Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giải trình ý nghĩa Vu Lan

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9048)
Giải trình ý nghĩa Vu Lan

GIẢI TRÌNH Ý NGHĨA VU LAN
THÍCH PHƯỚC SƠN

Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, các Phật tử cử hành lễ Vu Lan báo hiếu một cách trang trọng, đầy cảm động, theo truyền thống Phật giáo Bắc phương, đó là một sinh hoạt tôn giáo bao hàm rất nhiều ý nghĩa

Sự tích báo hiếu này phát xuất từ kinh Vu-lan-bồn, qua tấm gương cứu mẹ của tôn giả Mục-kiền-liên, vào thời đức Phật còn tại thế, ở nước Ấn-Độ. Ðến khi Phật giáo truyền vào nước ta, kết hợp với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam, Vu-lan đã trở thành một ngày lễ mang đầy tính cách thiêng liêng. Do thế, ngày nay Ðại lễ Vu lan không còn là ngày lễ riêng của người Phật tử, mà đã trở thành ngày truyền thống chung cho cả dân tộc. Bởi vì, tất cả mọi người có mặt trên cõi đời này, từ một em bé thơ ngây đến những cụ già đầu bạc, từ một người dân bình thường cho đến các bậc cao sang quyền quí, không một ai là không do cha mẹ sinh thành, không một ai là không do cha mẹ dưỡng nuôi chăm sóc từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành–ngoại trừ một số ít người bất hạnh. Chính nhờ cha mẹ mà ta mới có hình hài này, và nhờ có hình hài này ta mới chu toàn được nghĩa vụ của một người công dân lương thiện, hầu đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một xã hội công bằng văn minhthịnh vượng

Như vậy, Hiếu đạo hiển nhiên là một đạo lý nghìn đời của những dân tộc văn minh, mà dân tộc ta từng tự hào là một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Do thế, trong quá khứ, các nhà đạo đức của nước ta đã có công sưu tập những mẩu chuyện hiếu thảo của tiền nhân gom thành 20 sự tích, viết thành một quyển sách lấy tên là Hai Mưoi Gương Hiếu, nghĩa là 20 tấm gương hiếu thảo. Nội dung tập sách này dùng để giáo dục mọi người giữ gìn hiếu đạo. Mà trong đó các tấm gương hiếu thào của vua Trần Anh Tông đối với Phụ hoàng, vua Tự Ðức đối với Mẫu hậu là tiêu biểu hơn hết. Những tấm gưong này lâu nay đã được lưu truyền trong dân chúng và cũng từng được nhiều người ngưỡng mộ noi theo, dù chưa được phổ cập rộng rãi. Có điều, chúng ta phải công bằng mà nhìn nhận rằng trải qua hàng nghìn năm dân tộc ta từng chung sống và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa không ít. Thế nên, từ bao đời, chúng ta đã hiểu thế nào là Tam cương, ngũ thường, thế nào là Tam tùng, Tứ đức, thế nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, thế nào là Phụ từ tử hiếu, Phu xuớng phụ tùy v.v. . . Khi nói về Ðạo hiếu thì chúng ta nhớ đến một câu nói trong kinh Thi Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực (Cha sinh ra ta, mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, khác nào như trời cao khôn cùng) như một lời tuyên ngôn về Hiếu đạo. Còn khi đề cập đến công ơn từ mẫu thì đã có công thức chín chữ Cù lao Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (nuôi cho bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (xem tính tình mà bảo ban), phúc (bảo vệ). Ðồng thời các nhà luân lý Trung Hoa cũng sưu tập các gương hiếu thảo cổ kim viết thành một quyển sách gọi là Nhị thập tứ hiếu (24 tấm gương hiếu thảo). Mà trong đó có những tấm gương tiêu biểu như vua Hán Linh Ðế đích thân sắc thuốc dâng cho mẹ, mỗi khi Mẫu hậu ốm đau. Ðinh Lăng khắc tượng cha mẹ để thờ, và hằng bữa dâng cơm nước lên hai đấng sinh thành như lúc song thân còn sống. Còn Mạnh Tông thì khóc măng, Quách Cự chôn con, Vương Tường nằm giá v.v..., toàn là những tấm gương hiếu thảo rất gây ấn tượngxúc động lòng người . Nhưng đặc biệt nhất là đức Khổng Tử đã đề xuất cách báo hiếu rất minh bạch và sâu sắc. Ngài bảo rằng bổn phận làm con không những cung phụng cho cha mẹ những tiện nghi vật chất mà điều cần thiết là phải thể hiện tình cảm chân thành, thương yêu cha mẹ hết lòng. Ngài nói: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ cung kính, nuôi duỡng cha mẹ phải hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải rất mực trang nghiêm) (Minh Tâm Bảo Giám). 

Ðó là những nguyên tắc báo hiếu rất thấu đáo và thiết thực. Có thể nói, từ ngàn xưa dân tộc ta đã thấm nhuần những chuẩn mực đạo đức rất nhân bản và thấm đượm tình người. Nhờ đó, tạo tiền đề cho một nếp sống lấy nhân nghĩa làm gốc, theo tinh thần ơn đền nghĩa trả, ăn quả nhớ người trồng cây, xem tiền tài như tro bụi, trọng nhân nghiã tựa nghìn vàng. Chính nhờ tuân thủ những đạo lý này mà nhân dân ta có một nếp sống thuần lương đức hạnh, duy trì được tôn ty trong gia đình, ổn định được trật tự ngoài xã hội, giữ gìn kỷ cương của đất nước, tạo nên một nét nhân văn rất đặc sắc

Về mặt thế thườngthực tiễn thì những cách báo hiếu như vừa trình bày trên đây thật sự tỏ rahiệu quả và khá tốt đẹp; điều đó không một ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu hiểu báo hiếu theo nghĩa rốt ráo, vừa vật chất, vừa tinh thần, xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai, thì có lẽ chỉ có Phật giáo mới giới thiệu một mô hình báo hiếu tương đối hoàn thiện, như tấm gương báo hiếu của tôn giả Mục-kiền-liên mà kinh Vu-lan-bồn đã đề cập. 

Kinh này trình bày sự kiện tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy thỉnh cầu chư Tăng mười phương chú nguyện cầu siêu độ cho mẹ mình vào dịp Rằm tháng Bảy, ngày chúng Tăng Tự tứ. Và nhờ sức chú nguyện của Tăng chúng mà bà Thanh Ðề đã thoát khỏi cảnh ngạ quỉ, sinh về thiên giới. Qua sự tích này, chúng ta có thể khởi lên một vài thắc mắc và xin được mạo muội giải trình: 

Thứ nhất, kinh Vu-lan-bồn được biết là do chính Phật tuyên thuyết tại Ấn Ðộ, rồi truyền sang Trung Hoa, sau đó đến nước ta, trải qua thời gian khá lâu. Trong đó, có thể có một vài chi tiết bị thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn là bắt nguồn từ một câu chuyện có thật, mang tính khái quát về phương pháp báo hiếu cha mẹ theo tinh thần Phật dạy. Mà đức Phật vốn là bậc: “Chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” (Người nói đúng đắn, nói chắc chắn, nói như thật, nói không hư dối, nói không mâu thuẫn). [kinh Kim Cương]. Hoặc như lời phát biểu của tôn giả A-nậu-lâu-đà trong kinh Di Giáo: “Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng chân lýThế Tôn dạy thì không thể nào làm cho khác được”. Ðức Phật lại là bậc Vô Thượng Chánh GiácNgũ nhãn, Lục thông. Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn. Nhục nhãn là cái thấy của những người thường như chúng ta, Thiên nhãn là cái thấy của chư Thiên, Tuệ nhãn là cái thấy của hàng Nhị thừa, Pháp nhan là cái thấy của các vị Bồ tát, và Phật nhãn là cái thấy của chư Phật. Mà Phật có đủ Ngũ nhãn nên Ngài thấy được quy luật nhân quả tường tận, không những thấy được những sự việc hiện tại mà còn thấy cả những sự kiện thuộc quá khứvị lai. Không những thấy được những sự vật hữu hình mà còn thấy cả những sự vật vô hình. Về không gian thì Ngài thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới
Về thời gian thì Ngài thấy suốt từ vô thỉ cho đến vô chung. Thế còn cái thấy của chúng ta thì dựa trên cơ sở nhục nhãn của một tâm trí còn đầy ắp vô minh cát bụi. Cho nên tầm nhìn của chúng ta còn rất nhiều hạn chế là lẽ đương nhiên. Vì vậy, chúng ta không nên đem cái thấy biết hạn cuộc của mình ra làm chuẩn mực để đo đạc tri kiến của Phật, rồi sinh tâm hoài nghi những điều Phật dạy. Huống nữa, đức Phật đã từng tuyên bố: “Như Lai vì lòng thương đời, vì hạnh phúc của chư Thiênnhân loại nên thị hiện trong cỡi đời này”. Qua đó có lẽ chúng ta đã lãnh hội đưọc phần nào hoài bão của Phật qua những lời kinh còn truyền lại. 

Một điểm thắc mắc nữa là có chắc chư Tăng đủ đạo lực hóa giải được tội báo của bà Thanh Ðề hay không?–Thiển nghĩ, việc này thật khó trả lời. Vì nó quá huyền nhiệm. Nhưng có lẽ ai có tu thì mới biết được giá trị của sự tu hành là như thế nào, giống như nguời uống nước lạnh hay nóng chỉ có mình mới rõ. Tuy thế, chúng ta thường nghe trong nhân gian người ta từng nói: “Chúng đức như hải”, nghĩa là đức độ của chúng tăng bao la như biển cả. Hay, “Ðạo cao long hổ phục, đức trọng quỉ thần kinh” (Những bậc đạo hạnh cao siêu thì cọp rồng đều nép phục, và những vị có đức độ sâu dày thì quỉ thần đều kiêng nể). Và trong kinh Pháp Cú cũng minh họa hình ảnh của một bậc A-la-hán đã hoàn toàn giái thoát 

Thành thị hay xóm làng, 
Thung lũng hay đồi cao, 
La-hán trú chỗ nào, 
Nơi ấy được an lạc

Ngoài ra, cổ đức cũng từng mô tả về chân dung của một bậc thiện nhân cao khiết: “Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất” (Cùng sống chung với bậc hiền thiện như vào trong ngôi nhà được chất đầy những đóa hoa lan). 

Ðó là đôi nét về hành trạng của những bậc Thánh thiện, giải thoát. Chúng ta vẫn biết rằng trong số chư Tăng mà Mục-liên thỉnh cầu chú nguyện cho thân mẫu của mình không phải ai cũng đã đắc đạo, nhưng có điều chắc chắn là trong đó có nhiều người đã thành tựu đạo nghiệp đến một mức độ nhất định, cũng như không ít người suốt đời tâm nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành. Với những người có đức độ như vậy huớng tâm lực nguyện cầu cho bà Thanh Ðề, ắt hẳn tâm bà sẽ chuyển biến từ ác niệm sang thiện niệm. Mà niệm ác thì chuốc lấy quả khổ, còn niệm thiện thì hưởng được phước lành. Vì tam giới do tâm tạo. Tâm giống như một họa sĩ có thể vẽ nên địa ngục mà cũng có thể tạo ra thiên đường. Cho nên: “Tiền tâm tác ác như vân phú nhật, hậu tâm khởi thiện như cự tiêu ám” (Tâm trước làm ác như đám mây che khuất mặt trời, tâm sau khởi thiện như ngọn đuốc xua tan bóng tối) [Kinh Luật Dị Tướng]. Khi tâm bà Thanh Ðề đã chuyển hướng, kết hợp với mãnh lực chú nguyện của các bậc Thánh Tăng giàu lòng từ mẫn, thiết nghĩ, bà được giải thoảt khỏi cảnh u đồ, sinh lên thiên giới là điều có thể hiểu được. Trái lại giả sử tâmbà vẫn giữ ác niệm trước sau như một, thì dù cho với đạo lực từ bi cao cả như chư Phật, chung cục cũng không thể nào cứu vớt được bà. 

Qua sự kiện này nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chết chưa phải là hết mà vẫn còn diễn tiến liên tục qua nhiều đời sống khác. Mọi người sống trên thế gian này, nếu như chưa chứng được Thánh quả, giải thoát khỏi khổ đau, đạt đến Niết-bàn vĩnh cửu, thì còn bị định luật sinh tử luân hồi chi phối, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, sinh tử, tử sinh bất tận; hễ làm phước thì hưởng quả vui, gây ác thì chuốc khổ báo. Tất cả loài hữu tình đều phải chịu trách nhiệm về ba nghiệp do mình tạo ra. Thế nên, trong hiện tại phải nỗ lực vun bồi công đức, gây tạo phước lành, tránh xa việc ác để mai sau được mãi mãi thăng tiến trên con đường Thánh thiện

Như vậy là chúng ta đã có thể tin tưởng được luật nhân quả gieo nhân nào gặt quả nấy. Thế nhưng, dựa vào niềm tin này có người sẽ nêu lên câu hỏi: “Cha mẹ tôi lúc sinh tiền làm nhiều việc phước thiện nên sau khi chết, nếu như không thành bậc Thánh thì cũng được sinh lên cõi trời hưởng mọi phước lạc, chứ đâu có đọa vào ngạ quỉ khổ sở như bà Thanh Ðề mà phải gây tạo công đức, cầu thỉnh chư Tăng cứu độ?” 

Qua thắc mắc này, người viết xin được trao đổi như sau: Chúng ta từng nghe Phật dạy: “Hà nhân vô quá, hà giả vô khiên” (Ai mà không có lỗi, ai mà không có tội); cho nên, ngoại trừ các bậc Thánh đã đoạn trừ hết ba độc, còn tuyệt đại đa số chúng ta đang sống trong cõi đời này thì mấy ai dám cho là mình không gây ra ít nhiều lầm lỗi. Mà đã có lỗi thì sau khi qua đời thường bị đọa lạc, mà đã đọa lạc thì rất cần đến thân nhân làm phước hồi hướng để cứu vớt cho mình, đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu như cha mẹ ta đều được giải thoát, không còn đọa lạc, thì những công đức mà mình đã tạo ra để hồi hướng cho họ vẫn còn nguyên vẹn chứ không hề suy suyển chút nào. Những công đức ấy giống như một thứ ngân khoản mà mình ký gởi vào ngân hàng–một loại ngân hàng bất hoại, vĩnh cửu, không có bất cứ một thứ gì có thể phá huỷ được–hễ khi nào cần đến thì mình lấy ra sử dụng. Hơn nữa, hành vi báo hiếu của mình không những có kết quả ở tương lai mà có kết quả ngay trong hiện tại. Vì lẽ, khi ta thực hiện một nghĩa cử cao đẹp, làm một việc hợp với đạo lý thì tâm hồn ta cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản, mà những người xung quanh cũng nhìn ta với đôi mắt ái mộ và đầy thiện cảm. Nhờ đó, khi cần tham gia một việc công ích nào thì nhân cách của mình được mọi người tín nhiệm, lời nói của mình được mọi người tin tưởng. Thiết nghĩ, sống trên cuộc đời nầy mà được tha nhân mến mộ, tin cậy, thì quả thật là một phần thưởng cực kỳ cao quí. 

Một điểm đặc biệt khác là trong thế gian này, có thể có những người không hiếu thảo với cha mẹ, nhưng không một ai là không mong muốn con cháu hiếu thảo với mình. Mà muốn cho con cháu có lòng hiếu thảo thì không có cách nào hữu hiệu hơn là chính bản thân mình phải làm gương tốt. Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình; do thế, ta có quyền hy vọng chúng sẽ noi theo gương mình mà chu toàn hiếu đạo. Ðiều này các bậc tiền bối đã từng lý giải: 

“Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, 
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi. 
Bất tín đàn khán thiềm đầu thủy, 
Ðiểm điểm trích trích bất sai di” 
(Nếu mình hiếu với mẹ cha, 
Mai sau con hiếu với ta khác gì. 
Nếu mình ăn ở vô nghì, 
Ðừng mong con thảo làm gì uổng công
Kìa xem giọt nước xuôi dòng
Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi)

Hiện nay các phương tiện truyền thanh, truyền hình giới thiệu những loại hình nghệ thuật những phim ảnh rất đa dạng. Tuy nhằm mục đích giải trí và làm phong phú kiến thức của công chúng về những chân trời mới, trong đó tiềm tàng những gương sáng, cách giáo dục đạo đức hiếu thuận; nhưng thị trường điện ảnh, sách báo còn lọt không ít những loại phim ảnh sách báo chứa đựng khá nhiều độc tố. Ðối với người lớn, vì phần đông đã được trang bi bằng những vốn liếng văn hóa truyền thống, đã từng trải nghiệm cuộc đời, nên khi thưởng thức các loại hình ấy biết cách gạn đục khơi trong, tiếp thu những phương diện tích cực, loại bỏ những khía cạnh tiêu cực; do đó, tương đối ít nguy hiểm. Thế nhưng, đối với giới trẻ là những người đang dồi dào sinh lực, thường có khuynh hướng phiêu lưu mạo hiểm, bản thân lại chưa thấm nhuần đạo đức truyền thống, chưa trải qua kinh nghiệm trường đời, cho nên khi thuởng thức những loại hình nghệ thuật ngoại lai, không những họ tiếp thu nét tinh hoa của chúng mà cùng lúc hấp thụ luôn cả những độc tố. Những độc tố ấy đến khi phát tác sê làm cho thể xác tàn tạ, tâm hồn băng hoại, đưa đến gia đình tan rã, xã hội rối loạn, và đất nước bất ổn. Vì vậy, thiết nghĩ các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục cần phải hết sức cảnh giác đề phòng, và giới chức có thẩm quyền cần phải quan tâm nhiều hơn nữa gạn lọc những độc tố tiềm tàng trong các loại phim ảnh ngoại lai, chọn lựa cẩn thận những loại hình nghệ thuật đứng đắn, trước khi cho trình chiếu. Có như vậy, may ra mới tránh bớt những hậu quả đáng tiếc mà lâu nay báo chí đă phản ảnh khá nhiều. 

Thế còn các loại hình nghệ thuật và những mô thức giáo dục truyền thống thì sao? Thiển nghĩ, các loại hình này đã trải qua nhiều đời, các bậc hiền nhân thánh triết của ta đã tốn nhiều công sức gạn lọc, loại bỏ những nhược điềm và tô bồi những ưu điểm. Do thế, những mô hình ấy tương đối bảo đảm tính an toàn; nếu như không làm thăng hoa phẩm hạnh của con người đến đích chân thiện mỹ, thì cũng không đến nỗi gây ra những tác hại nghiêm trọng

Thiết nghĩ, dịp lễ Vu-lan báo hiếu cũng là một cơ hội tốt đẹp để cho những người con Phật chu toàn hiếu đạo dối với tứ thân phụ mẫu, với cửu huyền thất tổ và những thân nhân quá cố. Mà làm tròn đạo nghĩa cao đẹp của một con người cũng là phương thức khẳng định nhân cách của một công dân lương thiện, trong một đất nước có truyền thống văn minh. Xin thành tâm kính chúc quí vị, ai nấy đều là những dâu hiền, con thảo, bản thân được nhiều an lạc, gia đình tràn đầy hạnh phúc, trong mùa báo hiếu Vu-lan.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19412)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18525)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16046)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29863)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25455)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21602)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17805)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20810)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26314)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33319)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52136)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22869)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23404)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39635)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22374)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6835)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22722)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69795)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43999)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23060)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35027)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44084)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42907)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44409)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24906)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24352)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39200)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39226)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17250)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18027)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19248)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35648)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24208)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19582)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20397)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18296)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18987)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18933)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17466)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19307)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30826)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19176)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20508)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19537)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19758)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29812)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17826)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19384)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19867)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58756)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24401)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23507)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39752)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26708)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40756)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22855)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22913)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21583)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18607)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22586)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21068)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19204)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20927)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20324)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30548)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17458)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16583)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16845)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14952)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14832)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22860)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16038)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16200)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15246)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26097)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17187)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15784)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19764)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17667)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14674)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14730)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19120)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15108)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33038)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17485)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19124)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21814)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22996)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16617)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16504)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22980)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26363)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12738)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29506)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27707)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25903)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18455)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant