Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu Lan Huế

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9696)
Vu Lan Huế

VU LAN HUẾ
Thái Kim Lan

Khi mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lỉm trong lòng sông Hương nơi khúc quành chùa Linh Mụ, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ

blankMưa trút xuống bên tê Bãng Lãng Nguyệt Biều, lùa mây từ triền núi Trường Sơn mờ mịt quyện đồi Hà Khê, theo gió chới với trên hàng cau bên ni sông làng Xuân Hòa, sau đó không lâu, màu xanh từ đồi Thọ Cương đến vườn Kim Long, Linh Mụ, Hương Hồ, Văn Thánh bập bềnh trong màn nước, cả vùng không gian sông núi choáng ngợp trong màu hồ thủy. Từ bên ni bờ sông nhìn vọng qua màn mưa về phía núi, đỉnh Kim Phụng chập chờn lung linh như đầu một con rồng thần thoại đang dùng ảo thuật biến những luồng khí nóng xích tử ngùn ngụt như những con rắn lửa đang bóp nghẹt cỏ cây chết đứng thành những trận mưa rào sung mãn. Từ bến sông mưa tạt vào mái hiên từng làn hơi nước mát mẻ như những đợt sóng, mong manh thoáng gió hắt vào da thịt đang còn hừng hực nắng tháng năm tháng sáu. Sự va chạm gây một nỗi sửng sốt ngưng thần, đưa cảm xúc vào trong một bước ngoặt, nghe như có tiếng trở về của hoa lá ngoài sân! 

Mưa Ngâu thường hay kéo dài từ chiều đến quá khuya, sướt mướt như nỗi lòng của Chức Nữ nhớ Ngưu Lang trong những mùa trăng khuyết, ào ạt trên lá chuối lá lá vải lá giáng châu trong vườn cây, sầm sập trên mái nhà, nhưng âm vang nước chảy lại gây một cảm giác thoa dịu lạ lùng và giấc ngủ đầu tiên đến êm ả sau mấy tháng hè ngộp thở…

blankBuổi sáng sau cơn mưa, khí trời trong vắt như “vũ trụ choàng áo mới" (1), trong suốt đến nỗi có thể nhìn rõ được từng ngọn lá của cây nhãn cổ thụ nơi bến đò Long Thọ bên kia sông. Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm từng ngụm trong hơi đất mát rượi thoảng bên hiên. Có thể ngồi yên rồi đó! Định thần trong một giây! Hết bồn chồn cánh quạt tre phần phật! Nút áo “cổ kiềng" (2) trên cùng đã được cài cùng một lúc với thoáng gai mình chợt lạnh, nghe chân bước không gấp trên lối mòn ra ngõ nhìn sông hay lững thững quanh vườn tỉ tê thăm hoa lá. Thế rồi, giữa nhịp bước đi và dừng lại, nơi một khoảnh khắc bất định như không phải giờ của đồng hồ, có thể ngày hôm ấy hay hôm sau hay mai kia, với một chút bất ngờ có thể làm nở nụ cười toại nguyện, từ dòng sông vọng về tiếng réo rắt của một cung đàn kim cổ, âm thanh dội qua bờ bên kia rồi quay lại trên đầu những dợn sóng lăn tăn, đuổi theo con thuyền đang thong thả tay chèo ngược dòng Hương Giang lên điện Hòn Chén. Con thuyền lướt trên vùng nước bàng bạc màu xanh lục thủy trông khác ngày thường, không còn xuôi ngược tảo tần như mọi khi, mà thong dong như một gã tài tử lỏng buông tay khấu, với những chuỗi phướn xanh đỏ đủ màu phất phơ trước gió và cạp điều thắt lưng, lọng vàng sáng chói, trông ngoạn mục giữa cảnh đất trời u mặc sau cơn mưa. Cũng trong không gian mộc mạc không lời của trời mây cây cỏ trong đáy nước, âm giai nhị hồ, nguyệt cầm, sáo trúc, kèn và trống chầu văn chỏi lên những tấu khúc lạ lẫm như của những tay chơi ngoại cuộc hào hoa, kích động một thớ giây thần kinh nào đó trong cơ thể, lóe sáng trong tim một ánh vui như màu hồng sen cánh gián của hoa đông lan đang lấp ló trong khóm lá xanh bết bùn của trận mưa ngâu trước ngõ. Nhịp chân của ai đó trên đường đi bỗng dừng lại nửa giây, như để đưa đà vọt lên cao trong một vũ điệu giật gân, cùng lúc với cái ngảnh đầu nhìn ra sông thu nhận con thuyền trẩy hội đang chuyển động trong võng mô.

Hình như hàng năm, nghi lễ không gianthời gian vẫn là những vết xe quay tròn một chu kỳ, chỉ có cơn mưa, dù đã nghìn năm cổ độ, cũng như tiếng đàn vọng từ bách thiên vạn kiếp tuy đến đúng hẹn mà vẫn đột ngột, bất ngờ gây cảm, đánh nhẹ trên phím đàn bỏ quên ngày tháng, nhắc nhở lòng người rằng, từ đây cho đến khi mảnh trăng thượng tuần mới mẻ xuất hiện cùng với sao hôm là Huế đang ở trong thượng tuần tháng bảy, mùa Vu Lan đang đến! Mỗi năm và mấy mươi năm sau, vẫn mưa ngoài ngõ, vẫn tiếng đàn réo rắt trên sông vào một chiều bãng lãng với con trăng thượng tuần treo nơi đầu núi, Vu Lan Huế!

Vu Lan Huế đã đến trong tuổi thơ của tôi như thế, trong bầu trời tháng bảy của vùng đất Linh Mụ cùng với bóng dáng thân thiết vào ra của bà và của mẹ trên các lối đi về. 

blank
Cùng với tiếng mưa và âm vang của đàn sáo trên sông, câu chuyện cổ tích ban đêm không còn khúc khích với “con trâu cười con cọp đến rụng hết cả hàm răng”, với “nắm xôi Bờm cười”, với “bắt cô trói cột” hay “trâu cột ghét trâu ăn”… Áp đầu vào ngực của bà, nghe giọng kể chuyện trầm đều dần dà đượm vẻ huyền bí mủi lòng với hồn ma Cúc Hoa thương con hiện về bắt chí cho con bên mộ trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, hay ấm áp sùng thượng cảm kích với tấm lòng chí hiếu của Mục Kiền Liên nguyện đi cứu mẹ từ hỏa ngục. Trong cơn mộng mị, chiếc thuyền ngũ sắc trôi bồng bềnh giữa tiếng hoà tấu ngũ âm theo với giòng mưa, đong đưa như một chiếc võng, có thể “trôi” trên đất liền và “đi” bộ trên sông! Vũ trụ không còn hạn hẹp mà mở ra với nhiều tầng thế giới. Nhân gianđịa ngục chỉ cách nhau một nét chập chờn giữa ánh trăng và bóng lá, không thế giới nào thực hơn thế giới nào…

Mấy nghìn năm thuở trước thời Đức Phật mà như mới hôm qua… Mấy tầng thế giới như vừa xích lại gần nhau… bằng tấm lòng THƯƠNG MẸ của Mục Kiền Liên Bồ Tát, một trong những đệ tử gần gũi nhất của Đức Phật, có thiên khiếu nhìn thấu suốt mấy cõi trời, bằng con mắt có thể vén màn vô minh đã nhìn được mẹ đang bị trừng phạt trong chốn A tì. Mục Kiền Liên đi tìm mẹ, một “vong nhân” vì đã sống thiếu lòng nhân ái nên bị đày đọa trong chốn địa ngục tối tăm. Mục Kiền Liên đi vào điạ ngục cũng không khác chi một Orphée (3) của thần thoại Hy Lạp đi tìm người yêu trong cõi chết hay một nghệ sĩ ôm đàn lang thang muôn kiếp qua nhiều cõi ngân hà để một ngày vào độ trăng rằm chay đàn cứu độ những kẻ đọa đày trở lại làm người trên thế gian. Cũng thế, chiếc bồn tên gọi là Vu Lan Bồn – cái chậu chứa đựng những định lực tu chứng thâm hậu nhất của những đệ tử Đức Phật có thể giúp chuyển nghiệp ác của một ngạ quỉ sang nghiệp lành của một con người – có mãnh lực cũng chẳng khác chi tiếng sáo của Orphee dẫn đường cho Euride trở lại thế gian hay tiếng trống chầu văn của nghệ nhân trên điện Hòn Chén đưa người đồng xuất thần nhập cốt. Vạn vật hoà đồng trong một vũ trụ không có phân ranh, “ở vào chốn không vang đi vào chón không phương… để chơi bên miền không mối, ra vào chỗ không bờ cõi …” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn hoá, 1994, chương XI, “Tại Hựu”, tr. 260 

Thế giới Vu Lan đã mở ra trong trí tưởng trẻ thơ của tôi từ những mảnh cảm thức trực quan như thế, nhưng cũng từ đó, không cần giải thích thêm, đứa trẻ đã sốngVu Lan, đã hiểu được qua Vu Lan chữ HIẾU gắn liền với chữ THƯƠNG, không hạn hẹp mà rộng mở cho vô lượng chúng sinh: “tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”. Không cần mở trang sách giáo khoa thư vỡ lòng “tháng giêng là tháng ăn chơi...” cho đến tháng bảy ngày rằm… Vu Lan cũng đã được cảm nhận như là một ngày lễ hội tôn giáo trong năm rất gần gũi với con người, gần gũi như tình mẹ thương con, con thương mẹ, như mưa ngoài sông, như trăng lên đầu ngõ, như tiếng nhạc lạ lùng trên sóng nước. Nhưng Vu Lan cũng đồng thời là CƠ HỘI SIÊU THOÁT của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hoá để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình con người có thể “xá tội vong nhân”, - “xá tội” chứ không “rửa tội” – vong nhân vô lượngmê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian. Ý nghĩa của ngày Vu Lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh, tưởng như sẽ không thấu hiểu hết được đối với những trí óc còn non nớt thơ sinh hay ngu muội, nhưng có lẽ sự diệu kỳ của bước chuyển hóa “xá tội đổi nghiệp”, đổi nghiệp “bát cơm lửa” thành nghiệp “bát cơm lành” không nằm trên bờ luận lý phân chia, mà ở nơi một tiếng đàn đang rơi xuống mặt nước sông Hương, bỗng hoá nên đơn giản!

Vu Lan Huế đơn giảnhồn nhiên như con thuyền ngược giòng Hương Giang qua chùa Linh Mụ trầm tư quán tưởng rồi bỗng ca nhạc vang lừng xanh đỏ thẳng tay chèo đến điện Hòn Chén nhảy múa lên đồng, đến nỗi cái nhìn của người Phật tử chân chính, của quí ôn (ông – tiếng địa phương) quí thầy lắm khi trở nên nghiêm khắc đối với hiện tượng gần như lạc hướng này. 

Sau mấy tháng kiết hạ giữ giớichiêm nghiệm quán tưởng, rằm tháng bảy là ngày trăng tròn đầu tiên được xem là ngày giác ngộ giải phóng cho tất cả chúng sinh từ con người giới hạnh cho đến những con người tha hóa, từ con người đang sống trên thế gian cho đến những hồn ma bóng quế trong chốn ngục tù tối tăm. Ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ đầu tiên Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người. Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hoá kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu Lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng!

Cho nên lòng người náo nức niềm vui hoá kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hoá kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành !

Tôi đã sống những ngày náo nức như thế từ khi mảnh trăng thượng tuần lơ lửng trên đỉnh núi Kim Phụng mỗi ngày một tròn thêm. Có một sự chờ đợi nôn nao, như người bên ni sông chờ người bên tê sông khi chợt nhận ra chiếc thuyền thấp thoáng trong tầm nhìn. Tôi đã thấy sự háo hức của bà của mẹ, của các mợ, các dì, các cô, những người đã làm mẹ nên biết thương mẹ đậm đà, nhớ mẹ từng giây, trong những ngày từ mồng chín dến mười lăm. Họ hẹn nhau đi từng đoàn đến các chùa lạy Phật. Huế có bao nhiêu chùa thì họ đi đến bấy nhiêu, cầu nguyệnđảnh lễ Phật hầu như không mệt mỏi. Đối với họ - và về sau cũng đối với tôi - mỗi lần cúi lạy là một lần gần thêm với mẹ đã xa cách nghìn trùng, mỗi lần đem cơm cho những kẻ khốn cùng là một cơ hội chuyển chén than thành cơm trắng ngọt ngào ở nơi cõi xa nào đó chưa hề bước tới. Huế tưng bừng nơi từng gốc cây cổ thụ với các buổi cúng cơm cho vong nhân khuất mặt, những buổi cúng thị thực ngoài trời cho cả thiên thần quỉ vật. Vu Lan là một ngày lễ thánh thiện nhân ái nhất trong năm với tấm lòng tự nguyện từ bi hỉ xả cho muôn loài. 

Tôi vẫn còn nhớ nụ cười tươi rói của mợ Luân hàng năm khi kể cho tôi nghe mợ đã đi lạy Phật nơi mấy mươi chùa, và Linh Mụ sẽ là ngôi chùa cuối cùng dành cho ngày mười bốn mười lăm. Tiếng cười trong sáng bỗng trầm xuống pha lẫn chút tinh ma cấm kỵ khi mợ báo tin đã thuê thuyền vào đêm mười bốn để chị em cùng nhau lên điện Hòn Chén coi lên đồng – mà đừng “ mét” ôn Linh Mụ (Hòa thượng Đôn Hậu trụ trì chùa Linh Mụ) không thôi sợ ôn la – sáng hôm sau sẽ về lễ Phật tại chùa Linh Mụ.

Hàng năm và hàng năm đó là hành trình Vu Lan Huế. Vu Lan Huế bắt đầu bằng một nẻo đường tâm cảm huyền bí, bằng con thuyền ngược bến Linh Mụ lên điện Hòn Chén để sống những buổi lễ hoá thân như một hình thức thoát xác, chuyển hoá bằng những phút xuất thần, bằng tiếng nhạc om thòm ma quái giựt gân, một nghi lễ “chuyển bờ” từ địa ngục lên đến nhân gian, từ nhân gian lên đến cõi trời. Trong tuổi thơ, chiếc thuyền với cung đàn réo rắt đã trở nên một linh cảm về những thế giới ngoài tầm giới hạn của ba chiều không gian…

Mấy mươi năm sau trở lại Huế, đã là một Phật tử thuần thành học Phật nhiều năm, tình cờ vào dịp Vu Lan, cùng với con tôi lại ngược dòng Hương Giang – lần này trốn ôngTừ Đàm – chúng tôi đi thuyền lên điện Hòn Chén để xem lễ rước Cha rước Mẹ như mọi năm. Ấn tượng của các buổi lên đồng không còn huyền bí mê hoặc như trong thời thơ ấu, có một lúc tôi đã nghĩ điện Hòn Chén không thuộc vào ngày lễ Vu Lan đầy ý nghĩa nhân bảngiác ngộ, nếu không có cơn mưa chợt đến trong đêm. Tiếng mưa trên sông và sóng vỗ mạn thuyền nơi bến Hòn Chén hoang vu gây một âm vang kỳ diệu như tiếng chân của những người trở lại cõi trần. Từ thuyền nhìn ra thấy sông nước mênh mông một màu đen huyền hoặc, những bong bóng nhảy múa sáng lấp lánh của muôn nghìn giọt mưa vỡ ra trên sông, bỗng hiển hiện trong tâm lời kinh “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương như điển chớp”. Sáng sớm hôm sau thuyền về bến Linh Mụ khi trăng khuya chưa tàn và hồi chuông công phu buổi sáng vừa điểm. Không khí như ở nơi Niết Bàn sau những ngày quanh co trên những nẻo đường từ những cõi mộng huyển bào ảnh – với những ngụm trà ướp sói thong thả từng ngụm từng ngụm ấm và thơm, không một lời…

Trở về nhà tôi đọc cho con nghe lời của Phật trong buổi giảng cho Mục Kiền Liên :
 “Này các tỳ kheo, thượng đế cư ngụ trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Nhhững hiền triết bậc nhất cư ngụ ở trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Những thần linh bậc nhất cư ngụ nơi những gia đình có con cái kính yêu cha mẹ. Những người đáng tôn thờ cư ngụ trong những gia đình có con cái kính thương cha mẹ.

Này các tỳ kheo, “thượng đế” là danh xưng của mẹ và cha; này các tỳ kheo, những vị “hiền phụ bậc nhất”, đó là danh xưng của mẹ và cha, những “vị thánh bậc nhất”, đó là danh xưng của cha và mẹ; những “người đáng cầu khẩn tôn thờ”, đó là danh xưng của cha và mẹ. Nhưng vì lý do gì? Bởi vì, này các tỳ kheo, bởi vì cha mẹ đã làm rất nhiều cho các con. Cha mẹ là người sinh thành, là người dưỡng dục nuôi nấng, là người hướng dẫn con cái vào đời.

Kệ rằng : 
Thượng đế là mẹ cha 

Thầy đời là mẹ cha 

Mẹ cha nên thờ kính 

Mẹ cha thương muôn loài 

Hiền giả kính cha mẹ 
Dâng cúng nước và cơm 

Áo mặc và giường nằm 

Tắm rửa và xoa bóp 

Săn sóc đến tay chân 

Kẻ nào dưỡng mẹ cha 
Ở đây được ngợi ca 

Của những kẻ hiền giả 

Ở đó được hưởng phúc 

Của trời dành ban cho

(Kinh Anguttara-Nikaya, quyển IV, trang 70, bản dịch từ tiếng Phạn của Nyanatiloka, dịch từ bản Đức ngữ)

Tôi đã cùng đọc kinh với con trong khu vườn Linh Mụ, khi ngoài sông thấp thoáng con thuyền tài tử chở chiếc đàn Orphée xuôi dòng Thuận An… 

Ghi chú: 

(1) Lấy ý từ bài thơ của Hòa Thượng Mãn Giác
Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ 

Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình 

Sáng nay thức dậy choàng thay áo 

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh 

(2) Cổ kiềng: cổ áo của một loại áo ngắn như kiểu áo bà ba trong Nam, cổ áo ôm sát cổ và được may viềng nẹp như cái kiềng, người Huế gọi là áo cổ kiềng

(3) Orphée hay Orpheus: nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, là một nghệ sĩ có giọng ca và đàn ly cầm rất hay, con của nàng thơ Kalliope va Apoll, Orphée có thể dùng tiếng đàn và lời ca mê hoặc ngay cả những con thú hoang dại cũng như sỏi đá và cây cỏ. Nhờ giọng ca, Ophée thuyết phục được những vị thần ở dưới điạ ngục cho phép Eurydike người vợ thân yêu đã chết trở lại cõi trần với chàng. Trên đường đưa vợ từ địa ngục trở về, khổ thay chàng đã quên lời dặn của các vị thần không được quay sang nhìn Eurydike, không nhịn được lòng nhớ mong chàng quay sang nhìn nàng và Eurydike phải quay về địa ngục.

Thái Kim Lan
(Phật Tử Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25459)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37747)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14059)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19916)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9409)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14205)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35344)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10560)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19531)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23059)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13267)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10640)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20040)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10496)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9851)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14746)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17488)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17453)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13037)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 30946)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25480)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13876)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17378)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10866)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12167)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10360)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12140)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11631)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9528)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12224)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8370)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9854)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9664)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11884)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14249)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9813)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11109)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8215)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10881)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 13912)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9817)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12886)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 22863)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23722)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12430)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15272)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17596)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14884)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16412)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15859)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17371)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11493)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11535)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17658)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10638)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10437)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11209)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10941)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36271)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8864)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9542)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34541)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17109)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10124)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10353)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12104)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13490)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14507)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9059)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24591)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10224)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15781)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15404)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14403)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12911)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18196)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9492)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18369)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18432)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18876)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18648)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11724)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13236)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47860)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 10983)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13435)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 12922)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 10951)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12427)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 10973)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31639)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11581)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant