Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giải trình ý nghĩa Vu Lan

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9035)
Giải trình ý nghĩa Vu Lan

GIẢI TRÌNH Ý NGHĨA VU LAN
THÍCH PHƯỚC SƠN

Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, các Phật tử cử hành lễ Vu Lan báo hiếu một cách trang trọng, đầy cảm động, theo truyền thống Phật giáo Bắc phương, đó là một sinh hoạt tôn giáo bao hàm rất nhiều ý nghĩa

Sự tích báo hiếu này phát xuất từ kinh Vu-lan-bồn, qua tấm gương cứu mẹ của tôn giả Mục-kiền-liên, vào thời đức Phật còn tại thế, ở nước Ấn-Độ. Ðến khi Phật giáo truyền vào nước ta, kết hợp với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam, Vu-lan đã trở thành một ngày lễ mang đầy tính cách thiêng liêng. Do thế, ngày nay Ðại lễ Vu lan không còn là ngày lễ riêng của người Phật tử, mà đã trở thành ngày truyền thống chung cho cả dân tộc. Bởi vì, tất cả mọi người có mặt trên cõi đời này, từ một em bé thơ ngây đến những cụ già đầu bạc, từ một người dân bình thường cho đến các bậc cao sang quyền quí, không một ai là không do cha mẹ sinh thành, không một ai là không do cha mẹ dưỡng nuôi chăm sóc từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành–ngoại trừ một số ít người bất hạnh. Chính nhờ cha mẹ mà ta mới có hình hài này, và nhờ có hình hài này ta mới chu toàn được nghĩa vụ của một người công dân lương thiện, hầu đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một xã hội công bằng văn minhthịnh vượng

Như vậy, Hiếu đạo hiển nhiên là một đạo lý nghìn đời của những dân tộc văn minh, mà dân tộc ta từng tự hào là một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến. Do thế, trong quá khứ, các nhà đạo đức của nước ta đã có công sưu tập những mẩu chuyện hiếu thảo của tiền nhân gom thành 20 sự tích, viết thành một quyển sách lấy tên là Hai Mưoi Gương Hiếu, nghĩa là 20 tấm gương hiếu thảo. Nội dung tập sách này dùng để giáo dục mọi người giữ gìn hiếu đạo. Mà trong đó các tấm gương hiếu thào của vua Trần Anh Tông đối với Phụ hoàng, vua Tự Ðức đối với Mẫu hậu là tiêu biểu hơn hết. Những tấm gưong này lâu nay đã được lưu truyền trong dân chúng và cũng từng được nhiều người ngưỡng mộ noi theo, dù chưa được phổ cập rộng rãi. Có điều, chúng ta phải công bằng mà nhìn nhận rằng trải qua hàng nghìn năm dân tộc ta từng chung sống và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa không ít. Thế nên, từ bao đời, chúng ta đã hiểu thế nào là Tam cương, ngũ thường, thế nào là Tam tùng, Tứ đức, thế nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, thế nào là Phụ từ tử hiếu, Phu xuớng phụ tùy v.v. . . Khi nói về Ðạo hiếu thì chúng ta nhớ đến một câu nói trong kinh Thi Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực (Cha sinh ra ta, mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, khác nào như trời cao khôn cùng) như một lời tuyên ngôn về Hiếu đạo. Còn khi đề cập đến công ơn từ mẫu thì đã có công thức chín chữ Cù lao Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (nuôi cho bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (xem tính tình mà bảo ban), phúc (bảo vệ). Ðồng thời các nhà luân lý Trung Hoa cũng sưu tập các gương hiếu thảo cổ kim viết thành một quyển sách gọi là Nhị thập tứ hiếu (24 tấm gương hiếu thảo). Mà trong đó có những tấm gương tiêu biểu như vua Hán Linh Ðế đích thân sắc thuốc dâng cho mẹ, mỗi khi Mẫu hậu ốm đau. Ðinh Lăng khắc tượng cha mẹ để thờ, và hằng bữa dâng cơm nước lên hai đấng sinh thành như lúc song thân còn sống. Còn Mạnh Tông thì khóc măng, Quách Cự chôn con, Vương Tường nằm giá v.v..., toàn là những tấm gương hiếu thảo rất gây ấn tượngxúc động lòng người . Nhưng đặc biệt nhất là đức Khổng Tử đã đề xuất cách báo hiếu rất minh bạch và sâu sắc. Ngài bảo rằng bổn phận làm con không những cung phụng cho cha mẹ những tiện nghi vật chất mà điều cần thiết là phải thể hiện tình cảm chân thành, thương yêu cha mẹ hết lòng. Ngài nói: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ cung kính, nuôi duỡng cha mẹ phải hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải rất mực trang nghiêm) (Minh Tâm Bảo Giám). 

Ðó là những nguyên tắc báo hiếu rất thấu đáo và thiết thực. Có thể nói, từ ngàn xưa dân tộc ta đã thấm nhuần những chuẩn mực đạo đức rất nhân bản và thấm đượm tình người. Nhờ đó, tạo tiền đề cho một nếp sống lấy nhân nghĩa làm gốc, theo tinh thần ơn đền nghĩa trả, ăn quả nhớ người trồng cây, xem tiền tài như tro bụi, trọng nhân nghiã tựa nghìn vàng. Chính nhờ tuân thủ những đạo lý này mà nhân dân ta có một nếp sống thuần lương đức hạnh, duy trì được tôn ty trong gia đình, ổn định được trật tự ngoài xã hội, giữ gìn kỷ cương của đất nước, tạo nên một nét nhân văn rất đặc sắc

Về mặt thế thườngthực tiễn thì những cách báo hiếu như vừa trình bày trên đây thật sự tỏ rahiệu quả và khá tốt đẹp; điều đó không một ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu hiểu báo hiếu theo nghĩa rốt ráo, vừa vật chất, vừa tinh thần, xuyên suốt quá khứ, hiện tạivị lai, thì có lẽ chỉ có Phật giáo mới giới thiệu một mô hình báo hiếu tương đối hoàn thiện, như tấm gương báo hiếu của tôn giả Mục-kiền-liên mà kinh Vu-lan-bồn đã đề cập. 

Kinh này trình bày sự kiện tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy thỉnh cầu chư Tăng mười phương chú nguyện cầu siêu độ cho mẹ mình vào dịp Rằm tháng Bảy, ngày chúng Tăng Tự tứ. Và nhờ sức chú nguyện của Tăng chúng mà bà Thanh Ðề đã thoát khỏi cảnh ngạ quỉ, sinh về thiên giới. Qua sự tích này, chúng ta có thể khởi lên một vài thắc mắc và xin được mạo muội giải trình: 

Thứ nhất, kinh Vu-lan-bồn được biết là do chính Phật tuyên thuyết tại Ấn Ðộ, rồi truyền sang Trung Hoa, sau đó đến nước ta, trải qua thời gian khá lâu. Trong đó, có thể có một vài chi tiết bị thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn là bắt nguồn từ một câu chuyện có thật, mang tính khái quát về phương pháp báo hiếu cha mẹ theo tinh thần Phật dạy. Mà đức Phật vốn là bậc: “Chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” (Người nói đúng đắn, nói chắc chắn, nói như thật, nói không hư dối, nói không mâu thuẫn). [kinh Kim Cương]. Hoặc như lời phát biểu của tôn giả A-nậu-lâu-đà trong kinh Di Giáo: “Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng chân lýThế Tôn dạy thì không thể nào làm cho khác được”. Ðức Phật lại là bậc Vô Thượng Chánh GiácNgũ nhãn, Lục thông. Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn. Nhục nhãn là cái thấy của những người thường như chúng ta, Thiên nhãn là cái thấy của chư Thiên, Tuệ nhãn là cái thấy của hàng Nhị thừa, Pháp nhan là cái thấy của các vị Bồ tát, và Phật nhãn là cái thấy của chư Phật. Mà Phật có đủ Ngũ nhãn nên Ngài thấy được quy luật nhân quả tường tận, không những thấy được những sự việc hiện tại mà còn thấy cả những sự kiện thuộc quá khứvị lai. Không những thấy được những sự vật hữu hình mà còn thấy cả những sự vật vô hình. Về không gian thì Ngài thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới
Về thời gian thì Ngài thấy suốt từ vô thỉ cho đến vô chung. Thế còn cái thấy của chúng ta thì dựa trên cơ sở nhục nhãn của một tâm trí còn đầy ắp vô minh cát bụi. Cho nên tầm nhìn của chúng ta còn rất nhiều hạn chế là lẽ đương nhiên. Vì vậy, chúng ta không nên đem cái thấy biết hạn cuộc của mình ra làm chuẩn mực để đo đạc tri kiến của Phật, rồi sinh tâm hoài nghi những điều Phật dạy. Huống nữa, đức Phật đã từng tuyên bố: “Như Lai vì lòng thương đời, vì hạnh phúc của chư Thiênnhân loại nên thị hiện trong cỡi đời này”. Qua đó có lẽ chúng ta đã lãnh hội đưọc phần nào hoài bão của Phật qua những lời kinh còn truyền lại. 

Một điểm thắc mắc nữa là có chắc chư Tăng đủ đạo lực hóa giải được tội báo của bà Thanh Ðề hay không?–Thiển nghĩ, việc này thật khó trả lời. Vì nó quá huyền nhiệm. Nhưng có lẽ ai có tu thì mới biết được giá trị của sự tu hành là như thế nào, giống như nguời uống nước lạnh hay nóng chỉ có mình mới rõ. Tuy thế, chúng ta thường nghe trong nhân gian người ta từng nói: “Chúng đức như hải”, nghĩa là đức độ của chúng tăng bao la như biển cả. Hay, “Ðạo cao long hổ phục, đức trọng quỉ thần kinh” (Những bậc đạo hạnh cao siêu thì cọp rồng đều nép phục, và những vị có đức độ sâu dày thì quỉ thần đều kiêng nể). Và trong kinh Pháp Cú cũng minh họa hình ảnh của một bậc A-la-hán đã hoàn toàn giái thoát 

Thành thị hay xóm làng, 
Thung lũng hay đồi cao, 
La-hán trú chỗ nào, 
Nơi ấy được an lạc

Ngoài ra, cổ đức cũng từng mô tả về chân dung của một bậc thiện nhân cao khiết: “Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất” (Cùng sống chung với bậc hiền thiện như vào trong ngôi nhà được chất đầy những đóa hoa lan). 

Ðó là đôi nét về hành trạng của những bậc Thánh thiện, giải thoát. Chúng ta vẫn biết rằng trong số chư Tăng mà Mục-liên thỉnh cầu chú nguyện cho thân mẫu của mình không phải ai cũng đã đắc đạo, nhưng có điều chắc chắn là trong đó có nhiều người đã thành tựu đạo nghiệp đến một mức độ nhất định, cũng như không ít người suốt đời tâm nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành. Với những người có đức độ như vậy huớng tâm lực nguyện cầu cho bà Thanh Ðề, ắt hẳn tâm bà sẽ chuyển biến từ ác niệm sang thiện niệm. Mà niệm ác thì chuốc lấy quả khổ, còn niệm thiện thì hưởng được phước lành. Vì tam giới do tâm tạo. Tâm giống như một họa sĩ có thể vẽ nên địa ngục mà cũng có thể tạo ra thiên đường. Cho nên: “Tiền tâm tác ác như vân phú nhật, hậu tâm khởi thiện như cự tiêu ám” (Tâm trước làm ác như đám mây che khuất mặt trời, tâm sau khởi thiện như ngọn đuốc xua tan bóng tối) [Kinh Luật Dị Tướng]. Khi tâm bà Thanh Ðề đã chuyển hướng, kết hợp với mãnh lực chú nguyện của các bậc Thánh Tăng giàu lòng từ mẫn, thiết nghĩ, bà được giải thoảt khỏi cảnh u đồ, sinh lên thiên giới là điều có thể hiểu được. Trái lại giả sử tâmbà vẫn giữ ác niệm trước sau như một, thì dù cho với đạo lực từ bi cao cả như chư Phật, chung cục cũng không thể nào cứu vớt được bà. 

Qua sự kiện này nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chết chưa phải là hết mà vẫn còn diễn tiến liên tục qua nhiều đời sống khác. Mọi người sống trên thế gian này, nếu như chưa chứng được Thánh quả, giải thoát khỏi khổ đau, đạt đến Niết-bàn vĩnh cửu, thì còn bị định luật sinh tử luân hồi chi phối, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, sinh tử, tử sinh bất tận; hễ làm phước thì hưởng quả vui, gây ác thì chuốc khổ báo. Tất cả loài hữu tình đều phải chịu trách nhiệm về ba nghiệp do mình tạo ra. Thế nên, trong hiện tại phải nỗ lực vun bồi công đức, gây tạo phước lành, tránh xa việc ác để mai sau được mãi mãi thăng tiến trên con đường Thánh thiện

Như vậy là chúng ta đã có thể tin tưởng được luật nhân quả gieo nhân nào gặt quả nấy. Thế nhưng, dựa vào niềm tin này có người sẽ nêu lên câu hỏi: “Cha mẹ tôi lúc sinh tiền làm nhiều việc phước thiện nên sau khi chết, nếu như không thành bậc Thánh thì cũng được sinh lên cõi trời hưởng mọi phước lạc, chứ đâu có đọa vào ngạ quỉ khổ sở như bà Thanh Ðề mà phải gây tạo công đức, cầu thỉnh chư Tăng cứu độ?” 

Qua thắc mắc này, người viết xin được trao đổi như sau: Chúng ta từng nghe Phật dạy: “Hà nhân vô quá, hà giả vô khiên” (Ai mà không có lỗi, ai mà không có tội); cho nên, ngoại trừ các bậc Thánh đã đoạn trừ hết ba độc, còn tuyệt đại đa số chúng ta đang sống trong cõi đời này thì mấy ai dám cho là mình không gây ra ít nhiều lầm lỗi. Mà đã có lỗi thì sau khi qua đời thường bị đọa lạc, mà đã đọa lạc thì rất cần đến thân nhân làm phước hồi hướng để cứu vớt cho mình, đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, nếu như cha mẹ ta đều được giải thoát, không còn đọa lạc, thì những công đức mà mình đã tạo ra để hồi hướng cho họ vẫn còn nguyên vẹn chứ không hề suy suyển chút nào. Những công đức ấy giống như một thứ ngân khoản mà mình ký gởi vào ngân hàng–một loại ngân hàng bất hoại, vĩnh cửu, không có bất cứ một thứ gì có thể phá huỷ được–hễ khi nào cần đến thì mình lấy ra sử dụng. Hơn nữa, hành vi báo hiếu của mình không những có kết quả ở tương lai mà có kết quả ngay trong hiện tại. Vì lẽ, khi ta thực hiện một nghĩa cử cao đẹp, làm một việc hợp với đạo lý thì tâm hồn ta cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản, mà những người xung quanh cũng nhìn ta với đôi mắt ái mộ và đầy thiện cảm. Nhờ đó, khi cần tham gia một việc công ích nào thì nhân cách của mình được mọi người tín nhiệm, lời nói của mình được mọi người tin tưởng. Thiết nghĩ, sống trên cuộc đời nầy mà được tha nhân mến mộ, tin cậy, thì quả thật là một phần thưởng cực kỳ cao quí. 

Một điểm đặc biệt khác là trong thế gian này, có thể có những người không hiếu thảo với cha mẹ, nhưng không một ai là không mong muốn con cháu hiếu thảo với mình. Mà muốn cho con cháu có lòng hiếu thảo thì không có cách nào hữu hiệu hơn là chính bản thân mình phải làm gương tốt. Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình; do thế, ta có quyền hy vọng chúng sẽ noi theo gương mình mà chu toàn hiếu đạo. Ðiều này các bậc tiền bối đã từng lý giải: 

“Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, 
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi. 
Bất tín đàn khán thiềm đầu thủy, 
Ðiểm điểm trích trích bất sai di” 
(Nếu mình hiếu với mẹ cha, 
Mai sau con hiếu với ta khác gì. 
Nếu mình ăn ở vô nghì, 
Ðừng mong con thảo làm gì uổng công
Kìa xem giọt nước xuôi dòng
Giọt sau, giọt trước cũng đồng một nơi)

Hiện nay các phương tiện truyền thanh, truyền hình giới thiệu những loại hình nghệ thuật những phim ảnh rất đa dạng. Tuy nhằm mục đích giải trí và làm phong phú kiến thức của công chúng về những chân trời mới, trong đó tiềm tàng những gương sáng, cách giáo dục đạo đức hiếu thuận; nhưng thị trường điện ảnh, sách báo còn lọt không ít những loại phim ảnh sách báo chứa đựng khá nhiều độc tố. Ðối với người lớn, vì phần đông đã được trang bi bằng những vốn liếng văn hóa truyền thống, đã từng trải nghiệm cuộc đời, nên khi thưởng thức các loại hình ấy biết cách gạn đục khơi trong, tiếp thu những phương diện tích cực, loại bỏ những khía cạnh tiêu cực; do đó, tương đối ít nguy hiểm. Thế nhưng, đối với giới trẻ là những người đang dồi dào sinh lực, thường có khuynh hướng phiêu lưu mạo hiểm, bản thân lại chưa thấm nhuần đạo đức truyền thống, chưa trải qua kinh nghiệm trường đời, cho nên khi thuởng thức những loại hình nghệ thuật ngoại lai, không những họ tiếp thu nét tinh hoa của chúng mà cùng lúc hấp thụ luôn cả những độc tố. Những độc tố ấy đến khi phát tác sê làm cho thể xác tàn tạ, tâm hồn băng hoại, đưa đến gia đình tan rã, xã hội rối loạn, và đất nước bất ổn. Vì vậy, thiết nghĩ các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục cần phải hết sức cảnh giác đề phòng, và giới chức có thẩm quyền cần phải quan tâm nhiều hơn nữa gạn lọc những độc tố tiềm tàng trong các loại phim ảnh ngoại lai, chọn lựa cẩn thận những loại hình nghệ thuật đứng đắn, trước khi cho trình chiếu. Có như vậy, may ra mới tránh bớt những hậu quả đáng tiếc mà lâu nay báo chí đă phản ảnh khá nhiều. 

Thế còn các loại hình nghệ thuật và những mô thức giáo dục truyền thống thì sao? Thiển nghĩ, các loại hình này đã trải qua nhiều đời, các bậc hiền nhân thánh triết của ta đã tốn nhiều công sức gạn lọc, loại bỏ những nhược điềm và tô bồi những ưu điểm. Do thế, những mô hình ấy tương đối bảo đảm tính an toàn; nếu như không làm thăng hoa phẩm hạnh của con người đến đích chân thiện mỹ, thì cũng không đến nỗi gây ra những tác hại nghiêm trọng

Thiết nghĩ, dịp lễ Vu-lan báo hiếu cũng là một cơ hội tốt đẹp để cho những người con Phật chu toàn hiếu đạo dối với tứ thân phụ mẫu, với cửu huyền thất tổ và những thân nhân quá cố. Mà làm tròn đạo nghĩa cao đẹp của một con người cũng là phương thức khẳng định nhân cách của một công dân lương thiện, trong một đất nước có truyền thống văn minh. Xin thành tâm kính chúc quí vị, ai nấy đều là những dâu hiền, con thảo, bản thân được nhiều an lạc, gia đình tràn đầy hạnh phúc, trong mùa báo hiếu Vu-lan.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15549)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22985)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14023)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12945)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9127)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14408)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36269)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19174)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19097)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15902)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14961)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14655)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46145)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35892)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21572)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23364)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34345)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19461)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18918)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22907)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18320)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19510)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33381)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34442)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54471)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37667)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21108)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63604)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17352)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49618)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27381)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16310)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17892)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20924)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17335)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14449)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16839)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16356)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17451)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21952)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15087)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13478)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14349)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15363)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13327)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13169)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14454)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16195)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12850)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12178)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21609)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11267)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22682)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15040)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14540)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12602)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18884)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14710)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43835)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56929)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13640)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14551)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33271)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38335)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15383)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12509)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40361)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43385)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46620)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant