mình, chỉ chạy theo những thứ như cầu xin bói toán bên ngoài nên không đạt được sự an lạc của tự tâm.

4. Khó gặp : Như báu kiết tường hiếm có, khó gặp. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy, chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, ức kiếp khó gặp. Nghiệp chướng là chỉ cho những hành động hay thói quen không tốt, khiến mình có cái quả không hay. Như nghiệp giết chó, giết heo v.v… Không nói đến nghiệp giết, chỉ cần một nghiệp uống rượu, uống nghiêng trời đổ đất là đã không muốn đến chùa. Thành gặp được Phật pháp để tu là phước báu rất lớn của con người

5. Năng phá : Như báu như ý có thể phá bần cùng, Phật pháp Tăng bảo cũng vậy, có thể phá các bần khổ ở thế gian. “Muốn giàu có, phải biết bố thí, cúng dường v.v… dù ít hay nhiều”, là PHÁP BẢO. Pháp bảo đó do PHẬT BẢO nói, được TĂNG BẢO truyền lại. Nếu ứng dụng được như thế, mình sẽ có cái quả giàu sang. Nên nói Phật Pháp Tăng bảo hay phá bần khổ ở thế gian. Đó là mặt vật chất.

Về phần tâm linh, nếu áp dụng Phật pháp vào đời sống của mình, trí tuệ sẽ phát triển, là phá bỏ được sự nghèo nàn của tâm linh.

6. Uy đức : Như Chuyển Luân Vươngluân bảo, có thể hàng phục các oán. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Đầy đủ lục thần thông hàng phục tứ ma. Luân bảo là bánh xe báu. Chuyển Luân Thánh Vương nhờ có bánh xe báu này mà hàng phục được tứ phương.

7. Mãn nguyện : Như châu Mani, tùy tâm mong muốn của người mà mưa các báu. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Có thể khiến chúng sanh tu thiện nguyện được mãn đầy.

8. Trang nghiêm : Như châu báu trang nghiêm vương cung. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Trang nghiêm cung báu pháp vương bồ đề.

9. Tối diệu : Như diệu báu của chư thiên rất là vi diệu. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Vượt hẳn diệu báu tối thắng của thế gian.

10. Bất biến : Thí như vàng ròng vào lửa không bị biến hoại. Phật Pháp Tăng bảo cũng vậy. Bát phongthế gian không thể khuynh động. Phật Pháp Tăng bảo đầy đủ vô lượng thần thông biến hóa, lợi lạc hữu tình không hề ngưng dứt. Do đó, Phật pháp tăng được gọi là bảo. Bát phong là 8 thứ lợi, suy, chê, khen, khổ, lạc v.v… là những thứ khiến người đời chao đảo. Tam bảo không bị những thứ đó khuynh đảo. 

Này thiện nam tử! Ta vì các ông thuyết sơ về 4 loại ân thuộc thế và xuất thế. Các ông phải biết, tu Bồ tát hạnh nên báo 4 loại ân như thế. 

500 trưởng giả hỏi Phật : 4 loại ân đó rất khó báo. Phải tu hạnh gì mới báo ân được?

Phật nói : Này thiện nam tử! Để cầu bồ-đề có ba loại Ba-la-mật : Một, Bố thí ba-la-mật. Hai, Thân cận ba-la-mật. Ba, Chân thật ba-la-mật. [14]

1. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát tâm Vô thượng chánh giác, có thể dùng bảy báu đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới bố thí cho vô lượng chúng sanh bần khổ, bố thí như vậy gọi là Bố thí Ba-la-mật, không phải là Chân thật ba-la-mật. Đây là bố thí của cải ngoài thân.

2. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát đại bi tâm, vì cầu vô thượng chánh đẳng bồ-đề, dùng vợ con mình bố thí cho người khác tâm không lẫn tiếc, tay chân đầu tủy nảo cho đến thân mạng đều theo chỗ mong muốn của người mà bố thí, bố thí như thế gọi là Thân cận ba-la-mật, chưa gọi là Chân thật ba-la-mật. Bố thí người thân và chính bản thân mình. 

3. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát khởi tâm vô thượng bồ-đề, trụ vô sở đắc, khuyên các chúng sanh đồng phát tâm này, dùng một bài kệ bốn câu nói về pháp chân thật, thí cho một chúng sanh, khiến họ hướng về vô thượng chánh giác, gọi là Chân thật ba-la-mật.

PHÁT KHỞI TÂM VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ, là phát tâm tu Phật và bắt đầu đọc học kinh luận và tập ngồi thiền ... Nếu không ngồi thiền thì y cứ ngay tâm mà tu như pháp tu Tâm Địa Quán đã giải thích ở phần đầu kinh, như pháp Niệm Phậttổ Ấn Quang đã dạy v.v… Để chi? Để đưa tâm trở về chỗ vô sở đắc. VÔ SỞ ĐẮC là không có chỗ được. Chỉ khi thể nhập được tâm chân thật của mình, mới đạt được cái vô sở đắc đó. Đây thuộc về phần tự lợi.

KHUYÊN CÁC CHÚNG SANH ĐỒNG PHÁT TÂM NÀY thuộc lợi tha. Tức làm sao để người có duyên với mình cũng phát tâm tu Phật như mình. Dùng một bài kệ 4 câu … là một trong các phương tiện mà người tu Phật dùng để khuyến hóa tha nhân. Như các bạn đọc được những gì tôi viết đây, bỗng dưng hứng khởi phát tâm “Con sẽ tu Phật và hành Bồ tát đạo, nhưng … thong thả cho con, cho con từ từ, vừa tu vừa chơi như đức Di Lặc v.v…” thì những lời viết đây, chính là một bài kệ bốn câu nói về pháp chân thật. PHÁP CHÂN THẬT là chỉ cho Phật tánh, pháp tánh, chân tâm, tâm chân như v.v…

Hai bố thí trước chưa gọi là báo ân. Tu Chân thật ba-la-mật, mới gọi là chân thật báo 4 ân. Vì sao? Vì hai thứ trước còn tâm sở đắc, thứ chân thật sau không có sở đắc. Dùng pháp chân thật thí cho một hữu tình khiến họ phát tâm vô thượng bồ đề, thì khi người ấy chứng được bồ-đề, lúc đó họ độ chúng sanh không có cùng tận, tiếp thừa hạt giống Tam bảo không để đoạn dứt. Đó mới gọi là báo ân.

Phật nêu lý do vì sao Chân thật ba-la-mật mới có thể báo ân trọn vẹn

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh trong đời vị lai, nếu nghe được phẩm Tâm Địa Quán Báo Tứ Ân này, rồi thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép … khiến kinh được lưu truyền rộng rãi, người đó sẽ được phúc trí tăng trưởng, chư thiên bảo vệ, hiện thân không tật bệnh, thọ mệnh dài lâu. Khi mệnh chung liền được vãng sanh vào nội cung của đức Di Lặc, thấy tướng bạch hào, siêu việt sanh tử. Dự vào tam hội Long Hoa, sẽ được giải thoát, tùy ý vãng sanh mười phương tịnh độ, thấy Phật nghe pháp, nhập chánh định tụ, chóng được trí tuệ chánh đẳng chánh giác của Như Lai

Đây là Phật nói về cái quả có được khi mình chịu thọ trì, đọc tụng v.v… phẩm Báo Ân này. Tùy mức độ thực hành sâu cạn mà mình có những quả báo khác nhau, nhưng cũng loanh quanh trong những thứ Phật vừa kể trên. 

ĐỌC TỤNG là đọc và tụng phẩm kinh này. Ngày nào cũng đọc tụng thì mới đủ tác dụng có những quả báo kia. Công đức nằm trên việc đọc tụng đó. Vì sao chỉ đọc tụng mà đã có công đức. Vì đó là cách mình huân tập lời Phật dạy vào tạng thức của mình. Khi nó ăn sâu vào tiềm thức của mình, một lúc nào đó nó sẽ thành quan niệm sống của mình. 

THỌ TRÌ, trong đó có cả ý nghĩa đọc tụng, nhưng vì đã giải thích từ ĐỌC TỤNG, nên đây chỉ nói về việc thực hành khác. Một khi những việc kinh nói trở thành quan niệm sống của mình, nó sẽ trở thành hành tác của mình. Đó là cái nhân của thiện báo. Nếu nghe kinh mà làm theo tức thì, không cần phải chờ đọc tụng huân tập mới làm được, thì coi như thiện báo được gieo tức thì. Công đức có được, đương nhiên phải lớn hơn việc đọc tụng. Song phải nhớ, đọc tụng thọ trì chỉ mới là NHÂN. Tạo những NHÂN như thế thì chắc chắn phải có cái quả như thế. NHÂN mình gieo trong kiếp này, quả sẽ có sau khi gieo nhân. Nhưng cuộc sống của mình hiện tại là do những nghiệp nhân trước nữa. Nếu là BẤT ĐỊNH NGHIỆP thì việc thọ trì đọc tụng v.v… sẽ thay đổi được quả xấu trong hiện đời. Còn với ĐỊNH NGHIỆP thì ngay cả Phật [15]cũng không thể thay đổi. Phải nắm cho vững chỗ này, không thì khi đọc tụng thọ trì, nhỡ gặp tai ương hoạn nạn lại cho là đổ nghiệp. Đọc tụng thọ trì kinh điển không thêm phước báu thì thôi, không có chuyện đổ nghiệp. Nếu nghiệp xấu xảy ra, thì hoặc vì đó là định nghiệp, hoặc là nó đã giảm bớt so với báo nghiệp mình phải trả, hoặc là do lời nguyện trả nghiệp của mình. 

BẠCH HÀO là tướng lông trắng có hào quanh giữa hai chặn mày của đức Phật.

TAM HỘI LIÊN HOA, chỉ cho việc đức Di Lặc thành đạo dưới cây Long Hoa trong vườn Hoa Lâm, mở ba kỳ pháp hội, độ cho cả ba loại chúng sanh thượng, trung và hạ căn

CHÁNH ĐỊNH TỤ, là từ được dùng trong luận Đại Thừa Khởi Tín, chỉ cho hàng chúng sanhniềm tin đối với chánh pháp không còn lui sụt. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15568)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23016)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14046)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55100)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9156)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14431)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14198)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13877)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36312)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19873)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18163)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19207)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19135)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20279)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17631)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31523)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15930)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15009)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35929)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21046)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21590)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23390)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34371)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19482)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18942)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22931)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20177)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18361)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19838)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19521)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33402)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34473)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54509)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37713)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17871)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63633)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17377)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49650)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27429)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20270)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23022)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18888)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16318)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17909)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20933)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17355)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14463)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16859)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15992)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17464)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21975)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15096)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13500)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14361)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15381)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14982)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12695)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13347)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27392)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12509)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13186)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14483)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16231)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12400)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15404)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12862)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12194)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13194)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21640)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11276)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22719)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15079)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14942)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46179)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22445)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14569)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12617)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18899)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14726)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43853)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56965)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13833)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47479)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13649)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14565)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29003)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33305)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38374)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15395)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31226)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12522)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40384)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46653)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant