Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm hiểu về Vu Lan

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10283)
Tìm hiểu về Vu Lan

TÌM HIỂU VỀ VU LAN

Thích Nguyên Hiền

Nói đến Vu-lan, ý người viết muốn nói về những kinh điển liên quan đến ý nghĩa Vu-lan, bao gồm những chú sớ, trước thuật của lịch đại Tổ sư đã dày công biên soạn và đã được xếp vào Đại Tạng cũng như Tục Tạng Kinh. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một bài viết sơ lược trong khuôn khổ một đặc san, với những tài liệu khiêm tốn mà người viết được đọc. Hơn nữa, những trước tác của các Tổ sư qua nhiều đời về Kinh Vu-lan-bồn quá nhiều (hơn 60 loại), không thể đối chiếu hết được, chỉ xin chọn một vài tác phẩm quan trọng để dẫn chứng. Ngưỡng mong các bậc cao minh thùy từ chỉ giáo. 

I. Tổng luận

Kinh Vu-lan-bồn chỉ là một kinh điển nhỏ thuộc Phương Đẳng bộ, vỏn vẹn chưa đầy một trang giấ鹠trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH, quyển 16. Thế nhưng qua các triều đạiTrung Quốc, từ Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến đời Dân Quốc, đời nào cũng có chư Tổ trước thuật, chú sớ, luận giải bản kinh này, đủ thấy tầm quan trọng của bộ kinh đối với tín ngưỡng Phật giáo như thế nào. Ở Việt Nam, Kinh Vu-lan và Kinh Báo Hiếu được diễn dịch khá sáng tạo, đã đi vào lòng Phật tử như một thứ TÂM KINH mà gần như ai thường xuyên đi chùa tụng kinh lễ Phật đều ít nhiều thuộc lòng bản kinh này. Lễ Vu-lan tự nhiên đã trở thành một lễ hội lớn nhất của giới Phật giáoViệt Nam, do đó việc tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa Kinh Vu-lan là một việc làm cần thiết. Hiện chưa có vị nào dịch một bộ sớ nào về Vu-lan để phổ cập cho Phật tử hiểu, đây cũng là một thiếu sót rất lớn. Sự diễn dịch sáng tạo Kinh Vu-lan và Báo Hiếu mà các chùa ở Việt Nam hiện nay đang tụng đọc vào dịp tháng Bảy theo thể văn vần, dễ hiểu, gần gũi với tâm hồn Việt. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc gieo vần, nhiều chỗ trong bản dịch vẫn còn dùng từ Hán Việt quá hàm súc mà giới bình dân khó hiểu được, như "cửu tự cù lao", "hiếu hạnh vi tiên", "thần tỉnh mộ khan" v.v... Điểm thứ hai là toàn bộ kinh chỉ giúp cho người đọc tụng hiểu chữ HIẾU ở phạm vi Nhân thừa, chưa phát huy hết được thâm nghĩa Đại thừa siêu tuyệt của bản kinh nói chung và ý nghĩa của những chi tiết quan trọng trong kinh. 

Kinh Vu-lan-bồn (Phạn : Ullambana-sùtra), 1 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch sang Hán văn vào đời Tây Tấn (750 - 801). Nội dung thuật lại việc đệ tử của Phật là ngài Mục-kiền-liên (Phạn : Maudgalyàyana; Pàli : Moggallàna) xót thương cho mẹ đang bị khổ ở đường ngạ quỷ, nên mới hỏi Phật. Phật chỉ dạy vào ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ của chúng tăng, dùng bá vị cơm canh, ngũ quả để cúng dường mười phương chư PhậtTăng chúng, có thể cứu mẹ thoát khổ nạn.

Hội Vu-lan-bồn mà kinh này nói vốn phù hợp với bổn phận hiếu hạnh của thế gian. Ngài Tông Mật, vị Tổ thứ 5 của tông Hoa Nghiêm đời Tống đã cường điệu tư tưởng làm con hiếu phải báo ân cha mẹ, dung hòa tính chất tương quan giữa Phật giáoluân lý thế gian của người Trung Quốc, vốn lấy Nho gia làm nền tảng. Từ đó kinh này có tác dụng khá tích cực và được lưu truyền vô cùng rộng rãi.

Đồng bản dị dịch (cùng bản Phạn nhưng khác người dịch) với kinh này là Báo Ân Phụng Bồn Kinh (còn gọi là Báo Tượng Công Đức Kinh), không rõ dịch giả là ai. Kinh Đại Bồn Tịnh Độ được thuật trong PHÁP UYỂN CHÂU LÂM quyển 62 cũng là dị bản của kinh này. Các bộ mục lục lớn như LỊCH ĐẠI TAM BẢO KỶ quyển 6, VÕ CHU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC quyển 9, KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC quyển 2 đều cho rằng dịch giả của kinh này là Trúc Pháp Hộ, nhưng cũng có thuyết cho rằng kinh này là ngụy tạo, vì nói nội dung và sự phiên dịch trong bản kinh thường không chính xác. XUẤT TAM TẠNG KÝ TẬP thì cho rằng kinh này không rõ dịch giả.

Thế nhưng, ở Ấn Độ từ xưa đã có tín ngưỡng tin cái khổ "đảo huyền" ở địa ngục, không thể võ đoán kinh này là ngụy tạo. Nếu so sánh kinh văn và một số dị bản thì có thể dịch giả đã thêm vào một số câu trong bản dịch. Điều này cũng thường thấy trong một số bản dịch các kinh khác, dịch giả đã đưa một số chi tiết phù hợp với tín ngưỡngtư tưởng của địa phương đương thời, miễn là vẫn giữ được tinh thần cốt tủy trong văn kinh.

II. Nguồn gốc chữ Vu-lan-bồn

Việt Nam gần đây có một số sách báo chỉ ra sự sai lầm căn để của một vài cách hiểu chữ Vu-lan-bồn. Đại loại từ trước, ở Việt Nam, nhiều người hiểu chữ "bồn" có nghĩa là cái chậu; "bồn bát" là vật của Tỳ-kheo dùng để đựng thức ăn. Nhiều người đã lớn tiếng công kích và trích dẫn Phạn văn để chứng minh chữ "bồn" cũng là âm dịch trong ba chữ Vu-lan-bồn chứ không phải là cái chậu. Thật ra, sự sai lầm này không phải ở các dịch giả Việt Nam, mà chính từ xưa ở Trung Hoa đã có cách hiểu như vậy rồi.

Vu-lan-bồn là phiên âm từ chữ Phạn Ullambana, có chỗ phiên âm là Ô-lam-bà-noa, nếu dịch ý thì có nghĩa là "Đảo huyền" (cái khổ bị treo ngược). Thật ra, Ullambana là một chuyển ngữ của Avalambana, dụ cho cái khổ của người chết hết sức khó chịu, giống như người bị treo ngược lên vậy. Các bộ sách lớn của Trung Quốc như PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP quyển 9, THÍCH THỊ YẾU LÃM quyển hạ, VU-LAN-BỒN KINH LƯỢC SỚ... đều cho rằng chữ Vu-lan Bồn là phiên âm sai. Bởi vì chữ "bồn" là phiên âm từ chữ "bana" của tiếng Phạn chứ không phải nghĩa "bồn bát" – "dùng bồn bát bằng thất bảo để cúng Phật và Tăng" – như PHÁP UYỂN CHÂU LÂM đã trích dẫn để giải thích ĐẠI BỒN TỊNH ĐỘ KINH, nhưng trải qua nhiều đời, phần nhiều đều viện dẫn nghĩa này một cách sai lầm mà không để ý đến những trích dẫn đã nói ở trên.

Bắt đầu từ tác phẩm VU-LAN-BỒN KINH TÁN THUẬT của ngài Huệ Tịch đời Đường. Ngài cho rằng đặt các trân hào mỹ vị vào trong một cái chậu, rồi dâng cúng cho Phật cùng Tăng để cứu cái khổ "Đảo huyền". Ngài Tông Mật giải thích trong VU-LAN BỒN KINH SỚ quyển hạ rằng Vu-lan nghĩa là Đảo huyền, còn "bồn" là đồ để cứu giúp, cho nên giải thích Vu-lan Bồn là "Cứu đảo huyền, giải thống khổ". Từ cách giải thích này của ngài Tông Mật, đời sau đều y theo đó để hiểu chữ Vu-lan Bồn.

Còn trong VU-LAN BỒN KINH SỚ HIẾU HÀNH SAO quyển thượng của ngài Ngộ Vinh đời Tống thì dịch đề Kinh Vu-lan Bồn là "Giác Giả Thuyết Cứu Đảo Huyền Khí Kinh" (Bậc Giác ngộ nói về Kinh "vật để cứu cái khổ Đảo huyền"). Chữ "bồn" là cách tỉnh lược sai lầm, Cựu dịch là Bồn-tá-na; Tân dịch là Môn-tá-nẵng, tức "Cứu khí" (vật để cứu giúp), đây là cách phiên âm từ chữ mun壡na của tiếng Phạn. Mun壡na là chuyển ngữ (đọc trại) của chữ muccana tiếng Pàli và chữ mocana tiếng Phạn. Nhưng thật ra chữ này có nghĩa là "cứu giúp" chứ không có nghĩa là "đồ cứu giúp", cho nên thuyết của ngài Ngộ Vinh cũng sai lầm.

III. Nguồn gốc của lễ Vu-lan

Lễ Vu-lan hiện nay đã trở thành một lễ lớn và rất quan trọng trong tín ngưỡng các nước Phật giáo. Vậy tư tưởng này xuất phát từ đâu?

Khởi nguyên của Vu-lan-bồn rất sớm, tư tưởng này có trước cả thời Đức Phật tại thế. Trong cả hai bộ Đại sử thi của Ấn Độ cổ đại đều có thuật lại những điều liên quan đến Vu-lan-bồn. Trong chương thứ 74, phần 1 của bộ Mahàbharata nói đến từ Putra, nghĩa là người đàn ông cần phải chẩn cứu (trayate) cha mình ở dưới địa ngục (pun). Do vì ở Ấn Độ ngày xưa tin rằng nếu người đàn ông mà không có con trai nối dõi thì sau khi chết sẽ đọa vào nơi hiểm ác, cho nên một người Bà-la-môn đến 20 tuổi, sau khi học hành đầy đủ rồi phải về nhà lấy vợ, sinh con để nối dõi tông đường, lấy đó để tế cúng tổ tiên.

Còn lễ Vu-lan-bồn mà ngày nay vẫn còn duy trì trong các chùa viện Phật giáoxuất phát từ Kinh Vu-lan-bồn. Đệ tử của Phật là Mục-kiền-liên dùng Thiên nhãn thông thấy thân mẫu của mình đọa vào ngạ quỷ khổ sở, da bọc lấy xương, đêm ngày bị hành hạ liên tục. Thấy vậy, Mục Liên mới đưa bát cơm đến dâng cho mẹ, nhưng vì nghiệp báo nên bát cơm hóa thành than lửa. Vì muốn cứu thoát mẹ khỏi khổ, Mục Liên về bạch Phật để xin Ngài chỉ bày pháp giải cứu cho mẹ. Đức Phật chỉ dạy rằng vào ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ của chúng tăng, dùng bá vị thức ăn đựng trong bình bát để cúng dường Tam bảo thì sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ bảy đời quá vãng. Ở Ấn Độ từ xưa đã y theo lời dạy này mà thực hành pháp Vu-lan- bồn, như Bình Sa Vương, cư sĩ Tu-đạt, Mạt-lợi phu nhân... đã từng tạo 500 bình bát bằng vàng để cúng dường Phật và Tăng.

Trung Quốc, theo các bộ sử hiện còn thì vua Lương Võ Đế là người đầu tiên thiết cúng Vu-lan-bồn. Năm 538, nhà vua đã đến chùa Đồng Thái mở hội cúng dường Vu-lan rất lớn. Sau đó Vu-lan trở thành một phong tục, các bậc đế vương cũng như thần dân nhiều đời đều có tổ chức hội này để báo đáp ân đức của tổ tiên, cha mẹ.

Vào đời Đường, các vị vua như Đại Tông, Đức Tông hết sức chú trọng việc cúng tế Vu-lan-bồn. Vua Đại Tông cải biến nghi thức cúng thí bồn bát trong các tự viện thành một nghi thức trong cung đình, và dùng những khí vật hết sức trang nghiêm. Ngoài dân gian cũng bắt chước kết hoa đăng trang trí trước cửa nhà hoặc bày biện khắp điện đường, sĩ thứ nô nức đến chùa tranh tu công đức.

Đến đời Tống thì phong tục cúng Vu-lan cũng y như đời Đường, nhưng bình bát và các vật trang nghiêm có phần giảm thiểu, không còn tráng lệ như trước. Theo ĐÔNG KINH MỘNG HOA LỤC quyển 8, điều Trung Nguyên Tiết, vào ngày này, người ta đốt tiền âm phủ, áo giấy, đồng thời diễn kịch Mục Liên cứu mẹ. Trong sách SỰ VẬT KỶ NGUYÊN của Cao Thừa có chỉ trích hội Vu-lan-bồn đã mất đi ý nghĩa đích thực nói trong kinh Phật. Rất nhiều kinh điển của Phật giáo nói nội dung của hội Vu-lan-bồn chỉ là tụng kinhthí thực mà thôi, còn nếu nghĩ rằng hội Vu-lan-bồn là chỉ để thí thực cho quỷ thần là sai. Thế mà người đời sau không hiểu, các tự viện cũng quy tụ tín đồ, lấy việc tiến vong độ quỷ làm chính, đó là do xưa bày nay bắt chước, thật ra như thế là trái với ý của Phật. Còn việc dùng "đồ ăn trăm món", "trái cây năm màu" là ý nói tất cả những món ngon vật lạ chứ không phải là đủ số 100; ngũ quả [1] là chỉ chung cho các loại trái cây chứ không phải là "trái cây 5 màu" như Kinh Vu-lan bản Việt ngữ đã dịch. Dùng những món ngon vật lạ cúng dường Phật, Tăng để được phước báo, đời sau không biết lại dùng đủ rau dưa hoa quả, bún bánh cơm canh, hương hoa trà phẩm để cúng thí quỷ thần, quả là sai một ly đi một dặm.

Nhật Bản, việc cúng tế bắt đầu từ thời Suy Cổ Thiên Hoàng (606), đến năm 657 thời Thiên hoàng Tề Minh mới có hội Vu-lan-bồn. Hội Vu-lan dầu sao cũng dễ dung hòa với phong tục "Tổ tiên sùng bái" của dân gian Nhật Bản, cho nên về sau hội này thịnh hành khắp cả trong triều ngoài nội. Phong tục này vẫn còn mãi đến ngày nay.

Ngày nay, hội Vu-lan-bồn được các tự viện tổ chức long trọng. Ngoài việc tụng kinhthí thực còn có tổ chức cúng dường trai tăng. Gần đây, giới Phật giáoĐài Loan xem ngày Rằm tháng Bảy là Tăng Bảo tiết, đây cũng là thời gian mà dân gian gọi là Trung Nguyên tiết. Đối với tín ngưỡng dân gian phần nhiều truyền tụng rằng ngày này cửa địa ngục rộng mở để phóng thích ngạ quỷ, cho nên ngày này họ giết nhiều súc sanh, bày biện đủ thứ thức ăn để đãi cúng cho ngạ quỷ, rồi thỉnh Đạo sĩ tụng kinh siêu độ, với kỳ vọng tiêu tai giải nạn, bảo hộ bình an, làm ăn thuận lợi. Nhưng đứng trên lập trường "Giới sát" của Phật giáo thì làm như thế chẳng những không lợi ích gì mà còn tạo thêm nghiệp sát, gây sự tham lam, sân hận cho mình và mọi loài, quả báo sẽ vô cùng tai hại, hoàn toàn khác xa với ý nghĩa Vu-lan-bồn nói trong kinh Phật.

Việt Nam, không biết có tài liệu nào ghi chép việc cúng Vu-lan-bồn xuất phát từ lúc nào? Nhưng thiết nghĩ từ xưa ở Việt Nam phần nhiều ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa, nên chi chẳng có gì khác mấy. Khi đọc "Vân Đài Loại Ngữ" của Lê Quý Đôn, chúng tôi thấy có một đoạn nói về Vu-lan-bồn, đặc biệt là có một vài nhận xét của Lê Quý Đôn rất hay, chúng tôi xin trích dịch nguyên văn đoạn ấy để tham khảo :

"Chu Tử lại nói : Các bậc hiền triết đời trước cúng tế ở mộ phần thì không nói gì đến Nghĩa lý (Tiên chánh mộ tế bất ngôn nghĩa lý).

Sách MỘNG HOA LỤC chép : Tết Trung Nguyên người ta bày đồ mã, giấy màu, lấy tre làm cái giường ba chân giống như cái bầu dầu trong cây đèn, treo đồ mã, áo giấy lên đó rồi đốt, gọi là Vu-lan-bồn. Lục Du nói : Tục lệ đến ngày Rằm tháng Bảy làm đồ chay cúng tổ tiên, chuốt tre làm bồn chậu để đựng tiền giấy rồi lấy cọng tre châm lửa mà đốt.

Sách THÍCH THỊ YẾU LÃM chép : Tiếng Phạn nói Vu-lan-bồn cũng như tiếng Hán nói Cứu Đảo Huyền. Sách THÔNG GIÁM đời Đường nói vua Túc Tông sai Vương Dư làm chức Từ Tế Sứ. Lúc cúng tế, có khi Vương Dư đốt giấy tiền giống như những người đồng bóng. Truyện Vương Dư nói : Từ đời Hán về sau, khi chôn cất người chết người ta đều chôn tiền theo. Đời sau dân tục lấy giấy làm tiền để cúng tế quỷ thần. Vương Dư cũng dùng theo cách ấy để cúng tế trừ tai ương.

Chu Tử nói : Người xưa dùng ngọc và lụa, người đời sau dùng tiền, đến đời vua Huyền Tông, việc thờ cúng quỷ thần thật nhiêu khê. Không có nhiều tiền, Vương Dư bèn lấy tiền giấy để thay thế. Sách THANH DỊ LỤC lại nói : Ngày đưa xe Huyền Tông đi an táng, những thứ vàng bạc châu báu tiền tài đều làm tượng hình để ngụ ý cả.

Chu Tử lại nói : Đầu đời nhà Tống, hễ nói đến lễ thì làm mũ áo giấy, nhưng không dùng tiền giấy. Không biết tiền giấy và mũ áo giấy có gì khác biệt nhau không ? Tiền giấy có từ đời vua Túc Tông (756 – 762), do Ất Thái sứ Vương Dư làm ra, còn mũ áo giấy thì có từ thời Ngũ đại.

Sách TRIỀU DÃ THIÊM TÁI chép rằng : Theo phong tục vùng Lãnh Nam, hễ trong nhà có người bệnh thì giết gà giết ngỗng cúng để cầu phước, nếu bệnh chưa khỏi thì giết bò heo dê để cầu đảo, tục này đến nay vẫn còn. Người xưa chê cười thói này đã lâu, vì muốn cầu sinh thì lại sát sinh, đó là điều mà quỷ thần giận ghét. Ở vùng Trung Châu, người ta chỉ dùng hương đèn, tiền giấy, ngựa giấy, hoa quả, đồ chay để cầu đảo chứ không sát hại sinh mệnh loài vật. Đã giữ gìn lòng nhân từ, tô bồi phúc đức, muốn cầu thần ban cho tuổi thọ thì phải dùng lòng nhân từphúc đức, dâng hiến lòng thành chứ đâu phải ở vật ? ..." (VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ quyển 4, Điển Vựng 9 b, 10 a, 10 b, 11 a).

Lê Quý Đôn hiển nhiên không phải là nhà Phật học. Ông là kẻ bước ra từ cửa Khổng sân Trình. Tuy nhiên, ông đọc nhiều hiểu rộng, có thái độ bàng quan, nên những điều ông viết rất khúc chiết và thâm thúy. Xem ra, việc đốt giấy tiền có từ Trung Quốc, còn việc giết súc sanh để cúng tế lại là phong tục vùng Lãnh Nam (Việt Nam ?). Người xưa đã chê bai và chỉ ra chỗ sai lầm trầm trọng như vậy, lẽ nào đến ngày nay, thời đại khoa học phát triển mà mọi người còn đốt áo giấy, đồ mã và giết súc sanh để cúng tế thì quả là lạc hậu. Đừng biện bạch rằng xưa bày nay bắt chước, biết nó đã sai mà vẫn tin và làm theo thì tai hại vô cùng.

Vậy để hiểu Kinh Vu-lan mà Đức Phật chỉ dạy với mục đích gì, chúng ta cần phải khảo sát ý nghĩa trong văn kinh một cách nghiêm túc, từ đó chúng ta tự tạo cho mình một thái độ, một cách nhìn đúng đă鮠đối với kinh điển mà bậc Giác ngộ đã ân cần chỉ dạy.

IV. Ý nghĩa Kinh Vu-lan-bồn

Để hiểu ý nghĩa của kinh một cách chính xác nhất, lẽ ra phải dựa vào những bản chú sớ "tùy văn giải thích". Chú sớ Kinh Vu-lan-bồn như trên đã nói là rất nhiều, chư Tổ đã phân khoa, chiết tự, phân tích một cách tỉ mỉ. Hiện tạiViệt Nam chưa thấy dịch bộ Chú sớ nào, nên việc hiểu cặn kẽ Kinh Vu-lan-bồn là rất khó. Trước khi lược nói ý nghĩa của kinh, chúng ta cần khảo sát xuất xứ của kinh.

Các kinh nói về việc báo hiếu và Vu-lan, hiện tại trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH tập 16 có "Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh", 1 quyển, do Tam Tạng pháp sư An Thế Cao, người nước An Tức dịch sang tiếng Trung Quốc vào đời Hậu Hán; "Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh" do Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Thị dịch sang Hán văn vào đời Tây Tấn; "Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn Kinh", còn gọi là Báo Tượng Công Đức Kinh, khuyết dịch, phụ Đông Tấn Lục [2], "Phật Thuyết Hiếu Tử Kinh", Thất dịch nhân danh, phụ Tây Tấn Lục [3]. 

Trong ĐẠI TẠNG TÂN TOẢN VẠN TỤC TẠNG KINH tập 21 có rất nhiều chú sớ, tạm liệt kê như sau :

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Tân Ký, 2 quyển, ngài Tông Mật sớ vào đời Đường, ngài Nguyên Hiểu ký vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hội Cổ Thông Kim Ký, 2 quyển, do ngài Phổ Quán thuật.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hiếu Hạnh Sao Khoa, 1 quyển, phần khoa nghi do ngài Ngộ Vinh tập định vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hiếu Hạnh Sao, 2 quyển, gồm 1 bản chánh văn Phật Thuyết Vu-lan-bồn Kinh, Vu-lan-bồn Niệm Tụng Thức và phần sớ sao, cũng do ngài Ngộ Vinh sao lục vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Sao Dư Nghĩa, 1 quyển, do ngài Nhật Tân soạn vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Tân Sớ, 1 quyển, do ngài Trí Húc sớ vào đời Minh.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Chiết Trung Sớ, 1 quyển, do ngài Linh Huy soạn vào đời Thanh.

- Vu-lan-bồn Kinh Lược Sớ, 1 quyển, do ngài Nguyên Kỳ soạn vào đời Thanh.

Trên đây là các bộ kinh sớ rất nổi tiếng, được xếp vào Đại Tạng cũng như Tục Tạng; còn theo tài liệu của Phật Quang Đại Từ Điển thì có đến hơn 60 loại, trong đó có bộ Vu-lan-bồn Kinh Sớ của ngài Cát Tạng đời Đường, không hiểu sao lại không được xếp vào Đại Tạng. Bản Kinh Vu-lan-bồn trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH và bản được chép trong VU LAN BỒN KINH SỚ HIẾU HẠNH SAO của ngài Ngộ Vinh tương đối giống nhau, có thể là dị bản chứ không phải là đồng bản dị dịch, bản trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU tương đối nhiều chữ hơn, câu cú đầy đủ hơn.

Xem qua các đề kinh sớ trên, ta đủ thấy chư Tổ nhiều đời đã dày công biên soạn, nào là nghĩa, sớ, sao, ký, chú và có cả khoa nghi nữa. Đọc qua các bộ này, chúng tôi thấy bộ Vu-lan-bồn Kinh Tân Sớ của ngài Trí Húc đời Minh là hay nhất. Tác phẩm này được Đại sư Trí Húc soạn khi Ngài còn là Sa-di và được ngài Đạo Phưởng tham đính [4]. Tác phẩm được chia thành hai phần, phần 1 là một bài tóm lược nội dung và ý nghĩa của kinh; phần 2 là giải thích cặn kẽ từng chữ của kinh. Văn chương dùng trong tác phẩm rất hay, giải thích gọn ghẽ nhưng rất sáng sủa, dễ hiểu. Vì phần này quá dài nên chúng tôi không thể dịch hết nguyên văn đưa vào đây, chỉ xin trích dịch vài đoạn và tóm lược nội dung phần giải thích đề kinh : 

"Kinh này lấy pháp cúng làm tên, lấy Tự tánh Tam bảo làm thể, lấy Hiếu từ làm tông, lấy sự cứu khổ ban vui làm dụng, lấy Đại thừa làm giáo tướng. Tất cả những phước điềnthế gian không gì hơn Tam bảo, đạo pháp xuất thế không gì trước Hiếu từ, muốn báo đáp thâm ân không gì cần yếu hơn là sự cứu khổ ban vui, muốn thành tựu được việc tế độ không gì lớn lao bằng pháp Vu-lan..."
Trong phần đầu này, ngài Trí Húc đã chia giáo tướng của Kinh Vu-lan thành 5 lớp, trong mỗi lớp lại chia thành 2 phần, một là giải thích theo sự, hai là giải thích theo nghĩa Quán tâm (). Năm lớp là :
  1. Nương theo sự và pháp Quán tâm để giải thích Danh.
  2. Nương theo sự và pháp Quán tâm để phân biệt Thể.
  3. Nương theo sự và pháp Quán tâm để làm rõ Tông.
  4. Nương theo sự và pháp Quán tâm để hiển bày Dụng.
  5. Nương theo sự và pháp Quán tâm để phán Giáo tướng.
Trong lớp thứ nhất鬠Đại sư Trí Húc đã giải thích đề kinh là tên của pháp cúng. Trong pháp cúng ấy có đầy đủ Tam bảo. Nghĩa Tam bảo trong phần này được giải thích rất tỉ mỉ, có thể nói đây là cách giải thích Tam bảo sâu rộng nhất. Nghĩa Vu-lan-bồn cũng được giải thích cặn kẽ, duy có điều ở đây đã giải thích "bồn" là vật cúng, rồi thăng hoa với những ý nghĩa thật phong phú, như nói : 
"Chén bát là bồn, bách vị ngũ quảthức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi ngạ quỷ. Nhiếp tâm là bồn, mười chi là thức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi cõi Dục. Niệm xứ là bồn, hành quán Tứ đếthức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi ba cõi. Hoằng nguyện là bồn, Lục độ vạn hạnhthức ăn, giải cái khổ treo ngược Tứ khô [5]. Nhất tâm là bồn, bất tư nghì quán là thức ăn, giải cái khổ treo ngược Nhị biên. Nói một cách cụ thể thì dùng chén bát (bồn) và bá vị thức ăn làm cảnh chánh nhân duyên, nếu không có sự thì lý quán biết dựa vào đâu ? Nếu khônglý quán thì lực dụng của sự sẽ không sâu sắc. Có người chợt nghe thuyết này liền muốn bỏ sự mà theo lý, nếu quả vậy thì ngài Mục-liên khi mới được Lục thông cũng đã thành tựu được Niệm xứ bồn, Tứ đế thực, sao mẹ của Ngài vẫn chưa thoát khỏi cái khổ nơi đường Ngạ quỷ ?"
Ở phần Quán tâm của lớp thứ nhất, tác giả cũng đã giải thích pháp cúng Vu-lan-bồn rất sâu sắc : 
"Tịnh giới là khí (bồn), Vô tác Tứ đế, Bất Tư Nghì Quán Huệthức ăn, cúng dường tự tánh Nhất thể Tam bảo, giải thoát trọn vẹn cái khổ treo ngược của Bát đảo. Sớm đặt chân đến cảnh giới Nhất thật. Vô minh là cha, Tham ái là mẹ, ngay nơi đó được giải thoát. Trí độ là mẹ, Phương tiện là cha, nhậm vận tự tại mà nhập vào trí huệ Vô công dụng, cho nên gọi là Vu-lan-bồn".
Ở lớp thứ hai, tác giả nương vào sự để phân biệt Thể của kinh. Sư nói : 
"Tất cả các kinh đều có chánh thể, nếu không có chánh thể thì không thể phân biệt được tà đảo, như vậy thì thành ma thuyết. Các kinh điển Đại thừa đều luận Thật tướng là ấn, là chánh thể của kinh. Thật tướng tuy có một nhưng có nhiều tên gọi. Như trời Đế Thích chỉ có một người nhưng có nhiều tên, cùng khắp các cõi trời. Thật tướng cũng vậy ! Một pháp nhưng có nhiều tên gọi, cùng khắp các kinh điển. Tên kinh thì khác, nhưng lấy cái khác đó để gọi cho một cái thể chung, đối với lý thì chẳng sai. Nay trong Kinh Vu-lan nói : "Phải nhờ thần lực của mười phương tăng". Lại nói : "Trước khi thọ thực đàn trai... trước Phật tiền hoặc tự tháp trung, chư tăng chú nguyện viên dung, sau rồi mới tự thọ dùng bữa trưa". Như vậy, chú nguyện tức là pháp, có đầy đủ Tam bảo. Ngài Mục Liên lại nói : "Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo", Tam bảo ở đây chính là Tự Tánh của tất cả chúng sanh. Nếu không có đủ công đức của Tam bảo thì phàm và thánh xa nhau, tối và sáng mãi cách ngăn, phàm không cảm được mà thánh cũng chẳng ứng được. Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba vốn không sai biệt, mê và ngộ tuy khác nhau nhưng thể tánh vẫn thường nhất. Do đó chư Phật ở trong tâm chúng sanh, nương theo sự mà gửi cái lý. Cảm được chư Phật trong tâm chúng sanh thì chư Phật trong tâm chúng sanh vô duyên vô niệm, nhậm vậnứng hiện..."
Tiếp theo, tác giả phân biệt Tam bảo có 4 nghĩa, rồi giải thích cặn kẽ 4 nghĩa này, bao hàm Trụ trì Tam bảo, Thắng nghĩa Tam bảo, Đại thừa biệt tướng Tam bảoNhất thể Tam bảo. Sau đó, tác giả lại nương vào pháp Quán tâm để biện biệt Thể của kinh, đại ý "Tất cả chúng sanh tức là tướng của Niết-bàn, không thể đoạn diệt, chư Phật cầu giải thoát ngay nơi tâm hạnh chúng sanh. Nếu quán tâm như thế thì có thể đầy đủ tất cả Phật pháp. Cho nên nói : Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ nơi tâm tưởng chúng sanh. Nếu không quán tâm để phân biệt rõ cái thể ấy của kinh thì làm sao nói rằng trong mỗi sát-na đều nhớ nghĩ đến cha mẹ mà tu hiếu từ đây ?"

Lớp thứ ba là nương nơi Sự để làm rõ Tông chỉ. Đại sư Trí Húc viết : 

"Giới tuy có nhiều vô lượng, nhưng lấy Hiếu làm tông. Vạn hạnh tuy nhiều, nhưng Hiếu hạnh vẫn là đứng đầu. Do đó, Đức Thích-ca từ vô lượng kiếp đã luôn tu hạnh Báo hiếu; ngài Mục Liên ngay khi thành đạo đã liền nghĩ đến ân bú mớm của cha mẹ, nên biết không phải sau khi thành đạo mới nghĩ đến cha mẹ, mà là do nhân duyên muốn báo đáp thâm ân mới tu Thánh đạo. Giống như Địa Tạng Vương Bồ-tát, kiếp xưa vốn là người con gái Bà-la-môn, vì muốn cứu độ mẹ nên mới phát Đại Bi Tâm, khi nào còn một chúng sanh đau khổ thì nguyện không thành Phật đạo. Nhân duyên phát tâm của chư Phật, Bồ-tát cũng tương tợ như thế".
Tiếp theo, Đại sư Trí Húc phân biệt chữ Hiếu thành hai nghĩa là Hiếu thế gian và Hiếu xuất thế gian, trong đó mỗi loại lại chia chẻ thành nhiều nghĩa để phân tích, dẫn chứng những gương hiếu hạnh của thế gianxuất thế gian, của nội giáongoại giáo. Đồng thời, đoạn này còn trích dẫn nhiều kinh luận liên quan để chứng minh, hiển bàytông chỉ của Kinh Vu-lan, như trích dẫn Luật Ngũ Phần, Kinh Phật Thuyết Hiếu Tử, Kinh Tỳ-ni Mẫu, Kinh Đốc Ý, Kinh Lễ của Nho gia... Nói chung, đoạn này tác giả đã tham khảo rất nhiều kinh sách, trích dẫn nhiều danh ngôn, sử dụng nhiều điển cố để dẫn dụ đâu là hiếu thế gian, đâu là hiếu xuất thế gian, pháp nào thuộc về quyền (phương tiện), pháp nào thuộc về thật (cứu cánh).

Ở đoạn kế tiếp, tác giả làm sáng tỏ ý nghĩa "Tâm từ bi chính là hiếu". Từ bi ở đây có 3 hạng : Sanh duyên từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ.

Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Ta đời đời thọ sanh nơi họ". Khi quán tưởng như thế, tất cả kẻ oán người thân đều bình đẳng. Trong bảy cảnh giới, tuần tự ban cho họ ba niềm vui, lấy đó để điều phục sân hận, phiền não, san tham và tật đố, cho đến chứng được Từ Tâm Tam-muội. Hễ ai có duyên với ta thì ta đều cứu khổ ban vui cho họ. Thâm ân của cha mẹ là sâu dày hơn cả, cho nên cha mẹ là những người đầu tiên mà ta phải cứu khổ ban vui.

Pháp duyên từ là quán tất cả các pháp đều từ duyên sanh. Cho nên Kinh Phạm Võng nói : "Tất cả đất, nước là thân trước của ta; tất cả lửa gió là chính thân thể của ta". Chúng sanh đều do Tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) hợp thành, không nhân ngã, không thọ mạng, Tứ đại đã không hai thì Từ tâm duyên đến cũng bất nhị. Khi quán tưởng như thế, kẻ oán người thân đều cùng một tướng, cho đến chứng đắc Từ Tâm Tam-muội, năng lực cứu khổ ban vui còn thù thắng hơn Sanh duyên từ.

Vô duyên từ là biết rõ Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba chẳng có gì sai khác. Cả pháp giớinhất tướng, chân thật bình đẳng, không trụ ở tướng của pháp và tướng của chúng sanh, quán Bồ-đề tức Phiền não, Niết-bàn tức Sanh tử, khởi thệ nguyện Vô tác, phá trừ gốc khổ; quán Phiền não tức Bồ-đề, Sanh tử tức Niết-bàn, khởi thệ nguyện Vô tác, ban phát niềm an lạc. Từ ở đây chính là Bi, Bi ở đây chính là Từ, xứng tánh khởi tu pháp viên đốn, hiện thành Tam-muội. Năng lực Đại từ bi này không thể nghĩ bàn.

Trong ba pháp Từ trên, Sanh duyên từ là pháp tu của chung cả Tam thừa, nhưng hàng Nhị thừa thì không có hoằng nguyện lợi tha; Pháp duyên từ thì hàng Nhị thừa cũng có một số ít tu tập được, còn chính là pháp tu của Bồ-tát; còn Vô duyên từ chính là Trung đạo đệ nhất nghĩa, hàng Nhị thừa không thể vói tới nổi. Ở đây, ý nghĩa Kinh Vu-lan đã trở thành pháp tu Đại thừa cao tột mà nếu khôngcăn cơ Đại thừa thì khó có thể lãnh hội được. Đại sư Trí Húc đã trích dẫn lời của Nho gia để làm rõ tông chỉ : Vô cớ mà làm thương hại đến một côn trùng, không phải là hiếu; vô cớ mà làm tổn hại đến một lá cây ngọn cỏ, không phải là hiếu. Nho gia còn nói như vậy, huống là Phật đạo thậm thâm? Tóm lại, hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, Tam bảo chính là pháp hiếu thuận cao tột.

Ở phần Quán tâm để làm rõ tông chỉ, tác giả đã phân tích rằng ngay nơi một niệm hiện tiền mà có đầy đủ Tam bảo, tùy thuận quán sát thì gọi là Hiếu. Như vậy, mê là bất hiếu và ngộ là hiếu. Khởi tâm động niệm mà trái nghịch với pháp tánh thì cả thập giới còn mê huống gì cha mẹ. "Ngộ thì Trí Độ Mẫu, Phương Tiện Phụ cùng được giải thoát; Mê thì Vô Minh Phụ, Tham Ái Mẫu cùng đọa vào nẻo khổ".

Lớp thứ tư là nương nơi sự để hiển bày lực dụng của kinh. Về phần dụng, Đại sư Trí Húc đã nói hết sức ngắn gọn, bởi hiểu được Danh, Thể và Tông rồi thì Dụng của Kinh không cần trình bày cũng tự rõ. Nói chung, "cứu khổ ban vui" chính là Dụng của Kinh. Cứu khổ sanh tử, ban vui Niết-bàn; cứu cái khổ Nhị biên, ban niềm vui Trung đạo... Ở phần Quán tâm để hiển dụng, Sư nói : Chỉ cần quán một niệm hiện tiền có đầy đủ thể tánh Tam bảo thì có thể bạt trừ được tự tánh Khổ, Tập trong mười cõi một cách trọn vẹn, cùng với tự tánh của mười cõi tịch diệt viên mãn.

Lớp thứ năm là nương theo sự để phán thích giáo tướng của kinh. Lý luận ở đoạn này rất sắc bén, minh tuệ. Trước hết, Sư nói Kinh này thuộc về giáo Đại thừa Phương Đẳng. Rồi lý luận rằng cả hai tạng Đại thừaTiểu thừa đều thâu về Bồ-tát tạng. Có người hỏi : Ngài Mục-kiền-liên chứng được lục thông trong lúc Đức Phật giáo hóa mới có 12 năm, tức thuộc thời kỳ giáo lý A-hàm, sao gọi là thuộc Đại thừa Phương Đẳng? Sư đáp : Người chỉ biết 5 thời riêng biệt mà không biết được cái nghĩa chung của 5 thời, cần phải dựa trên nghĩa lý để xác định nghĩa vị của kinh ấy thuộc bộ nào mới khỏi sai lầm. Ở phần Quán tâm để phán thích giáo tướng, Sư nói : Tâm có đầy đủ các thừa nên chính tâmgiáo tướng. Nếu Tâm là Đại thừa thì không có gì không chuyên chở hết. Chỉ cần thành tựu một niệm quán tâm này thì có thể chuyển hóa hết tất cả tâm, tâm sở. Nếu không nương nơi Sự để giải thích kinh thì không thể hiểu được những điều mà Đức Như Lai đã ân cần giáo hóa. Nếu không dựa vào sự Quán tâm mà giải thích thì không thể trong tất cả thời thường tu pháp cúng Vu-lan-bồn. Trong kinh nói : Trong từng ý niệm thường phải nghĩ đến cha mẹ v.v... chính là Đức Phật dạy chúng ta phải Quán tâm. Còn kinh nói : Ngày Rằm tháng Bảy mỗi năm đều tác pháp Vu-lan-bồn... chính là Đức Phật dạy chúng ta phải tu theo Sự. Còn nói : Tất cả Phật tử phải nên phụng trì pháp này, chính là khuyên chúng ta phải hành trì cả hai pháp Sự và Quán. Đại sư Trí Húc cho rằng chúng sanh từ vô thủy kiếp trôi lăn trong sanh tử vô minh, mê cả lý lẫn sự, phiền nãoác nghiệp nặng nề nên cần phải Sự Quán song tu.

Toàn bộ năm lớp Sự quán nói trên chỉ là giải thích đề kinh, sau đó ngài Trí Húc mới bắt đầu nhập văn giải thích. Từng câu từng chữ được Ngài phân tích thấu đáo, dẫn chứng cụ thể, đủ thấy giá trị của tác phẩm này. Tuy nhiên, để hiểu sơ lược ý nghĩa Kinh Vu-lan, chỉ cần hiểu đề kinh là cũng đủ cho ta thấy được tầm quan trọng và giá trị đích thực của kinh này trong Tam Tạng giáo của Phật. Hiểu được như thế thì việc tụng đọc, thọ trì của chúng ta mới có ích lợi thật sự. Chúng ta đã khởi được niệm Từ nào khi tụng đọc Thánh điển thậm thâm ?

V. Lạm bàn về lễ Vu-lan ở Việt Nam

Phật giáo truyền vào Việt Nam đã 20 thế kỷ. Chúng ta thường ca ngợi Phật giáo là nguồn sống của dân tộc, văn hóa Phật giáovăn hóa dân tọ䣮 Đặc trưng của văn hóa trong dân gian, không gì có tính đại chúng bằng lễ hội. Lễ hội biểu hiện được nét đẹp tín ngưỡng, hình thái phong phú, vui tươilành mạnh. Lễ hội còn có tác dụng hướng đạo, khuyến hóa rộng rãi nhất. Cho nên, muốn phát triển văn hóa Phật giáo, việc chú trọng lễ hộiviệc làm hết sức cần thiết.

Trong Phật giáo, đặc biệtPhật giáo Việt Nam, lễ lớn chỉ có hai ngày: Phật Đản và Vu-lan. Các lễ hội mùa Xuân mặc dù mang nặng màu sắc Phật giáo, nhưng nói cho cùng, đó là lễ hội ảnh hưởng từ tín ngưỡng Phật giáo chứ chưa phải là lễ hội Phật giáo đích thực. Ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam có rất nhiều lễ hội truyền thống gắn liền với chùa chiền được duy trì, gần như tỉnh nào cũng có, như Lễ hội chùa Hương, chùa Thầy (Hà Tây), giỗ Đức Thánh Trần (Côn Sơn, Kiếp Bạc - Hải Hưng), hội chùa Dâu (Hà Bắc), hội Quán Âm (Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng) v.v... Nhưng, những lễ hội này chỉ mang tính chất địa phương, mang nặng màu sắc tín ngưỡng dân gian. Giáo lý Phật giáo nói chung và nét đẹp văn hóa đặc thù của Phật giáo gần như chưa được chú ý.

Thiển nghĩ, một ngày lễ như lễ Noel của Thiên Chúa giáo - một tôn giáo mới được truyền vào Việt Nam mấy trăm năm, với lượng tín đồ chưa được 1/10, mà lễ Noel đã được người ta chào đón rầm rộ ở các tỉnh thành như thế nào. Trong khi lễ Phật Đản hoặc Vu-lan, với truyền thống và lượng tín đồ đông đảo gần như tuyệt đối, tại sao lễ Phật Đản và Vu-lan không được nâng lên ở hàng Quốc lễ ?

Văn hóaquốc hồn quốc túy của dân tộc. Hẳn không ai dám phủ nhận vai trò của Phật giáo trong kho tàng văn hóa dân tộc. Thế mà thực chất, ngay nơi hàng ngũ tín đồ Phật giáo, hai chữ Vu-lan đối với họ cùng còn mơ hồ

Trong ca dao dân gian có câu : "Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân".

Xá tội vong nhân thôi ư? Thế thì ý nghĩa tích cực của Vu-lan nằm ở chỗ nào, nếu ngoài ý nghĩa hiếu hạnh mơ hồ đối với người đã khuất? Điều này không thuộc về phía quần chúng, lại cũng không phải của nhà nước, mà là của những người lãnh đạo tinh thần, đại diệnGiáo hội Tăng-già.

Không đơn thuần chỉ là bảo vệ nét đẹp truyền thống, bởi như trên đã nói, truyền thống về lễ Vu-lan ở Việt Nam chưa có gì đặc sắc lắm. Chúng ta còn cần phải phát huy, tìm tòi những thứ hay, những điều tốt đẹp nơi những nền văn hóa khác, miễn sao phù hợp với giáo lýtín ngưỡng của tôn giáo mình. Chắc hẳn có người sẽ cho như thế là lai căn, là vay mượn? Thì đã sao nào? Ngay đến việc "Bông hồng cào áo" chẳng phải là sự vay mượn của một văn hóa khác đó sao? Thế mà từ khi nó được thực hiệnViệt Nam (khoảng thập niên 60) đến nay, biết bao nhiêu loại hình nghệ thuật đã theo đó mà nảy mầm, nào là thơ, nhạc, họa, kịch..., đến nỗi nếu không biết, dù hết sức mới mẻ, nhiều người vẫn cứ tưởng chuyện cài hoa hồng trong lễ Vu-lan là "nét đẹp truyền thống" của Phật giáo. Chúng ta nghĩ gì về vấn đề này?

Nguyên nhân mà lễ Vu-lan không được nhân rộng và tổ chức thành lễ hội đàng hoàng, theo thiển ý của chúng tôi, là vì lễ Vu-lan chỉ được tổ chức tập trung tại các chùa viện. Phật tử ghi tên cầu siêu Cửu huyền thất tổ, mỗi gia đình một cái sớ dài lê thê, có chùa đọc mỗi đêm mấy tiếng đồng hồ mới xong tên của các hương linh. Phật tử đến ngồi lắng nghe tới tên cha mẹ, gia đình của mình, ngáp ngắn ngáp dài chờ đợi. Ở trên thì đọc lướt thật nhanh cho mau hết, ở dưới thì nghe không kịp, nhiều khi đọc qua rồi mà không biết, đâm ra lo lắng, sợ cha mẹ mình không nghe được tên thì... không biết rằng mình có hiếu (!). Ngày lễ Vu-lan không phải là Quốc lễ, hàng Phật tử ai đến chùa thì được nghe pháp, tụng kinh, tham dự các hoạt động văn hóa như văn nghệ, cài hoa. Còn nhiều người bận việc làmcông sở thì không thể đến chùa trong ngày này, nên lâu dần quên cả ngày Đại lễPhật giáo thường gọi là Vu-lan Thắng Hội. Thắng hội là hội lớn, hội thù thắng hơn hết, nhưng rốt cuộc chỉ còn trên danh nghĩa.

Vào ngày lễ Noel, các tín đồ Thiên Chúa mỗi nhà đều có sắm sửa một cây thông, treo đèn hoa lộng lẫy để đón mừng. Tại sao ta không khuyến tấn Phật tử cũng tổ chức lễ Vu-lan trong từng gia đình? Chẳng hạn như cũng quét dọn nhà cửa sạch sẽ, quy định một giờ giấc nào đó trong ngày Rằm tháng Bảy, con cái sẽ tặng hoa cho cha mẹ, nói một điều gì đó để tỏ lòng hiếu thuận, cũng treo đèn hoa, thắp nến, chọn hoa sen làm biểu tượng Phật giáo để trưng bày trong ngày này. Nếu giáo hội soạn được một nghi thức đàng hoàng cho buổi lễ cài hoa trong gia đình được thì càng tốt. Sau buổi lễ tại gia đình, Phật tử sẽ đến chùa nghe pháp, hoặc dự một lễ hội mang tính chất đại trà tổ chức đặc biệt tại một cơ sở Phật giáo nào đó trong quận huyện, làng xã. Lễ hội tập trung phải hết sức đặc biệt, như triển lãm tranh tượng, thư pháp, hàng mỹ nghệ với chủ đề Vu-lan, tổ chức văn nghệ, ca hát, phát hành các đặc san nói về công ơn cha mẹ, tổ chức các cuộc thi mang hình thái sinh hoạt dân gian như đua thuyền, biểu diễn võ thuật v.v... Người đến tham dự lễ hội không nhất thiết phải là Phật tử mà bất kỳ già trẻ sang hèn, không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp. Dần dần, hình thức lễ hội này sẽ thành truyền thống, tốt đẹplợi lạc biết bao, tác dụng giáo hóa của nó cũng hữu hiệu vô cùng.

Trên đây cũng chỉ là gợi ý, hy vọng những người có tâm đối với văn hóa Phật giáo sẽ tư duysáng tạo, để cho ngày lễ Vu-lan trở thành một ngày lễ có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thể quần chúng Việt Nam.


Chú Thích

(1) Theo VU-LAN-BỒN KINH TÂN SỚ của ngài Trí Húc, Ngũ quả là chỉ cho 5 phần của một cây : Căn, hành, diệp, hoa, quả (rễ, thân, lá, hoa, quả). Còn theo VU-LAN-BỒN KINH SỚ HIẾU HÀNH SAO của ngài Ngộ Vinh, Ngũ quả gồm : 1/ Hạch quả (loại quả có hạt, như Táo, hạnh, đào, lý...), 2/ Phu quả (loại quả có da, như Dưa, lê, táo tây, dâu...), 3/ Xác quả (loại quả có vỏ, như Dừa, hồ đào, thạch lựu...), 4/ Cối quả (loại quả có vỏ sần sùi, như Tùng, bá...), 5/ Giác quả (loại quả có góc cạnh, như Ấu, các loại đậu...).

(2) (bản đời Tống đề là Thất dịch, phụ Tây Tấn Lục, bản đời Nguyên và bản đời Minh đề là Thất dịch nhân danh, phụ Đông Tấn Lục).

(3) (bản đời Tống và đời Nguyên ghi là Thất dịch, bản đời Minh ghi là Thất dịch nhân danh).

(4)Bồ-tát Sa-di Cổ Ngô Trí Húc tân sớ, Bồ-tát Tỳ-kheo Ôn Lăng Đạo Phưởng tham đính.

(5) Tứ khô : Gọi đủ là Tứ khô tứ vinh (Bát đảo), tức 4 thứ chấp trước Vô thường, Phi lạc, Vô ngãBất tịnh của hàng Nhị thừa (Tứ khô) và 4 thứ chấp trước Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của phàm phu (Tứ vinh).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31589)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10517)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11211)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12729)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10799)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16629)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10800)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12005)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11482)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10670)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12319)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10002)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10321)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10689)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12357)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9795)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11246)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9572)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12613)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9686)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10445)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10307)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9888)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11044)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12001)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10134)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10776)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9533)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8760)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9488)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14508)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8769)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12542)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10408)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9066)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10552)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9324)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8782)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10496)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9175)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8349)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9690)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10221)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19118)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9395)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8967)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9574)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14732)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10074)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8341)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8936)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8959)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9361)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14578)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9028)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8753)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10515)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8630)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24259)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11011)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9457)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9245)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15333)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10331)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21368)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12148)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10225)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19216)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26018)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7969)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14754)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10619)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9526)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18640)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12341)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11865)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13326)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9365)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15872)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant