Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm hiểu về Vu Lan

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10292)
Tìm hiểu về Vu Lan

TÌM HIỂU VỀ VU LAN

Thích Nguyên Hiền

Nói đến Vu-lan, ý người viết muốn nói về những kinh điển liên quan đến ý nghĩa Vu-lan, bao gồm những chú sớ, trước thuật của lịch đại Tổ sư đã dày công biên soạn và đã được xếp vào Đại Tạng cũng như Tục Tạng Kinh. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một bài viết sơ lược trong khuôn khổ một đặc san, với những tài liệu khiêm tốn mà người viết được đọc. Hơn nữa, những trước tác của các Tổ sư qua nhiều đời về Kinh Vu-lan-bồn quá nhiều (hơn 60 loại), không thể đối chiếu hết được, chỉ xin chọn một vài tác phẩm quan trọng để dẫn chứng. Ngưỡng mong các bậc cao minh thùy từ chỉ giáo. 

I. Tổng luận

Kinh Vu-lan-bồn chỉ là một kinh điển nhỏ thuộc Phương Đẳng bộ, vỏn vẹn chưa đầy một trang giấ鹠trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH, quyển 16. Thế nhưng qua các triều đạiTrung Quốc, từ Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến đời Dân Quốc, đời nào cũng có chư Tổ trước thuật, chú sớ, luận giải bản kinh này, đủ thấy tầm quan trọng của bộ kinh đối với tín ngưỡng Phật giáo như thế nào. Ở Việt Nam, Kinh Vu-lan và Kinh Báo Hiếu được diễn dịch khá sáng tạo, đã đi vào lòng Phật tử như một thứ TÂM KINH mà gần như ai thường xuyên đi chùa tụng kinh lễ Phật đều ít nhiều thuộc lòng bản kinh này. Lễ Vu-lan tự nhiên đã trở thành một lễ hội lớn nhất của giới Phật giáoViệt Nam, do đó việc tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa Kinh Vu-lan là một việc làm cần thiết. Hiện chưa có vị nào dịch một bộ sớ nào về Vu-lan để phổ cập cho Phật tử hiểu, đây cũng là một thiếu sót rất lớn. Sự diễn dịch sáng tạo Kinh Vu-lan và Báo Hiếu mà các chùa ở Việt Nam hiện nay đang tụng đọc vào dịp tháng Bảy theo thể văn vần, dễ hiểu, gần gũi với tâm hồn Việt. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc gieo vần, nhiều chỗ trong bản dịch vẫn còn dùng từ Hán Việt quá hàm súc mà giới bình dân khó hiểu được, như "cửu tự cù lao", "hiếu hạnh vi tiên", "thần tỉnh mộ khan" v.v... Điểm thứ hai là toàn bộ kinh chỉ giúp cho người đọc tụng hiểu chữ HIẾU ở phạm vi Nhân thừa, chưa phát huy hết được thâm nghĩa Đại thừa siêu tuyệt của bản kinh nói chung và ý nghĩa của những chi tiết quan trọng trong kinh. 

Kinh Vu-lan-bồn (Phạn : Ullambana-sùtra), 1 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch sang Hán văn vào đời Tây Tấn (750 - 801). Nội dung thuật lại việc đệ tử của Phật là ngài Mục-kiền-liên (Phạn : Maudgalyàyana; Pàli : Moggallàna) xót thương cho mẹ đang bị khổ ở đường ngạ quỷ, nên mới hỏi Phật. Phật chỉ dạy vào ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ của chúng tăng, dùng bá vị cơm canh, ngũ quả để cúng dường mười phương chư PhậtTăng chúng, có thể cứu mẹ thoát khổ nạn.

Hội Vu-lan-bồn mà kinh này nói vốn phù hợp với bổn phận hiếu hạnh của thế gian. Ngài Tông Mật, vị Tổ thứ 5 của tông Hoa Nghiêm đời Tống đã cường điệu tư tưởng làm con hiếu phải báo ân cha mẹ, dung hòa tính chất tương quan giữa Phật giáoluân lý thế gian của người Trung Quốc, vốn lấy Nho gia làm nền tảng. Từ đó kinh này có tác dụng khá tích cực và được lưu truyền vô cùng rộng rãi.

Đồng bản dị dịch (cùng bản Phạn nhưng khác người dịch) với kinh này là Báo Ân Phụng Bồn Kinh (còn gọi là Báo Tượng Công Đức Kinh), không rõ dịch giả là ai. Kinh Đại Bồn Tịnh Độ được thuật trong PHÁP UYỂN CHÂU LÂM quyển 62 cũng là dị bản của kinh này. Các bộ mục lục lớn như LỊCH ĐẠI TAM BẢO KỶ quyển 6, VÕ CHU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC quyển 9, KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC quyển 2 đều cho rằng dịch giả của kinh này là Trúc Pháp Hộ, nhưng cũng có thuyết cho rằng kinh này là ngụy tạo, vì nói nội dung và sự phiên dịch trong bản kinh thường không chính xác. XUẤT TAM TẠNG KÝ TẬP thì cho rằng kinh này không rõ dịch giả.

Thế nhưng, ở Ấn Độ từ xưa đã có tín ngưỡng tin cái khổ "đảo huyền" ở địa ngục, không thể võ đoán kinh này là ngụy tạo. Nếu so sánh kinh văn và một số dị bản thì có thể dịch giả đã thêm vào một số câu trong bản dịch. Điều này cũng thường thấy trong một số bản dịch các kinh khác, dịch giả đã đưa một số chi tiết phù hợp với tín ngưỡngtư tưởng của địa phương đương thời, miễn là vẫn giữ được tinh thần cốt tủy trong văn kinh.

II. Nguồn gốc chữ Vu-lan-bồn

Việt Nam gần đây có một số sách báo chỉ ra sự sai lầm căn để của một vài cách hiểu chữ Vu-lan-bồn. Đại loại từ trước, ở Việt Nam, nhiều người hiểu chữ "bồn" có nghĩa là cái chậu; "bồn bát" là vật của Tỳ-kheo dùng để đựng thức ăn. Nhiều người đã lớn tiếng công kích và trích dẫn Phạn văn để chứng minh chữ "bồn" cũng là âm dịch trong ba chữ Vu-lan-bồn chứ không phải là cái chậu. Thật ra, sự sai lầm này không phải ở các dịch giả Việt Nam, mà chính từ xưa ở Trung Hoa đã có cách hiểu như vậy rồi.

Vu-lan-bồn là phiên âm từ chữ Phạn Ullambana, có chỗ phiên âm là Ô-lam-bà-noa, nếu dịch ý thì có nghĩa là "Đảo huyền" (cái khổ bị treo ngược). Thật ra, Ullambana là một chuyển ngữ của Avalambana, dụ cho cái khổ của người chết hết sức khó chịu, giống như người bị treo ngược lên vậy. Các bộ sách lớn của Trung Quốc như PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP quyển 9, THÍCH THỊ YẾU LÃM quyển hạ, VU-LAN-BỒN KINH LƯỢC SỚ... đều cho rằng chữ Vu-lan Bồn là phiên âm sai. Bởi vì chữ "bồn" là phiên âm từ chữ "bana" của tiếng Phạn chứ không phải nghĩa "bồn bát" – "dùng bồn bát bằng thất bảo để cúng Phật và Tăng" – như PHÁP UYỂN CHÂU LÂM đã trích dẫn để giải thích ĐẠI BỒN TỊNH ĐỘ KINH, nhưng trải qua nhiều đời, phần nhiều đều viện dẫn nghĩa này một cách sai lầm mà không để ý đến những trích dẫn đã nói ở trên.

Bắt đầu từ tác phẩm VU-LAN-BỒN KINH TÁN THUẬT của ngài Huệ Tịch đời Đường. Ngài cho rằng đặt các trân hào mỹ vị vào trong một cái chậu, rồi dâng cúng cho Phật cùng Tăng để cứu cái khổ "Đảo huyền". Ngài Tông Mật giải thích trong VU-LAN BỒN KINH SỚ quyển hạ rằng Vu-lan nghĩa là Đảo huyền, còn "bồn" là đồ để cứu giúp, cho nên giải thích Vu-lan Bồn là "Cứu đảo huyền, giải thống khổ". Từ cách giải thích này của ngài Tông Mật, đời sau đều y theo đó để hiểu chữ Vu-lan Bồn.

Còn trong VU-LAN BỒN KINH SỚ HIẾU HÀNH SAO quyển thượng của ngài Ngộ Vinh đời Tống thì dịch đề Kinh Vu-lan Bồn là "Giác Giả Thuyết Cứu Đảo Huyền Khí Kinh" (Bậc Giác ngộ nói về Kinh "vật để cứu cái khổ Đảo huyền"). Chữ "bồn" là cách tỉnh lược sai lầm, Cựu dịch là Bồn-tá-na; Tân dịch là Môn-tá-nẵng, tức "Cứu khí" (vật để cứu giúp), đây là cách phiên âm từ chữ mun壡na của tiếng Phạn. Mun壡na là chuyển ngữ (đọc trại) của chữ muccana tiếng Pàli và chữ mocana tiếng Phạn. Nhưng thật ra chữ này có nghĩa là "cứu giúp" chứ không có nghĩa là "đồ cứu giúp", cho nên thuyết của ngài Ngộ Vinh cũng sai lầm.

III. Nguồn gốc của lễ Vu-lan

Lễ Vu-lan hiện nay đã trở thành một lễ lớn và rất quan trọng trong tín ngưỡng các nước Phật giáo. Vậy tư tưởng này xuất phát từ đâu?

Khởi nguyên của Vu-lan-bồn rất sớm, tư tưởng này có trước cả thời Đức Phật tại thế. Trong cả hai bộ Đại sử thi của Ấn Độ cổ đại đều có thuật lại những điều liên quan đến Vu-lan-bồn. Trong chương thứ 74, phần 1 của bộ Mahàbharata nói đến từ Putra, nghĩa là người đàn ông cần phải chẩn cứu (trayate) cha mình ở dưới địa ngục (pun). Do vì ở Ấn Độ ngày xưa tin rằng nếu người đàn ông mà không có con trai nối dõi thì sau khi chết sẽ đọa vào nơi hiểm ác, cho nên một người Bà-la-môn đến 20 tuổi, sau khi học hành đầy đủ rồi phải về nhà lấy vợ, sinh con để nối dõi tông đường, lấy đó để tế cúng tổ tiên.

Còn lễ Vu-lan-bồn mà ngày nay vẫn còn duy trì trong các chùa viện Phật giáoxuất phát từ Kinh Vu-lan-bồn. Đệ tử của Phật là Mục-kiền-liên dùng Thiên nhãn thông thấy thân mẫu của mình đọa vào ngạ quỷ khổ sở, da bọc lấy xương, đêm ngày bị hành hạ liên tục. Thấy vậy, Mục Liên mới đưa bát cơm đến dâng cho mẹ, nhưng vì nghiệp báo nên bát cơm hóa thành than lửa. Vì muốn cứu thoát mẹ khỏi khổ, Mục Liên về bạch Phật để xin Ngài chỉ bày pháp giải cứu cho mẹ. Đức Phật chỉ dạy rằng vào ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ của chúng tăng, dùng bá vị thức ăn đựng trong bình bát để cúng dường Tam bảo thì sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ bảy đời quá vãng. Ở Ấn Độ từ xưa đã y theo lời dạy này mà thực hành pháp Vu-lan- bồn, như Bình Sa Vương, cư sĩ Tu-đạt, Mạt-lợi phu nhân... đã từng tạo 500 bình bát bằng vàng để cúng dường Phật và Tăng.

Trung Quốc, theo các bộ sử hiện còn thì vua Lương Võ Đế là người đầu tiên thiết cúng Vu-lan-bồn. Năm 538, nhà vua đã đến chùa Đồng Thái mở hội cúng dường Vu-lan rất lớn. Sau đó Vu-lan trở thành một phong tục, các bậc đế vương cũng như thần dân nhiều đời đều có tổ chức hội này để báo đáp ân đức của tổ tiên, cha mẹ.

Vào đời Đường, các vị vua như Đại Tông, Đức Tông hết sức chú trọng việc cúng tế Vu-lan-bồn. Vua Đại Tông cải biến nghi thức cúng thí bồn bát trong các tự viện thành một nghi thức trong cung đình, và dùng những khí vật hết sức trang nghiêm. Ngoài dân gian cũng bắt chước kết hoa đăng trang trí trước cửa nhà hoặc bày biện khắp điện đường, sĩ thứ nô nức đến chùa tranh tu công đức.

Đến đời Tống thì phong tục cúng Vu-lan cũng y như đời Đường, nhưng bình bát và các vật trang nghiêm có phần giảm thiểu, không còn tráng lệ như trước. Theo ĐÔNG KINH MỘNG HOA LỤC quyển 8, điều Trung Nguyên Tiết, vào ngày này, người ta đốt tiền âm phủ, áo giấy, đồng thời diễn kịch Mục Liên cứu mẹ. Trong sách SỰ VẬT KỶ NGUYÊN của Cao Thừa có chỉ trích hội Vu-lan-bồn đã mất đi ý nghĩa đích thực nói trong kinh Phật. Rất nhiều kinh điển của Phật giáo nói nội dung của hội Vu-lan-bồn chỉ là tụng kinhthí thực mà thôi, còn nếu nghĩ rằng hội Vu-lan-bồn là chỉ để thí thực cho quỷ thần là sai. Thế mà người đời sau không hiểu, các tự viện cũng quy tụ tín đồ, lấy việc tiến vong độ quỷ làm chính, đó là do xưa bày nay bắt chước, thật ra như thế là trái với ý của Phật. Còn việc dùng "đồ ăn trăm món", "trái cây năm màu" là ý nói tất cả những món ngon vật lạ chứ không phải là đủ số 100; ngũ quả [1] là chỉ chung cho các loại trái cây chứ không phải là "trái cây 5 màu" như Kinh Vu-lan bản Việt ngữ đã dịch. Dùng những món ngon vật lạ cúng dường Phật, Tăng để được phước báo, đời sau không biết lại dùng đủ rau dưa hoa quả, bún bánh cơm canh, hương hoa trà phẩm để cúng thí quỷ thần, quả là sai một ly đi một dặm.

Nhật Bản, việc cúng tế bắt đầu từ thời Suy Cổ Thiên Hoàng (606), đến năm 657 thời Thiên hoàng Tề Minh mới có hội Vu-lan-bồn. Hội Vu-lan dầu sao cũng dễ dung hòa với phong tục "Tổ tiên sùng bái" của dân gian Nhật Bản, cho nên về sau hội này thịnh hành khắp cả trong triều ngoài nội. Phong tục này vẫn còn mãi đến ngày nay.

Ngày nay, hội Vu-lan-bồn được các tự viện tổ chức long trọng. Ngoài việc tụng kinhthí thực còn có tổ chức cúng dường trai tăng. Gần đây, giới Phật giáoĐài Loan xem ngày Rằm tháng Bảy là Tăng Bảo tiết, đây cũng là thời gian mà dân gian gọi là Trung Nguyên tiết. Đối với tín ngưỡng dân gian phần nhiều truyền tụng rằng ngày này cửa địa ngục rộng mở để phóng thích ngạ quỷ, cho nên ngày này họ giết nhiều súc sanh, bày biện đủ thứ thức ăn để đãi cúng cho ngạ quỷ, rồi thỉnh Đạo sĩ tụng kinh siêu độ, với kỳ vọng tiêu tai giải nạn, bảo hộ bình an, làm ăn thuận lợi. Nhưng đứng trên lập trường "Giới sát" của Phật giáo thì làm như thế chẳng những không lợi ích gì mà còn tạo thêm nghiệp sát, gây sự tham lam, sân hận cho mình và mọi loài, quả báo sẽ vô cùng tai hại, hoàn toàn khác xa với ý nghĩa Vu-lan-bồn nói trong kinh Phật.

Việt Nam, không biết có tài liệu nào ghi chép việc cúng Vu-lan-bồn xuất phát từ lúc nào? Nhưng thiết nghĩ từ xưa ở Việt Nam phần nhiều ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa, nên chi chẳng có gì khác mấy. Khi đọc "Vân Đài Loại Ngữ" của Lê Quý Đôn, chúng tôi thấy có một đoạn nói về Vu-lan-bồn, đặc biệt là có một vài nhận xét của Lê Quý Đôn rất hay, chúng tôi xin trích dịch nguyên văn đoạn ấy để tham khảo :

"Chu Tử lại nói : Các bậc hiền triết đời trước cúng tế ở mộ phần thì không nói gì đến Nghĩa lý (Tiên chánh mộ tế bất ngôn nghĩa lý).

Sách MỘNG HOA LỤC chép : Tết Trung Nguyên người ta bày đồ mã, giấy màu, lấy tre làm cái giường ba chân giống như cái bầu dầu trong cây đèn, treo đồ mã, áo giấy lên đó rồi đốt, gọi là Vu-lan-bồn. Lục Du nói : Tục lệ đến ngày Rằm tháng Bảy làm đồ chay cúng tổ tiên, chuốt tre làm bồn chậu để đựng tiền giấy rồi lấy cọng tre châm lửa mà đốt.

Sách THÍCH THỊ YẾU LÃM chép : Tiếng Phạn nói Vu-lan-bồn cũng như tiếng Hán nói Cứu Đảo Huyền. Sách THÔNG GIÁM đời Đường nói vua Túc Tông sai Vương Dư làm chức Từ Tế Sứ. Lúc cúng tế, có khi Vương Dư đốt giấy tiền giống như những người đồng bóng. Truyện Vương Dư nói : Từ đời Hán về sau, khi chôn cất người chết người ta đều chôn tiền theo. Đời sau dân tục lấy giấy làm tiền để cúng tế quỷ thần. Vương Dư cũng dùng theo cách ấy để cúng tế trừ tai ương.

Chu Tử nói : Người xưa dùng ngọc và lụa, người đời sau dùng tiền, đến đời vua Huyền Tông, việc thờ cúng quỷ thần thật nhiêu khê. Không có nhiều tiền, Vương Dư bèn lấy tiền giấy để thay thế. Sách THANH DỊ LỤC lại nói : Ngày đưa xe Huyền Tông đi an táng, những thứ vàng bạc châu báu tiền tài đều làm tượng hình để ngụ ý cả.

Chu Tử lại nói : Đầu đời nhà Tống, hễ nói đến lễ thì làm mũ áo giấy, nhưng không dùng tiền giấy. Không biết tiền giấy và mũ áo giấy có gì khác biệt nhau không ? Tiền giấy có từ đời vua Túc Tông (756 – 762), do Ất Thái sứ Vương Dư làm ra, còn mũ áo giấy thì có từ thời Ngũ đại.

Sách TRIỀU DÃ THIÊM TÁI chép rằng : Theo phong tục vùng Lãnh Nam, hễ trong nhà có người bệnh thì giết gà giết ngỗng cúng để cầu phước, nếu bệnh chưa khỏi thì giết bò heo dê để cầu đảo, tục này đến nay vẫn còn. Người xưa chê cười thói này đã lâu, vì muốn cầu sinh thì lại sát sinh, đó là điều mà quỷ thần giận ghét. Ở vùng Trung Châu, người ta chỉ dùng hương đèn, tiền giấy, ngựa giấy, hoa quả, đồ chay để cầu đảo chứ không sát hại sinh mệnh loài vật. Đã giữ gìn lòng nhân từ, tô bồi phúc đức, muốn cầu thần ban cho tuổi thọ thì phải dùng lòng nhân từphúc đức, dâng hiến lòng thành chứ đâu phải ở vật ? ..." (VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ quyển 4, Điển Vựng 9 b, 10 a, 10 b, 11 a).

Lê Quý Đôn hiển nhiên không phải là nhà Phật học. Ông là kẻ bước ra từ cửa Khổng sân Trình. Tuy nhiên, ông đọc nhiều hiểu rộng, có thái độ bàng quan, nên những điều ông viết rất khúc chiết và thâm thúy. Xem ra, việc đốt giấy tiền có từ Trung Quốc, còn việc giết súc sanh để cúng tế lại là phong tục vùng Lãnh Nam (Việt Nam ?). Người xưa đã chê bai và chỉ ra chỗ sai lầm trầm trọng như vậy, lẽ nào đến ngày nay, thời đại khoa học phát triển mà mọi người còn đốt áo giấy, đồ mã và giết súc sanh để cúng tế thì quả là lạc hậu. Đừng biện bạch rằng xưa bày nay bắt chước, biết nó đã sai mà vẫn tin và làm theo thì tai hại vô cùng.

Vậy để hiểu Kinh Vu-lan mà Đức Phật chỉ dạy với mục đích gì, chúng ta cần phải khảo sát ý nghĩa trong văn kinh một cách nghiêm túc, từ đó chúng ta tự tạo cho mình một thái độ, một cách nhìn đúng đă鮠đối với kinh điển mà bậc Giác ngộ đã ân cần chỉ dạy.

IV. Ý nghĩa Kinh Vu-lan-bồn

Để hiểu ý nghĩa của kinh một cách chính xác nhất, lẽ ra phải dựa vào những bản chú sớ "tùy văn giải thích". Chú sớ Kinh Vu-lan-bồn như trên đã nói là rất nhiều, chư Tổ đã phân khoa, chiết tự, phân tích một cách tỉ mỉ. Hiện tạiViệt Nam chưa thấy dịch bộ Chú sớ nào, nên việc hiểu cặn kẽ Kinh Vu-lan-bồn là rất khó. Trước khi lược nói ý nghĩa của kinh, chúng ta cần khảo sát xuất xứ của kinh.

Các kinh nói về việc báo hiếu và Vu-lan, hiện tại trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH tập 16 có "Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh", 1 quyển, do Tam Tạng pháp sư An Thế Cao, người nước An Tức dịch sang tiếng Trung Quốc vào đời Hậu Hán; "Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh" do Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Thị dịch sang Hán văn vào đời Tây Tấn; "Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn Kinh", còn gọi là Báo Tượng Công Đức Kinh, khuyết dịch, phụ Đông Tấn Lục [2], "Phật Thuyết Hiếu Tử Kinh", Thất dịch nhân danh, phụ Tây Tấn Lục [3]. 

Trong ĐẠI TẠNG TÂN TOẢN VẠN TỤC TẠNG KINH tập 21 có rất nhiều chú sớ, tạm liệt kê như sau :

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Tân Ký, 2 quyển, ngài Tông Mật sớ vào đời Đường, ngài Nguyên Hiểu ký vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hội Cổ Thông Kim Ký, 2 quyển, do ngài Phổ Quán thuật.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hiếu Hạnh Sao Khoa, 1 quyển, phần khoa nghi do ngài Ngộ Vinh tập định vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Hiếu Hạnh Sao, 2 quyển, gồm 1 bản chánh văn Phật Thuyết Vu-lan-bồn Kinh, Vu-lan-bồn Niệm Tụng Thức và phần sớ sao, cũng do ngài Ngộ Vinh sao lục vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Sao Dư Nghĩa, 1 quyển, do ngài Nhật Tân soạn vào đời Tống.

- Vu-lan-bồn Kinh Tân Sớ, 1 quyển, do ngài Trí Húc sớ vào đời Minh.

- Vu-lan-bồn Kinh Sớ Chiết Trung Sớ, 1 quyển, do ngài Linh Huy soạn vào đời Thanh.

- Vu-lan-bồn Kinh Lược Sớ, 1 quyển, do ngài Nguyên Kỳ soạn vào đời Thanh.

Trên đây là các bộ kinh sớ rất nổi tiếng, được xếp vào Đại Tạng cũng như Tục Tạng; còn theo tài liệu của Phật Quang Đại Từ Điển thì có đến hơn 60 loại, trong đó có bộ Vu-lan-bồn Kinh Sớ của ngài Cát Tạng đời Đường, không hiểu sao lại không được xếp vào Đại Tạng. Bản Kinh Vu-lan-bồn trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH và bản được chép trong VU LAN BỒN KINH SỚ HIẾU HẠNH SAO của ngài Ngộ Vinh tương đối giống nhau, có thể là dị bản chứ không phải là đồng bản dị dịch, bản trong ĐẠI CHÁNH TÂN TU tương đối nhiều chữ hơn, câu cú đầy đủ hơn.

Xem qua các đề kinh sớ trên, ta đủ thấy chư Tổ nhiều đời đã dày công biên soạn, nào là nghĩa, sớ, sao, ký, chú và có cả khoa nghi nữa. Đọc qua các bộ này, chúng tôi thấy bộ Vu-lan-bồn Kinh Tân Sớ của ngài Trí Húc đời Minh là hay nhất. Tác phẩm này được Đại sư Trí Húc soạn khi Ngài còn là Sa-di và được ngài Đạo Phưởng tham đính [4]. Tác phẩm được chia thành hai phần, phần 1 là một bài tóm lược nội dung và ý nghĩa của kinh; phần 2 là giải thích cặn kẽ từng chữ của kinh. Văn chương dùng trong tác phẩm rất hay, giải thích gọn ghẽ nhưng rất sáng sủa, dễ hiểu. Vì phần này quá dài nên chúng tôi không thể dịch hết nguyên văn đưa vào đây, chỉ xin trích dịch vài đoạn và tóm lược nội dung phần giải thích đề kinh : 

"Kinh này lấy pháp cúng làm tên, lấy Tự tánh Tam bảo làm thể, lấy Hiếu từ làm tông, lấy sự cứu khổ ban vui làm dụng, lấy Đại thừa làm giáo tướng. Tất cả những phước điềnthế gian không gì hơn Tam bảo, đạo pháp xuất thế không gì trước Hiếu từ, muốn báo đáp thâm ân không gì cần yếu hơn là sự cứu khổ ban vui, muốn thành tựu được việc tế độ không gì lớn lao bằng pháp Vu-lan..."
Trong phần đầu này, ngài Trí Húc đã chia giáo tướng của Kinh Vu-lan thành 5 lớp, trong mỗi lớp lại chia thành 2 phần, một là giải thích theo sự, hai là giải thích theo nghĩa Quán tâm (). Năm lớp là :
  1. Nương theo sự và pháp Quán tâm để giải thích Danh.
  2. Nương theo sự và pháp Quán tâm để phân biệt Thể.
  3. Nương theo sự và pháp Quán tâm để làm rõ Tông.
  4. Nương theo sự và pháp Quán tâm để hiển bày Dụng.
  5. Nương theo sự và pháp Quán tâm để phán Giáo tướng.
Trong lớp thứ nhất鬠Đại sư Trí Húc đã giải thích đề kinh là tên của pháp cúng. Trong pháp cúng ấy có đầy đủ Tam bảo. Nghĩa Tam bảo trong phần này được giải thích rất tỉ mỉ, có thể nói đây là cách giải thích Tam bảo sâu rộng nhất. Nghĩa Vu-lan-bồn cũng được giải thích cặn kẽ, duy có điều ở đây đã giải thích "bồn" là vật cúng, rồi thăng hoa với những ý nghĩa thật phong phú, như nói : 
"Chén bát là bồn, bách vị ngũ quảthức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi ngạ quỷ. Nhiếp tâm là bồn, mười chi là thức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi cõi Dục. Niệm xứ là bồn, hành quán Tứ đếthức ăn, giải cái khổ treo ngược nơi ba cõi. Hoằng nguyện là bồn, Lục độ vạn hạnhthức ăn, giải cái khổ treo ngược Tứ khô [5]. Nhất tâm là bồn, bất tư nghì quán là thức ăn, giải cái khổ treo ngược Nhị biên. Nói một cách cụ thể thì dùng chén bát (bồn) và bá vị thức ăn làm cảnh chánh nhân duyên, nếu không có sự thì lý quán biết dựa vào đâu ? Nếu khônglý quán thì lực dụng của sự sẽ không sâu sắc. Có người chợt nghe thuyết này liền muốn bỏ sự mà theo lý, nếu quả vậy thì ngài Mục-liên khi mới được Lục thông cũng đã thành tựu được Niệm xứ bồn, Tứ đế thực, sao mẹ của Ngài vẫn chưa thoát khỏi cái khổ nơi đường Ngạ quỷ ?"
Ở phần Quán tâm của lớp thứ nhất, tác giả cũng đã giải thích pháp cúng Vu-lan-bồn rất sâu sắc : 
"Tịnh giới là khí (bồn), Vô tác Tứ đế, Bất Tư Nghì Quán Huệthức ăn, cúng dường tự tánh Nhất thể Tam bảo, giải thoát trọn vẹn cái khổ treo ngược của Bát đảo. Sớm đặt chân đến cảnh giới Nhất thật. Vô minh là cha, Tham ái là mẹ, ngay nơi đó được giải thoát. Trí độ là mẹ, Phương tiện là cha, nhậm vận tự tại mà nhập vào trí huệ Vô công dụng, cho nên gọi là Vu-lan-bồn".
Ở lớp thứ hai, tác giả nương vào sự để phân biệt Thể của kinh. Sư nói : 
"Tất cả các kinh đều có chánh thể, nếu không có chánh thể thì không thể phân biệt được tà đảo, như vậy thì thành ma thuyết. Các kinh điển Đại thừa đều luận Thật tướng là ấn, là chánh thể của kinh. Thật tướng tuy có một nhưng có nhiều tên gọi. Như trời Đế Thích chỉ có một người nhưng có nhiều tên, cùng khắp các cõi trời. Thật tướng cũng vậy ! Một pháp nhưng có nhiều tên gọi, cùng khắp các kinh điển. Tên kinh thì khác, nhưng lấy cái khác đó để gọi cho một cái thể chung, đối với lý thì chẳng sai. Nay trong Kinh Vu-lan nói : "Phải nhờ thần lực của mười phương tăng". Lại nói : "Trước khi thọ thực đàn trai... trước Phật tiền hoặc tự tháp trung, chư tăng chú nguyện viên dung, sau rồi mới tự thọ dùng bữa trưa". Như vậy, chú nguyện tức là pháp, có đầy đủ Tam bảo. Ngài Mục Liên lại nói : "Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo", Tam bảo ở đây chính là Tự Tánh của tất cả chúng sanh. Nếu không có đủ công đức của Tam bảo thì phàm và thánh xa nhau, tối và sáng mãi cách ngăn, phàm không cảm được mà thánh cũng chẳng ứng được. Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba vốn không sai biệt, mê và ngộ tuy khác nhau nhưng thể tánh vẫn thường nhất. Do đó chư Phật ở trong tâm chúng sanh, nương theo sự mà gửi cái lý. Cảm được chư Phật trong tâm chúng sanh thì chư Phật trong tâm chúng sanh vô duyên vô niệm, nhậm vậnứng hiện..."
Tiếp theo, tác giả phân biệt Tam bảo có 4 nghĩa, rồi giải thích cặn kẽ 4 nghĩa này, bao hàm Trụ trì Tam bảo, Thắng nghĩa Tam bảo, Đại thừa biệt tướng Tam bảoNhất thể Tam bảo. Sau đó, tác giả lại nương vào pháp Quán tâm để biện biệt Thể của kinh, đại ý "Tất cả chúng sanh tức là tướng của Niết-bàn, không thể đoạn diệt, chư Phật cầu giải thoát ngay nơi tâm hạnh chúng sanh. Nếu quán tâm như thế thì có thể đầy đủ tất cả Phật pháp. Cho nên nói : Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ nơi tâm tưởng chúng sanh. Nếu không quán tâm để phân biệt rõ cái thể ấy của kinh thì làm sao nói rằng trong mỗi sát-na đều nhớ nghĩ đến cha mẹ mà tu hiếu từ đây ?"

Lớp thứ ba là nương nơi Sự để làm rõ Tông chỉ. Đại sư Trí Húc viết : 

"Giới tuy có nhiều vô lượng, nhưng lấy Hiếu làm tông. Vạn hạnh tuy nhiều, nhưng Hiếu hạnh vẫn là đứng đầu. Do đó, Đức Thích-ca từ vô lượng kiếp đã luôn tu hạnh Báo hiếu; ngài Mục Liên ngay khi thành đạo đã liền nghĩ đến ân bú mớm của cha mẹ, nên biết không phải sau khi thành đạo mới nghĩ đến cha mẹ, mà là do nhân duyên muốn báo đáp thâm ân mới tu Thánh đạo. Giống như Địa Tạng Vương Bồ-tát, kiếp xưa vốn là người con gái Bà-la-môn, vì muốn cứu độ mẹ nên mới phát Đại Bi Tâm, khi nào còn một chúng sanh đau khổ thì nguyện không thành Phật đạo. Nhân duyên phát tâm của chư Phật, Bồ-tát cũng tương tợ như thế".
Tiếp theo, Đại sư Trí Húc phân biệt chữ Hiếu thành hai nghĩa là Hiếu thế gian và Hiếu xuất thế gian, trong đó mỗi loại lại chia chẻ thành nhiều nghĩa để phân tích, dẫn chứng những gương hiếu hạnh của thế gianxuất thế gian, của nội giáongoại giáo. Đồng thời, đoạn này còn trích dẫn nhiều kinh luận liên quan để chứng minh, hiển bàytông chỉ của Kinh Vu-lan, như trích dẫn Luật Ngũ Phần, Kinh Phật Thuyết Hiếu Tử, Kinh Tỳ-ni Mẫu, Kinh Đốc Ý, Kinh Lễ của Nho gia... Nói chung, đoạn này tác giả đã tham khảo rất nhiều kinh sách, trích dẫn nhiều danh ngôn, sử dụng nhiều điển cố để dẫn dụ đâu là hiếu thế gian, đâu là hiếu xuất thế gian, pháp nào thuộc về quyền (phương tiện), pháp nào thuộc về thật (cứu cánh).

Ở đoạn kế tiếp, tác giả làm sáng tỏ ý nghĩa "Tâm từ bi chính là hiếu". Từ bi ở đây có 3 hạng : Sanh duyên từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ.

Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Ta đời đời thọ sanh nơi họ". Khi quán tưởng như thế, tất cả kẻ oán người thân đều bình đẳng. Trong bảy cảnh giới, tuần tự ban cho họ ba niềm vui, lấy đó để điều phục sân hận, phiền não, san tham và tật đố, cho đến chứng được Từ Tâm Tam-muội. Hễ ai có duyên với ta thì ta đều cứu khổ ban vui cho họ. Thâm ân của cha mẹ là sâu dày hơn cả, cho nên cha mẹ là những người đầu tiên mà ta phải cứu khổ ban vui.

Pháp duyên từ là quán tất cả các pháp đều từ duyên sanh. Cho nên Kinh Phạm Võng nói : "Tất cả đất, nước là thân trước của ta; tất cả lửa gió là chính thân thể của ta". Chúng sanh đều do Tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) hợp thành, không nhân ngã, không thọ mạng, Tứ đại đã không hai thì Từ tâm duyên đến cũng bất nhị. Khi quán tưởng như thế, kẻ oán người thân đều cùng một tướng, cho đến chứng đắc Từ Tâm Tam-muội, năng lực cứu khổ ban vui còn thù thắng hơn Sanh duyên từ.

Vô duyên từ là biết rõ Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba chẳng có gì sai khác. Cả pháp giớinhất tướng, chân thật bình đẳng, không trụ ở tướng của pháp và tướng của chúng sanh, quán Bồ-đề tức Phiền não, Niết-bàn tức Sanh tử, khởi thệ nguyện Vô tác, phá trừ gốc khổ; quán Phiền não tức Bồ-đề, Sanh tử tức Niết-bàn, khởi thệ nguyện Vô tác, ban phát niềm an lạc. Từ ở đây chính là Bi, Bi ở đây chính là Từ, xứng tánh khởi tu pháp viên đốn, hiện thành Tam-muội. Năng lực Đại từ bi này không thể nghĩ bàn.

Trong ba pháp Từ trên, Sanh duyên từ là pháp tu của chung cả Tam thừa, nhưng hàng Nhị thừa thì không có hoằng nguyện lợi tha; Pháp duyên từ thì hàng Nhị thừa cũng có một số ít tu tập được, còn chính là pháp tu của Bồ-tát; còn Vô duyên từ chính là Trung đạo đệ nhất nghĩa, hàng Nhị thừa không thể vói tới nổi. Ở đây, ý nghĩa Kinh Vu-lan đã trở thành pháp tu Đại thừa cao tột mà nếu khôngcăn cơ Đại thừa thì khó có thể lãnh hội được. Đại sư Trí Húc đã trích dẫn lời của Nho gia để làm rõ tông chỉ : Vô cớ mà làm thương hại đến một côn trùng, không phải là hiếu; vô cớ mà làm tổn hại đến một lá cây ngọn cỏ, không phải là hiếu. Nho gia còn nói như vậy, huống là Phật đạo thậm thâm? Tóm lại, hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, Tam bảo chính là pháp hiếu thuận cao tột.

Ở phần Quán tâm để làm rõ tông chỉ, tác giả đã phân tích rằng ngay nơi một niệm hiện tiền mà có đầy đủ Tam bảo, tùy thuận quán sát thì gọi là Hiếu. Như vậy, mê là bất hiếu và ngộ là hiếu. Khởi tâm động niệm mà trái nghịch với pháp tánh thì cả thập giới còn mê huống gì cha mẹ. "Ngộ thì Trí Độ Mẫu, Phương Tiện Phụ cùng được giải thoát; Mê thì Vô Minh Phụ, Tham Ái Mẫu cùng đọa vào nẻo khổ".

Lớp thứ tư là nương nơi sự để hiển bày lực dụng của kinh. Về phần dụng, Đại sư Trí Húc đã nói hết sức ngắn gọn, bởi hiểu được Danh, Thể và Tông rồi thì Dụng của Kinh không cần trình bày cũng tự rõ. Nói chung, "cứu khổ ban vui" chính là Dụng của Kinh. Cứu khổ sanh tử, ban vui Niết-bàn; cứu cái khổ Nhị biên, ban niềm vui Trung đạo... Ở phần Quán tâm để hiển dụng, Sư nói : Chỉ cần quán một niệm hiện tiền có đầy đủ thể tánh Tam bảo thì có thể bạt trừ được tự tánh Khổ, Tập trong mười cõi một cách trọn vẹn, cùng với tự tánh của mười cõi tịch diệt viên mãn.

Lớp thứ năm là nương theo sự để phán thích giáo tướng của kinh. Lý luận ở đoạn này rất sắc bén, minh tuệ. Trước hết, Sư nói Kinh này thuộc về giáo Đại thừa Phương Đẳng. Rồi lý luận rằng cả hai tạng Đại thừaTiểu thừa đều thâu về Bồ-tát tạng. Có người hỏi : Ngài Mục-kiền-liên chứng được lục thông trong lúc Đức Phật giáo hóa mới có 12 năm, tức thuộc thời kỳ giáo lý A-hàm, sao gọi là thuộc Đại thừa Phương Đẳng? Sư đáp : Người chỉ biết 5 thời riêng biệt mà không biết được cái nghĩa chung của 5 thời, cần phải dựa trên nghĩa lý để xác định nghĩa vị của kinh ấy thuộc bộ nào mới khỏi sai lầm. Ở phần Quán tâm để phán thích giáo tướng, Sư nói : Tâm có đầy đủ các thừa nên chính tâmgiáo tướng. Nếu Tâm là Đại thừa thì không có gì không chuyên chở hết. Chỉ cần thành tựu một niệm quán tâm này thì có thể chuyển hóa hết tất cả tâm, tâm sở. Nếu không nương nơi Sự để giải thích kinh thì không thể hiểu được những điều mà Đức Như Lai đã ân cần giáo hóa. Nếu không dựa vào sự Quán tâm mà giải thích thì không thể trong tất cả thời thường tu pháp cúng Vu-lan-bồn. Trong kinh nói : Trong từng ý niệm thường phải nghĩ đến cha mẹ v.v... chính là Đức Phật dạy chúng ta phải Quán tâm. Còn kinh nói : Ngày Rằm tháng Bảy mỗi năm đều tác pháp Vu-lan-bồn... chính là Đức Phật dạy chúng ta phải tu theo Sự. Còn nói : Tất cả Phật tử phải nên phụng trì pháp này, chính là khuyên chúng ta phải hành trì cả hai pháp Sự và Quán. Đại sư Trí Húc cho rằng chúng sanh từ vô thủy kiếp trôi lăn trong sanh tử vô minh, mê cả lý lẫn sự, phiền nãoác nghiệp nặng nề nên cần phải Sự Quán song tu.

Toàn bộ năm lớp Sự quán nói trên chỉ là giải thích đề kinh, sau đó ngài Trí Húc mới bắt đầu nhập văn giải thích. Từng câu từng chữ được Ngài phân tích thấu đáo, dẫn chứng cụ thể, đủ thấy giá trị của tác phẩm này. Tuy nhiên, để hiểu sơ lược ý nghĩa Kinh Vu-lan, chỉ cần hiểu đề kinh là cũng đủ cho ta thấy được tầm quan trọng và giá trị đích thực của kinh này trong Tam Tạng giáo của Phật. Hiểu được như thế thì việc tụng đọc, thọ trì của chúng ta mới có ích lợi thật sự. Chúng ta đã khởi được niệm Từ nào khi tụng đọc Thánh điển thậm thâm ?

V. Lạm bàn về lễ Vu-lan ở Việt Nam

Phật giáo truyền vào Việt Nam đã 20 thế kỷ. Chúng ta thường ca ngợi Phật giáo là nguồn sống của dân tộc, văn hóa Phật giáovăn hóa dân tọ䣮 Đặc trưng của văn hóa trong dân gian, không gì có tính đại chúng bằng lễ hội. Lễ hội biểu hiện được nét đẹp tín ngưỡng, hình thái phong phú, vui tươilành mạnh. Lễ hội còn có tác dụng hướng đạo, khuyến hóa rộng rãi nhất. Cho nên, muốn phát triển văn hóa Phật giáo, việc chú trọng lễ hộiviệc làm hết sức cần thiết.

Trong Phật giáo, đặc biệtPhật giáo Việt Nam, lễ lớn chỉ có hai ngày: Phật Đản và Vu-lan. Các lễ hội mùa Xuân mặc dù mang nặng màu sắc Phật giáo, nhưng nói cho cùng, đó là lễ hội ảnh hưởng từ tín ngưỡng Phật giáo chứ chưa phải là lễ hội Phật giáo đích thực. Ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam có rất nhiều lễ hội truyền thống gắn liền với chùa chiền được duy trì, gần như tỉnh nào cũng có, như Lễ hội chùa Hương, chùa Thầy (Hà Tây), giỗ Đức Thánh Trần (Côn Sơn, Kiếp Bạc - Hải Hưng), hội chùa Dâu (Hà Bắc), hội Quán Âm (Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng) v.v... Nhưng, những lễ hội này chỉ mang tính chất địa phương, mang nặng màu sắc tín ngưỡng dân gian. Giáo lý Phật giáo nói chung và nét đẹp văn hóa đặc thù của Phật giáo gần như chưa được chú ý.

Thiển nghĩ, một ngày lễ như lễ Noel của Thiên Chúa giáo - một tôn giáo mới được truyền vào Việt Nam mấy trăm năm, với lượng tín đồ chưa được 1/10, mà lễ Noel đã được người ta chào đón rầm rộ ở các tỉnh thành như thế nào. Trong khi lễ Phật Đản hoặc Vu-lan, với truyền thống và lượng tín đồ đông đảo gần như tuyệt đối, tại sao lễ Phật Đản và Vu-lan không được nâng lên ở hàng Quốc lễ ?

Văn hóaquốc hồn quốc túy của dân tộc. Hẳn không ai dám phủ nhận vai trò của Phật giáo trong kho tàng văn hóa dân tộc. Thế mà thực chất, ngay nơi hàng ngũ tín đồ Phật giáo, hai chữ Vu-lan đối với họ cùng còn mơ hồ

Trong ca dao dân gian có câu : "Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân".

Xá tội vong nhân thôi ư? Thế thì ý nghĩa tích cực của Vu-lan nằm ở chỗ nào, nếu ngoài ý nghĩa hiếu hạnh mơ hồ đối với người đã khuất? Điều này không thuộc về phía quần chúng, lại cũng không phải của nhà nước, mà là của những người lãnh đạo tinh thần, đại diệnGiáo hội Tăng-già.

Không đơn thuần chỉ là bảo vệ nét đẹp truyền thống, bởi như trên đã nói, truyền thống về lễ Vu-lan ở Việt Nam chưa có gì đặc sắc lắm. Chúng ta còn cần phải phát huy, tìm tòi những thứ hay, những điều tốt đẹp nơi những nền văn hóa khác, miễn sao phù hợp với giáo lýtín ngưỡng của tôn giáo mình. Chắc hẳn có người sẽ cho như thế là lai căn, là vay mượn? Thì đã sao nào? Ngay đến việc "Bông hồng cào áo" chẳng phải là sự vay mượn của một văn hóa khác đó sao? Thế mà từ khi nó được thực hiệnViệt Nam (khoảng thập niên 60) đến nay, biết bao nhiêu loại hình nghệ thuật đã theo đó mà nảy mầm, nào là thơ, nhạc, họa, kịch..., đến nỗi nếu không biết, dù hết sức mới mẻ, nhiều người vẫn cứ tưởng chuyện cài hoa hồng trong lễ Vu-lan là "nét đẹp truyền thống" của Phật giáo. Chúng ta nghĩ gì về vấn đề này?

Nguyên nhân mà lễ Vu-lan không được nhân rộng và tổ chức thành lễ hội đàng hoàng, theo thiển ý của chúng tôi, là vì lễ Vu-lan chỉ được tổ chức tập trung tại các chùa viện. Phật tử ghi tên cầu siêu Cửu huyền thất tổ, mỗi gia đình một cái sớ dài lê thê, có chùa đọc mỗi đêm mấy tiếng đồng hồ mới xong tên của các hương linh. Phật tử đến ngồi lắng nghe tới tên cha mẹ, gia đình của mình, ngáp ngắn ngáp dài chờ đợi. Ở trên thì đọc lướt thật nhanh cho mau hết, ở dưới thì nghe không kịp, nhiều khi đọc qua rồi mà không biết, đâm ra lo lắng, sợ cha mẹ mình không nghe được tên thì... không biết rằng mình có hiếu (!). Ngày lễ Vu-lan không phải là Quốc lễ, hàng Phật tử ai đến chùa thì được nghe pháp, tụng kinh, tham dự các hoạt động văn hóa như văn nghệ, cài hoa. Còn nhiều người bận việc làmcông sở thì không thể đến chùa trong ngày này, nên lâu dần quên cả ngày Đại lễPhật giáo thường gọi là Vu-lan Thắng Hội. Thắng hội là hội lớn, hội thù thắng hơn hết, nhưng rốt cuộc chỉ còn trên danh nghĩa.

Vào ngày lễ Noel, các tín đồ Thiên Chúa mỗi nhà đều có sắm sửa một cây thông, treo đèn hoa lộng lẫy để đón mừng. Tại sao ta không khuyến tấn Phật tử cũng tổ chức lễ Vu-lan trong từng gia đình? Chẳng hạn như cũng quét dọn nhà cửa sạch sẽ, quy định một giờ giấc nào đó trong ngày Rằm tháng Bảy, con cái sẽ tặng hoa cho cha mẹ, nói một điều gì đó để tỏ lòng hiếu thuận, cũng treo đèn hoa, thắp nến, chọn hoa sen làm biểu tượng Phật giáo để trưng bày trong ngày này. Nếu giáo hội soạn được một nghi thức đàng hoàng cho buổi lễ cài hoa trong gia đình được thì càng tốt. Sau buổi lễ tại gia đình, Phật tử sẽ đến chùa nghe pháp, hoặc dự một lễ hội mang tính chất đại trà tổ chức đặc biệt tại một cơ sở Phật giáo nào đó trong quận huyện, làng xã. Lễ hội tập trung phải hết sức đặc biệt, như triển lãm tranh tượng, thư pháp, hàng mỹ nghệ với chủ đề Vu-lan, tổ chức văn nghệ, ca hát, phát hành các đặc san nói về công ơn cha mẹ, tổ chức các cuộc thi mang hình thái sinh hoạt dân gian như đua thuyền, biểu diễn võ thuật v.v... Người đến tham dự lễ hội không nhất thiết phải là Phật tử mà bất kỳ già trẻ sang hèn, không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp. Dần dần, hình thức lễ hội này sẽ thành truyền thống, tốt đẹplợi lạc biết bao, tác dụng giáo hóa của nó cũng hữu hiệu vô cùng.

Trên đây cũng chỉ là gợi ý, hy vọng những người có tâm đối với văn hóa Phật giáo sẽ tư duysáng tạo, để cho ngày lễ Vu-lan trở thành một ngày lễ có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thể quần chúng Việt Nam.


Chú Thích

(1) Theo VU-LAN-BỒN KINH TÂN SỚ của ngài Trí Húc, Ngũ quả là chỉ cho 5 phần của một cây : Căn, hành, diệp, hoa, quả (rễ, thân, lá, hoa, quả). Còn theo VU-LAN-BỒN KINH SỚ HIẾU HÀNH SAO của ngài Ngộ Vinh, Ngũ quả gồm : 1/ Hạch quả (loại quả có hạt, như Táo, hạnh, đào, lý...), 2/ Phu quả (loại quả có da, như Dưa, lê, táo tây, dâu...), 3/ Xác quả (loại quả có vỏ, như Dừa, hồ đào, thạch lựu...), 4/ Cối quả (loại quả có vỏ sần sùi, như Tùng, bá...), 5/ Giác quả (loại quả có góc cạnh, như Ấu, các loại đậu...).

(2) (bản đời Tống đề là Thất dịch, phụ Tây Tấn Lục, bản đời Nguyên và bản đời Minh đề là Thất dịch nhân danh, phụ Đông Tấn Lục).

(3) (bản đời Tống và đời Nguyên ghi là Thất dịch, bản đời Minh ghi là Thất dịch nhân danh).

(4)Bồ-tát Sa-di Cổ Ngô Trí Húc tân sớ, Bồ-tát Tỳ-kheo Ôn Lăng Đạo Phưởng tham đính.

(5) Tứ khô : Gọi đủ là Tứ khô tứ vinh (Bát đảo), tức 4 thứ chấp trước Vô thường, Phi lạc, Vô ngãBất tịnh của hàng Nhị thừa (Tứ khô) và 4 thứ chấp trước Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của phàm phu (Tứ vinh).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37861)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14251)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20090)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14351)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35553)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19691)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23186)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10739)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20195)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9947)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14857)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17645)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13180)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31146)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25730)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17490)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12273)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12254)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11748)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12346)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9186)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8483)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9946)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9751)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12025)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14410)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9893)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11201)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8288)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10959)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14073)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9895)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15197)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13031)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23068)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23964)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12557)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17767)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15041)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16540)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16082)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17624)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11576)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11610)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17814)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10510)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11311)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11028)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36394)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9665)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34698)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10227)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10465)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12191)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13622)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14644)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9140)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24795)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11626)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10305)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15928)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15559)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14508)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12992)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12436)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14563)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18343)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9562)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18503)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18569)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18822)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11823)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47971)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11056)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11055)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12542)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31758)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11654)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant