Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tinh thần hiếu thảo

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9889)
Tinh thần hiếu thảo

TINH THẦN HIẾU THẢO

Hoà Thượng Thích Thanh Từ

Theo phong tục Việt Nam thì ngày Rằm tháng Bảy là ngày trung nguyên, là một trong ba ngày lễ cổ truyền của dân gian. Đối với Phật giáo thì ngày Rằm tháng Bảy có nhiều ý nghĩa nên có nhiều tên: ngày chúng Tăng Tự Tứ, ngày Phật hoan hỷ, ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v.. Mỗi tên đều có mang ý nghĩa riêng của nó.

Ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày chúng Tăng Tự Tứ là thể theo sinh hoạt của Tăng đoàn thời đức Phật. Thời tiếtẤn Độ từ tháng Tư đến tháng Bảy là mùa mưa, đất ẩm ướt, trùng kiến bò lên đầy đường. Chúng Tăng đi khất thực thì dẫm đạp côn trùng làm tổn hại sinh mạng của chúng và làm tổn giảm lòng từ bi của mình, nên đức Phật dạy từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng Ni họp lại một chỗ để tu học, gọi là kiết hạ an cư: kiết là kết, tức là nguyện trước Phật và chúng Tăng suốt ba tháng ở yên một chỗ đã qui định để tu học, không ra khỏi phạm vi ấy. Đến ngày Rằm tháng Bảy làm lễ Tự Tứ: tự là mình, tứ là mặc tình, tức là qua ba tháng ở yên tu học, chư Tăng Ni đối trước những bậc trưởng thượng, cấu xin các Ngài từ bi chỉ lỗi, nếu các Ngài có thấy, nghe hay nghi mình có lỗi, để mình nhận lỗisám hối cho ba nghiệp được thanh tịnh. Tinh thấn Tự Tứ của Phật dạy rất là đặc biệt. Vì tất cả chúng ta, ai ai cũng mang cái bệnh tự cao ngã mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người, có định kiến cho mình là đúng, nên ít khi chịu nghe lời nhắc nhở xây dựng của ai, dầu người đó là bậc cha mẹ hay thầy bạn. Ngày Tự Tứ, Tăng Ni tự mình cầu xin bậc trưởng thượng chỉ lỗi và dạy bảo để sám hối, sửa đổi. Đó là việc làm rất hay và hữu ích cho việc tu tiến. Người lớn chỉ lỗi, người nhỏ giác ngộ nhận lỗisửa đổi thì mới thành người tốt, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh. Do đó, đức Phật rất vui, nên ngày Tự Tứ cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ.

Ví như trong một gia đình, nhân ngày giỗ tổ tiên, có một đứa con đối trước cha mẹ, anh chị thưa rằng: "Hôm nay là ngày sum họp gia đình, xin ba má, anh chị nếu thấy con, em có lỗi lầm, xin ba má, anh chị thương xót mà chỉ cho con sửa đổi để trở thành người tốt". Là bậc cha mẹ, thấy con làm như vậy có vui không? Chắc chắn là vui lắm! Cũng vậy, chư Tăng Ni đệ tử Phật biết cầu xin những bậc huynh trưởng chỉ lỗi để sửa thì đức Phật rất là hoan hỷ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc là như vậy, nhưng ngày nay vì Tăng Ni quá đông, mặc dù có thực hiện vẫn còn sơ sót.

Tại sao gọi ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan? Chữ Vu Lan dịch âm tiếng Phạn là Vu Lan Bồn, dịch nghĩa là giải đảo huyền. Giải là mở, đảo huyền là tội treo ngược, giải đảo huyềnthoát khỏi tội treo ngược, nghĩa là lễ cầu nguyện cho những người bị tội ở địa ngục ngạ quỷ được thoát khỏi. Có nhiều người hiểu lầm "bồn" là cái chậu, nên đến ngày Rằm tháng Bảy mua sắm hương hoa, bánh trái để vào chậu, đem đến giữa bàn Tổ cúng lạy. Hiểu và làm như thế là sai lầm. Lệ thường đến gần Rằm tháng Bảy là các chùa tổ chức tụng kinh Vu Lan để cho Phật tử báo hiếu ông bà, cha mẹ. Kinh Vu Lan kể rằng: Ngài Mục Kiền Liên tu, sau khi chứng A La Hán, Ngài muốn độ mẹ. Ngài nhớ thuở còn sinh tiền, bà đã tạo nhiều nghiệp bất thiện với người tu, nên dùng thiên nhãn quan sát xem bà thác sanh ở cõi nào, thì thấy bà sanh ở cõi ngạ quỷ đói khổ vô cùng. Động lòng từ hiếu, Ngài bèn xin một bát cơm, dùng thấn lực đưa đến dâng cho mẹ dùng. Mẹ Ngài vừa đưa tay bốc cơm ăn thì cơm hóa thành than lửa, bà ăn không được. Ngài rất thương xót nhưng không biết làm sao cứu, bèn đến cầu xin Phật từ bi chỉ dạy. Nhân ngày chúng Tăng Tự Tứ, Phật dạy Ngài sắm lễ vật thỉnh chúng Tăng cúng dường, nhò sự cầu nguyện của chúng Tăng mà mẹ Ngài được thoát kiếp ngạ quỷ. Chúng Tăng mà Phật dạy Ngài thỉnh cúng dườngcầu nguyện cho mẹ Ngài là những vị ở sơn lâm thiền định, hoặc kinh hành dưới cội cây, là bậc đắc quả A La Hán; hàng chúng Tăng này mới có đủ thần lực cứu mẹ Ngài. Ngài đã thực hành y theo lời Phật dạy, chúng Tăng cầu nguyện, mẹ Ngài thoát kiếp ngạ quỷ được sanh cõi trời.

Có phải do chúng Tăng cầu nguyện mà mẹ Ngài được sanh lên cõi trời không? Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ. Chúng Tăng không thể đưa bà Thanh Đề từ cõi ngạ quỷ lên cõi trời. Sở dĩ bà thoát được kiếp ngạ quỷ là vì xưa bà khởi tâm ác, tạo nghiệp ác nên chết mới đọa làm ngạ quỷ. Nay nhờ các bậc Thánh Tăng với tâm thanh tịnh, chí thành hướng về bà cầu nguyện, thần lực của các Ngài khiến tâm bà tương ứngchuyển tâm niệm ác thành tâm niệm thiện, nên bà được sanh về cõi trời. Ngang đây coi như Ngài Mục Kiền Liên cứu được mẹ đền được ơn sanh dưỡng, ơn hiếu nghĩa Ngài đã đền xong. Do giai thoại này mà ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày Vu Lan hay ngày báo hiếu.

Ngày nay, chúng ta theo gương hiếu của Ngài Mục Kiền Liên, thỉnh chư Tăng cúng dường để cầu siêu hay cầu an cho ông bà, cha mẹ. Việc làm của chúng ta ngày nay có được kết quả như Ngài Mục Kiền Liên không? Hiện tại chúng ta tu chưa chứng quả nên không biết ông bà, cha mẹ sanh ở cõi nào. Chư Tăng Ni ngày nay cũng chưa chứng quả A La Hán, tâm chưa thanh tịnh. Như vậy, người cúng dường và người cầu nguyện chưa hội đủ điều kiện Phật dạy, làm sao ông bà, cha mẹ được siêu thoát? Tôi nói đây không phải phủ nhận rằng sự cầu nguyện của đạo Phật, mà nói để trình bày sự thật cho mọi người thấy, và tránh những việc làm theo thông lệ mà không biết có kết quả hay không. Điều này chúng ta phải gan dạ mà nhìn để thấy được lẽ thật. Ngày nay, đa số Tăng Ni tu hành lôi thôi, Phật tử thì không biết ông bà, cha mẹ mình sanh ở đâu. Cả hai đều không thông làm sao cầu có kết quả? Tuy nhiênlòng hiếu thảo, quý vị cầu thì cầu, còn siêu hay không thì tùy theo nghiệp của người được cầu, chớ không bảo đảm, đó là lời thành thật của tôi.

Hiện tại, quý Phật tử muốn theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên thì phải làm ngay lúc cha mẹ còn sanh tiền. Nghĩa là lúc cha mẹ còn sống, chúng ta phải tạo điều kiện cho cha mẹ hiểu Phật pháp để tu hành. Nếu hiện tại cha mẹ tu, tạo nghiệp lành, khi lâm chung chắc hắn sanh cõi lành rồi, có cầu cũng dư. Nếu chúng ta không lo phụng dưỡng, không tạo cho cha mẹ diều kiện tránh dữ làm lành, khi chết mời Tăng Ni cầu nguyện cho sanh cõi lành; việc làm này thiếu thực tế e không kết quả.

Tất cả kinh sách của thánh hiền để lại đều dạy, làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, thế mà có người làm được, có người không làm được. Mọi người trên thế gian này, ai ai cũng từ tinh huyết cha mẹ mà hợp thành. Thân thể chúng ta là một phần thân thể của cha mẹ. Khi ra đời nếu chúng ta không nhờ cha mẹ nuôi dưỡng thì đã chết mất, đâu có sống và trưởng thành đến ngày nay. Thế mà khi khôn lớn có gia đình chỉ biết thương vợ con, cha mẹ thì quên mất. Trong kinh, Phật dạy tội lớn nhất là tội bất hiếu, phước lớn nhất là phước hiếu thảo. Cha mẹ là người mang nặng đẻ đau, khổ nhọc nuôi dưỡng chúng ta nên vóc nên hình. Ơn cha mẹ lớn nhất mà chúng ta quên được thì có nghĩa ơn nào chúng ta nhớ, do đó mặc tình làm việc bất nhân bất nghĩa. Ngược lại, hiếu kính cha mẹ thì cũng vui làm điều nhơn nghĩa với mọi người.

Lúc Thái Tử trốn vua cha đi tu, người đời cho ngài bất hiếu. Nhưng khi thành đạo, Ngài trở về cung thuyết pháp độ vua cha, di mẫu, hoàng tộc tu hành được an lạc, lợi ích lớn. Nếu không tu thì Ngài không làm được việc này. Ngài Mục Kiền Liên đi tu đâu có quên ơn cha mẹ, nhờ Ngài tu mới cứu được mẹ thoát kiếp ngạ quỷ. Người tu đã chứng quả hay chưa chứng quả đều là những người con có hiếu. Người đời khi lập gia đình, tình thương thường thường dồn cho vợ con, có khi quên mất cha mẹ, không nhớ lo cho cha mẹ lúc tuổi già. Ngược lại, người tu thấy cha mẹ càng già, biết không còn sống bao lâu nữa, nên lo lắng và nhắc nhở tu nhiều hơn để phút ra đi được nhẹ nhàng, an ổn và được sanh vào cõi lành.

Trong cuộc sống phải biết dung hòa với nhau, bậc làm cha mẹ phải dễ dãi cho con cháu dễ gần gũi để nó làm tròn bổn phận làm con. Phận làm con cháu phải thương kính hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Sống như vậy, gia đình mới an vui, hạnh phúc. Trong kinh, Phật có nói bài kệ về công ơn cha mẹ như sau:

Cha mẹ gọi Phạm Vương
Bậc đạo sư hiện đời

Xứng đáng được cúng dường

Vì thương đến con cháu

Do vậy người hiền triết

Kính lễtôn trọng

Thức ănthức uống

Vải mặc và giường nằm

Xoa bóp khắp thân mình

Tắm rửa cả chân tay

Với sở hành như vậy

Đối với mẹ cùng cha

Hiện đời người hiền khen

Đời sau hưởng thiện lạc

Theo triết lý Ấn Độ thì Phạm Thiên là bậc trên hết, nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phạm Thiên, và Phật là đạo sư tên đời nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phật vậy. Phật so sánh lòng hiếu kính cha mẹ ngang với lòng tôn kính Phật và lòng quý kính Phạm Thiên. Có nhiều người nghĩ rằng đi chùa cúng Phật mới có phước, nên lơ là không lo phụng dưỡng. Đó là ý nghĩ sai lầm. Ở đây, Ngài nói cha mẹ mới thật là người xứng đáng cúng dường. Có một lần, Phật đi khất thực ở một xứ mất mùa, Ngài đi cả buổi mà không có thức ăn, có một thày Tỳ kheo đổi lá y được một bát cơm dâng lên Phật, Ngài hỏi: Ngươi còn cha mẹ không?

Tỳ kheo đáp: Bạch Thế Tôn, con còn mẹ.
-- Mẹ ngươi có cơm ăn chưa?
-- Bạch Thế Tôn, con đổi lá y chỉ được một bát cơm dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn.
-- Ta không dám nhận bát cơm này, người đáng nhận bát cơm này là mẹ của ngươi. Hãy đưa cơm về cúng dường cho mẹ ngươi.

Phật phước đức vô lượng mà Ngài nói người đáng nhận bất cơm cúng dường là mẹ của người cúng dường chứ không phải là Phật. Thái độ của Phật cho chúng ta thấy Ngài rất trọng ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Như vậy, lo cho cha mẹ ấm no, tạo điều kiện cho cha mẹ tu hành mà không cúng chùa cũng có phước. Lo cúng chùa mà để cha mẹ đói lạnh, khổ sở, mắc phải tội bất hiếu, chẳng được phước bao nhiêu. Tại sao? Vì cha mẹ là người thân thiết và thương con nhất. Thế nên ai là người hiền trí thì đối với cha mẹ phải kính lễ, tôn trọng, cung phụng đầy đủ bốn món cần dùng và còn phài xoa bóp, tắm rửa cho cha mẹ nữa. Tại sao Phật dạy kỹ như vậy? Vì khi chúng ta còn nhỏ, cha mẹ đã từng làm những việc đó cho chúng ta, bây giờ cha mẹ đã già yếu, chúng ta phải chăm sóc lo lắng lại cha mẹ để đáp cái ơn sanh dưỡng sâu nặng đó vậy. Chúng ta lưu tâm chăm sóc cha mẹ là tạo nguồn an ủi cho cha mẹ được an vui lúc tuổi già, khiến tuổi thọ của cha mẹ được tăng thêm. Nếu chúng ta lơ là không nuôi dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ buồn, cha mẹ buồn mắc bệnh và mật sớm thì chúng ta phải tội bất hiếu. Ở đời cũng có những người con bất hiếu, chẳng những không nuôi dưỡng cha mẹ còn đầy đạo, đánh đập cha mẹ. Lúc tôi còn ở Chơn Không, có một ông già mù hay lên núi chặt củi. Ông có một người con trai và mấy đứa cháu nội. Con ông bắt ông phải đi chặt củi và gánh nước. Hôm nào ông không gánh nước là nó không cho ăn cơm. Nếu ông cãi lại thì nó đánh ông bằng roi mây. Xóm giềng ai thấy cũng bất nhẫn. Nhưng truy nguyên ra thì trước đây ông cũng từng đánh cha ông bằng roi mây! Như vậy, đối với cha mẹ, chúng ta tàn nhẫn bao nhiêu thì con nó trả lại bấy nhiêu. Do đó, chớ bảo con cháu hiếu thảo với mình, mà mình phải có hiếu với cha mẹ trước, con cháu mới bắt chước làm theo. Mình bảo con cháu hiếu thảo với mình mà mình bất hiếu với cha mẹ, làm sao con cháu hiếu thảo với mình được!

Vậy muốn thành người tốt, vừa tròn chữ hiếu với cha mẹ, vừa được người hiền trí quý trọng trong hiện tại và hưởng phước lạc ở mai sau, vừa được con cháu hiếu kính với mình thì phải hiếu thảo với cha mẹ để làm gương, vì đây là nền tảng đạo đức. Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc cho cha mẹ được no ấm an vui. Nếu phụng dưỡng cha mẹ no ấm rồi mà cha mẹ chưa biết tu thì phải khéo khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành, quy y Tam Bảo, giữ năm giới, làm điều phước thiện cho cha mẹ có đủ công đức, khi nhắm mắt sanh vào cõi lành. Đó là điều thiết thực nên làm, bảo đảm kết quả tốt.

Nhân ngày Vu Lan Tự Tứ, chúng tôi mong tất cả quý Phật tử ứng dụng ý nghĩa của ngày này qua hai lĩnh vực: Thứ nhất là lấy tinh thần Tự Tứ của chúng Tăng Ni ứng dụng trong cuộc sống của mình, tức là tập nghe và nhận lời khuyên răn nhắc nhở của người lớn để sửa chữa lỗi lầm để trở thành người tốt. Thứ hai là noi theo gương hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên mà hiếu kính cha mẹ. Nếu cha mẹ còn tại thế thì chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ no ấm, và nếu cha mẹ chưa biết tu thì khéo nhắc nhở cho cha mẹ làm lành lánh dữ để sau sanh vào cõi lành. Nếu cha mẹ đã qua đời rồi thì chính mình thành tâm cầu nguyện và thỉnh Tăng Ni nguyện phụ, kết quả được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

Thích Thanh Từ (1997)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25591)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37841)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19531)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18619)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14216)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35525)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10634)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19658)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10733)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20173)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10583)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9932)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14844)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17627)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17567)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31109)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25698)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13958)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10944)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12242)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11737)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9166)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9930)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11189)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8285)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14057)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9880)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15176)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13017)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23938)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12539)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15406)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15026)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16523)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16022)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17575)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10504)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12059)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36366)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9648)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17233)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10447)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12180)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14626)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10298)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15913)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15546)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14485)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14543)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18320)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18497)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18556)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18990)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11799)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47953)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11038)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13529)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13013)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant