Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tỷ Kheo Khất Thực Nuôi Cha Mẹ Được Đức Phật Tán Thán

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8818)
Tỷ Kheo Khất Thực Nuôi Cha Mẹ Được Đức Phật Tán Thán

TỶ-KHEO KHẤT THỰC NUÔI CHA MẸ
ĐƯỢC ĐỨC PHẬT TÁN THÁN


QUẢNG TÁNH

Chuyện xảy ra lúc Đức Phật trú tại Kỳ Viên cùng các vị Tỷ-kheo. Bấy giờ tại thành Xá-vệ, có một thương nhân giàu có, của cải lên đến một trăm tám mươi triệu, người này có một cậu con trai rất đáng yêu. Một ngày nọ, cậu trai đi lên lầu, mở cửa nhìn xuống đường thấy đám đông dân chúng tay cầm hương hoa đang đi đến tinh xá Kỳ Viên để nghe Phật thuyết pháp. Thấy vậy, cậu khởi tâm muốn đi, liền truyền đem hương hoa và lễ phẩm đi đến tinh xá Kỳ Viên cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức ăn uống lên chúng Tỷ-kheo và đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên…

Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, cậu nhận thức được các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi khi hội chúng ra về, cậu nán lại xin Đức Thế Tôn cho cậu được xuất gia, thọ giới. Nhưng Đức Như Lai bảo cậu rằng Ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha mẹ. Vì thế cậu rời Kỳ Viên ra về để xin phép gia đình. Tuy nhiên, vì cậu là con trai duy nhấtcha mẹ lại quá thương con nên họ không đồng ý. Cậu liền thể hiện quyết tâm bằng cách tuyệt thực, nhịn ăn đến một tuần, cuối cùng mới được cha mẹ chấp thuận, cậu trở lại tinh xá Kỳ Viên và xin thọ giới xuất gia. Thế Tôn liền bảo một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho cậu.

Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh. Rồi vị Tỷ-kheo này suy nghĩ, phải tinh tấn nhiều hơn nữa để đạt cứu cánh của thiền định, thành tựu mục tiêu giải thoát sanh tử của bậc Thánh giả. Thầy liền xin phép đại chúng đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu để thực hành thiền định. Tuy vậy, vị Tỷ kheo này không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù đã tinh cần tu tập trong 12 năm liền mà tâm vẫn chưa được định tĩnh.

Cũng trong thời gian này, những biến cố tại gia đình cha mẹ của thầy lại liên tiếp xảy ra. Người thương nhân giàu có trước đây giờ trở nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng thuê cho chủ không thấy có con em gì đến thâu hoa lợi, nên đã đoạt hết của cải và bỏ trốn. Còn bọn gia nhân tôi tớ trong nhà toa rập với nhau trộm cắp hết vàng bạc rồi trốn đi. Cuối cùng hai vợ chồng người thương nhân lâm vào cảnh nợ nần đến khốn cùng, họ phải bán nhà trả nợ rồi đi lang thang hết sức khổ cực. Về sau họ phải đi ăn xin, mặc áo rách rưới và cầm chiếc bát mẻ trong tay.

Còn người con trai duy nhất của họ thì trải qua mười mấy năm sống đời xuất gia tinh chuyên thiền định nơi miền biên ải, bặt tin tức gia đình. Một hôm, có vị Trưởng lão du hành đến nơi cư trú của Tỷ-kheo, thầy tiếp đón rất ân cần. Khi được biết Trưởng lão đến từ Kỳ Viên, Tỷ-kheo hỏi thăm sức khỏe của Đức Phật cùng các vị Thánh Đại đệ tử, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ mình, một thương nhântiếng tăm ở thành Xá-vệ. Thật đau xót đến bàng hoàng, vị Tỷ-kheo biết gia đình mình bị sạt nghiệp, cả hai ông bà lão đang lâm vào tình cảnh rất thê thảm, phải đi ăn xin. Nghe xong, thầy không thể nào cầm lòng được, nước mắt chảy dài thương cho cha mẹ. Trước tình cảnh đó, Trưởng lão khuyên thầy hãy trở về phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi bóng xế tuổi già mà lâm vào hoàn cảnh quá đỗi lầm than cơ cực.

Thầy đã phát tâm xuất gia, đi theo tiếng gọi thiêng liêng để tìm cầu chân lý giải thoát nhưng cha mẹ già nơi miền viễn xứ luôn là niềm riêng, canh cánh bên lòng. Mười mấy năm trường tu tập chưa chứng đạo mà nay lại nhận được hung tin nên lòng dạ càng rối bời hơn. Vị Tỷ-kheo suy nghĩ: “Trong 12 năm liền ta tinh cần tu tập thiền định mà không thể nào đạt đạo hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí. Vậy ta có làm gì được với đời sống phạm hạnh này? Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải. Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên thiên giới”. Suy nghĩ xong, thầy quyết định trở về.

Hoàn tục, một quyết định buồn của thầy Tỷ-kheo nhưng đáng trân trọng và đáng quý; thầy trở về để phụng dưỡng cha mẹ. Vì làm sao có thể an tâm thiền định khi cha mẹ rách rưới, đói khát, lang thang nơi đầu đường xó chợ. Ít ra thì trước khi trở thành bậc Thánh giải thoát, vị Tỷ-kheo phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm của con người; phải hiếu thảo với cha mẹ bằng những việc làm thiết thực nhất để đền đáp thâm ân nuôi dưỡng sanh thành. Đức Phật cũng từng dạy, phận làm con thảo kính với cha mẹ thì công đức như trời biển đó sao?

Hôm sau vị Tỷ-kheo giả biệt núi rừng, khăn gói về xuôi, băng qua nhiều chặng đường thì tới phía sau tinh xá Kỳ Viên, nơi không xa thành Xá-vệ là mấy. Tại đó, thầy thấy hai con đường, một đường đến Kỳ Viên, một đường đi Xá-vệ để về nhà. Đứng đó, vị Tỷ-kheo liền suy nghĩ: “Ta đến viếng cha mẹ ta trước hay Đức Phật trước?”. Rồi thầy tự nhủ: “Nếu trở về thì ta sẽ luôn gặp mẹ cha, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến Đức Thế Tôn; vậy ta hãy yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe thuyết pháp, rồi ngày mai ta sẽ về thăm cha mẹ”.

Thế là vị Tỷ-kheo bước vào tinh xá Kỳ Viên lúc chiều tối. Mờ sáng hôm sau, Bậc Đạo sư trong khi thiền định quán sát nhân duyên của chúng sanh ở trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của thầy, nên khi thầy cùng các Tỷ-kheo khác đến yết kiến Thế Tôn, Ngài tán thán công đức phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi nghe thuyết pháp, vị Tỷ-kheo nghĩ: “Nếu ta trở thành người gia chủ, ta có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng Bậc Đạo sư cũng dạy: Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ, phụng dưỡng cha mẹ của mình. Cho nên, ta vẫn có thể phụng dưỡng cha mẹ mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ”. Nghĩ vậy, thầy cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình. Tuy nhiên, thầy cảm thấy xấu hổđáng trách vì sau 12 năm nỗ lực thiền định mà chưa thành tựu được đạo quả.

Sáng hôm sau, vị Tỷ-kheo rời khỏi Kỳ Viên và đi đến Xá-vệ. Trên đường đi, thầy nghĩ thầm: “Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ ta trước đây?”. Thầy thấy rằng về thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ mà không có cái gì làm quà thì thật là không phải đạo. Nghĩ vậy thầy đi khất thực cháo trước rồi lần theo dấu xưa về đến ngôi nhà cũ. Nhà thầy vẫn còn đó nhưng chủ nhân đã khác rồi. Vừa thấy cha mẹ ngồi dưới bóng râm bên cạnh bức tường của nhà mình thuở nào, thầy không cầm được nước mắt. Nào ngờ vô thường đổi thay dường như trong chớp mắt. Cảnh cũ người xưa vẫn còn đó nhưng sự thay chủ, đổi ngôi chóng vánh đến nghiệt ngã, quặn lòng.

Cha mẹ của thầy, phần vì già yếu mỏi mệt, phần vì không dám ngẩng mặt lên với đời nên không nhận ra con mình dù khoảng cách không xa. Mà cũng khó để nhận ra, vì năm xưa con trai của họ là một thư sinh công tử chân trắng, mặt trơn. Còn bây giờ vị Tỷ-kheo đầu trần chân trụi sương gió phong trần đang đứng ngay trước mặt, thật quá khác biệt với quý tử năm xưa của họ. Thầy đứng lặng câm như hóa đá. Mẹ thầy tưởng rằng đó là một Sa-môn đang chờ bố thí, liền nói: “Chúng tôi rất nghèo khổ, không có gì để bố thí cho người cả, xin người hãy chịu khó đi nơi khác nhé”. Thầy vẫn đứng yên bất động dù cho dù bà đã nhắc đến lần thứ ba. Cuối cùng như linh cảm được điều gì, bà vùng dậy chạy đến, rồi nhận ra con trai của mình liền gục xuống chân thầy mà than khóc, người cha cũng khóc theo. Bao nhiều nhớ nhung, bấy nhiêu sầu khổ đều tuôn ra hết. Thầy cũng không nén được lòng mình, bật khóc như trẻ nít rất ngon lành.

Chờ cơn xúc động đi qua, vị Tỷ-kheo nói: “Cha mẹ đừng buồn nữa, từ nay con sẽ phụng dưỡng cha mẹ”. Thế là sau khi an ủi và dâng cháo cho cha mẹ ăn rồi, thầy bảo cha mẹ ngồi đợi bên đường rồi lại ra đi khất thực đem về thức ăn về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình. Ngọ trai xong, thầy tìm nơi trú chân nghĩ ngơi và tọa thiền, không xa nơi cha mẹ ngồi. Từ đó về sau, vị Tỷ-kheo chăm sóc cha mẹ bằng cách này; thầy đem cho cha mẹ đồ ăn khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng như khăn mặt, áo mưa… mà thí chủ bố thí, và thầy còn đi khất thực nhiều lần để đủ cho 3 người ăn.

Tuy nhiên, đâu phải lúc nào cũng khất thực được dồi dào. Có những ngày thầy khất thực được rất ít, thậm chí có ngày chẳng được gì cả. Những ngày ấy, thầy đều dành hết phần ăn dâng cho cha mẹ, còn thầy chịu đói, uống nước lạnh rồi tọa thiền. Do vậy, dần dần thầy trở nên xanh xao gầy ốm. Các Tỷ-kheo khác thấy vậy bảo: “Da dẻ của bạn trước đây tươi sáng nhưng nay lại xanh xao quá, hẳn có bệnh gì?”. Thầy thật lòng đem gia cảnh hiện tại kể cho các bạn đồng tu nghe. Một thầy khác rất thương bạn nhưng cảm thấy có gì chưa ổn lắm nên nói: “Thưa hiền giả, tôi chưa từng nghe Bậc Đạo sư cho phép chúng ta phí phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ. Bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật cúng dường của thí chủ cho người thế tục”.

Nghe bạn nói vậy, vị Tỷ-kheo hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, sẵn sàng nhận mọi lỗi lầm nếu bị Thế Tôn khiển trách. Các Tỷ kheo kia thương cảm cho hoàn cảnh của bạn nhưng trong lòng bất ổn nên đem chuyện thưa với Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục.

Đức Phật liền cho gọi vị Tỷ-kheo trẻ ấy đến và hỏi:

- Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?

Thầy cúi đầu thú nhận. Rồi Bậc Đạo sư muốn ngợi khen việc làm của thầy, liền hỏi:

- Thế ông mang đồ khất thực về phụng dưỡng người thế tục nào?

- Bạch Thế Tôn, đó chính cha mẹ của con.

Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của thầy hơn nữa, Ngài bảo ba lần:

- Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ của Ta.

Vị Tỷ-kheo rất sung sướng khi được Đức Phật khích lệ làm điều hiếu hạnh đó.

Những vị xuất gia ngày nay, vị nào muốn phụng dưỡng cha mẹ các nhu cầu vật chất tối thiểu cho cuộc sống như ăn, mặc, ở… thì cung thỉnh cha mẹ lên chùa và thành tâm chăm sóc, kính thờ “những vị Phật ở đời”. Mặc dù cốt tủy của tinh thần hiếu đạo, theo kinh Tăng Chi Bộ I, là: “Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha” nhưng phụng dưỡng cha mẹ về vật chất, việc dễ làm và thiết thực nhất, luôn được Thế Tôn tán thán, khích lệ.

(Kể theo kinh Tiểu Bộ X, Chuyện hiếu tử Sàma)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10103)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10503)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10121)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20340)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11641)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13776)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19085)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46679)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12082)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11649)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23036)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17822)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10134)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17729)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14029)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15103)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20261)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18251)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17370)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18156)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12700)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12819)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13394)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17002)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18266)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18566)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21341)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22107)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16837)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12547)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15317)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24555)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14211)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11628)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19674)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13404)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22790)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18986)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18446)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21608)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20524)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19996)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14043)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15000)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13784)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15095)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17228)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15284)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12807)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15863)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12968)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13127)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15012)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22611)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7140)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19345)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37649)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9156)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8648)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17865)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14854)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27016)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19909)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15248)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15474)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26772)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14554)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19677)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14615)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18645)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15916)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16333)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19348)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19719)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19887)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18599)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29780)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14555)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17743)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32398)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15248)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17285)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29732)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31501)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64678)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32785)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20207)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18492)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30786)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19900)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45881)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32569)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39327)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40418)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50093)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19087)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18542)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20682)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant