Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Người xuất gia có làm tròn chữ hiếu không

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9616)
Người xuất gia có làm tròn chữ hiếu không

NGƯỜI XUẤT GIA

CÓ LÀM TRÒN CHỮ HIẾU KHÔNG
Tỳ Kheo Nguyên Các

blankLTS: Thời gian trước, một số vị phật tử lớn tuổi, am hiểu cổ học, đưa ra ý kiến nói rằng, người xuất gia không hoặc khó làm đầy đủ câu hiếu để đối với song đường (bố mẹ). Vậy điều đó đúng không? Nếu đúng, thì hàng đệ tử xuất gia của đức Phậtđủ tư cách làm người hướng đạo cho cư sỹ tại gia cũng như mọi giới chăng? Nếu nhận thức trên của các phật tử là chưa thấu đáo, nguyên nhân do đâu?

Có lẽ không ý người cũng có suy nghĩ như thế, hoặc giả thắc mắc trong lòng, quý Thầy trả hiếu bậc sanh thành như thế nào? Việc giáo dục hiếu thuận với cha mẹ của Phật giáo được ghi lại rất nhiều trong kinh, luật Bắc truyền (đại thừa) cũng như Nam truyền (tiểu thừa) như: kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy: “lòng từ của cha, tình thương của mẹ, nếu Ta trụ thế trong một kiếp[1] cũng không nói hết được” (父有慈恩,母有悲恩 , 母 悲 恩 者 , 若 我 住 世 於 一 劫 中 說 不 能 盡). Nghĩa mẹ tình cha lớn lao như thế nên, “trong trọn một kiếp, mỗi ngày ba lần cắt thịt của mình phụng dưỡng mẹ cha, cũng không báo đáp được ân ấy một ngày ”(經於一劫,每日三時割自身肉以養父母,而未能報一日之恩). “Vì thế cho nên, các ông phải tinh cần tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, như người cúng dường Phật, phúc báo không khác, nên cứ như thế mà báo ân cha mẹ”(是故汝等勤加修習孝養父母,若人供佛福等無異,應當如是報父母恩).

Chỉ qua ba câu trong kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán quyển 3,[2] đoạn đức Phật dạy cho năm trăm vị trưởng giả tại thành Vương Xá về bốn ân (ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân quốc giaân Tam bảo), chúng ta thấy ân đức cha mẹ thật khôn lường, dù lấy thân mình cúng dường trọn kiếp cũng khó đáp đền, và Phật dạy chúng ta phải như thế mà báo ân. Vậy, người xuất gia học Phật há lại không y lời ấy hành trì. Thế nhưng, thực phẩm, y phục .v.v. của hàng xuất gia đều là do sự cúng dàng của phật tử tại gia, nếu dùng chúng để phụng dưỡng cha mẹ có được không? Điều này trong luật Ngũ Phần quyển 20 có ghi: thời đức Phật có một vị A La Hán tên Tất Lăng Già Bà Sa (畢陵伽婆蹉), cha mẹ Ngài nghèo khó, Ngài muốn đem một phần y phục vật phẩm khất thực được để cha mẹ dùng, nhưng lại sợ không được phép, nên xin đức Phật chỉ dạy. Phật liền tập hợp chúng đệ tử lại và dạy rằng: “nếu có người vai phải gánh cha, vai trái gánh mẹ như thế trăm năm; dùng y phục thực phẩm tốt nhất cúng dàng, cũng không thể báo đáp hết ơn cha mẹ. Nên từ nay, cho phép hàng tỳ kheo hết lòng hiếu dưỡng mẹ cha; ai không cúng dàng thì phạm giới” (若人百年之中,右肩擔父,左肩擔母,於上大小便利;極世珍奇衣食供養,猶不能報須臾之恩。從今聽諸比丘盡心盡壽供養父母;若不供養得重)[3]. Và, việc dùng vật phẩm hiếu dưỡng song thân được dạy rất rõ ràng, trong luật của Nhất Thiết Hữu bộ quyển 4: “Người xuất đối với cha mẹ vẫn phải cung cấp tiện nghi sống, nhưng không biết làm thế nào cho hợp. Phật dạy: các vật mà bản thân dùng còn, có thể cúng cha mẹ. Nếu không còn dư, có thể tùy lúc nhận nơi thí chủ, hoặc có thể dùng những phẩm vật khi được chia quân Tăng…”.[4]

Vậy là đã rõ, không còn nghi ngờ gì trong việc người xuất gia vẫn có thể hiếu dưỡng cha mẹ, và dùng cách nào để phụng dưỡng. Ngoài ra, cũng nội dung dạy về việc cho phép hàng tỳ kheo, đệ tử xuất gia của đức Phật, cung cấp thực phẩm, y phục cho cha mẹ, nếu chúng ta đọc nhiều kinh luật một chút, tìm hiểu cặn kẽ, đều có thể thấy ý ấy trong: Tăng Nhất A Hàm quyển 11, Thiện Tri Thức Phẩm; kinh Trung A Hàm quyển 12, phẩm Vương Tương Ưng; hay Tạp A Hàm kinh quyển 4…

Đức Phật dạy đối với cha mẹ, nếu chỉ hiếu dưỡng, tức lo cho cha mẹ được no ấm, tương đối đầy đủ về chất không chưa đủ. Mà phải tiến hơn một bậc, biết hướng cho cha mẹ làm các điều lành, lánh những nghiệp dữ, dần dần tu hạnh giải thoát để ra khỏi sanh tử luân hồi, ấy mới là điều khó.

Bản thân đức Thích Ca Mâu Ni, sau khi thành chánh giác, đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ thân mẫu và chư thiên cõi ấy; kết quả là rất nhiều vị chứng được Tứ quả (dự lưu, tư đà hàm, a na hàma la hán), trong đó có hoàng hậu Maya. Thuyết này được ghi trong kinh Ma Ha Ma Ya (摩訶摩耶經) hay còn gọi Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vi Mẫu Thuyết Pháp kinh (佛昇忉利天為母說法).[5] Ngoài ra, trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán…cũng có nói đến. Như vậy, bên cạnh cung phụng cha mẹ các nhu yếu phẩm trong cuộc sống, hàng đệ tử Phật còn dùng pháp giải thoát độ cha mẹ xa lìa nẻo ác, sống đời an lành, chết sanh lạc cảnh.

Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha. Vì thế, hiếu dưỡng cha mẹ hiện đời, đồng thời cũng phải cứu độ cha mẹ trong quá khứvị lai. Cho nên, trong cách nhìn của Bồ tát thì tất cả nam nhân đều là cha, phàm là người nữ tức mẹ mình. (kinh Phạm Võng). Đã là cha mẹ, thì chúng ta phải hiếu thuận. Tới đây chúng ta có thể nói rằng, nếu làm như những gì nêu và phân tích ở trên, thì người đệ tử xuất gia của đức Phật trong việc báo đáp thâm ân cha mẹ, không những làm tốt mà còn có phần hơn người. Mà muốn độ được cha mẹ nhiều đời thì phải đắc thành Phật đạo, điều này không dễ. Trong Đại Phương Tiện Phật Báo Ân kinh quyển 1 nói: “Vì hiếu dưỡng cha mẹ, biết ân và báo ân, mà đời này mau đắc thành trí tuệ giải thoát”( 為 孝 養 父 母 , 知 恩 報恩 故 , 今 得 速 成 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩提).[6] Như vậy, việc xuất gia tu hành một phần cũng là để báo ơn cha mẹ, chứ không phải chẳng liên quan gì.

Quay lại ý kiến của các vị am hiểu cổ học, có lẽ do quý phật tử ấy được giáo dục theo truyền thống Nho học, nên dưới quan niệm thiên về gia tộc, tư tưởng tông pháp nên mới cho rằng, người xuất gia không làm trọn hiếu đạo, hay nói cách khác là bất hiếu, vì không lập gia đình để có thế hệ kế gia thừa nghiệp ông bà. Đó là một trong những tư tưởng chủ đạo về hiếu trong sách Mạnh Tử của Nho giáo. Sách viết: “不孝有三 , 無後為大”, ba điều sau gọi là bất hiếu: 1. Nghe lời một cách mù quáng, khiến cha mẹ đến chỗ bất nghĩa; 2. Nhà nghèo cha mẹ thì già yếu, không ra làm việc (quan) để nuôi cha mẹ; 3. Không có con trai để nối dõi. Trong ba điều đó, không có người nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất. Có lẽ vì tư tưởng này mà một số vị theo cổ học cho rằng hàng xuất gia không tròn chữ hiếu. Mà nếu phân tích đến dây, quý vị vẫn cứ đứng trên quan niệm này mà đánh giá, thì cũng chẳng còn gì để bàn luận. Chỉ nói thêm, chính vì tư tưởng Vô Hậu Vi Đại, mà ngày nay xã hội Trung Quốc (nơi Nho học hình thành và phát triển) đang gặp phải vấn đề rất lớn do tỉ lệ nam nữ quá chênh lệch. Ngoài ra, ngày nay, sau khi kết hôn có con, lúc này chỉ chăm lo nuôi dưỡng con mình, rất ít người phụng dưỡng cha mẹ đẻ, chứ chưa nói đến nuôi dưỡng thêm cha mẹ của vợ hoặc chồng. Vậy, có con đã thật sự là có hiếu chưa? Cứ như thế đời này qua đời khác, chỉ lo nuôi dạy con cái mà quên phụng dưỡng cha mẹ, vậy, hiếu đạo có tròn không?

Hàng đệ tử Phật lại còn được dạy, pháp cứu cha mẹ ra khỏi đường ngạ quỷ, hay cảnh khổ do các nghiệp ác đã tạo tác trong quá khứhiện tại. Pháp này tên gọi Vu Lan Bồn. Ðức Phật dạy rằng, muốn cứu cha mẹ thoát thọ quả khổ, phải nhờ thần lực của mười phương Tăng thanh tịnh; nên vào cuối mùa an cư của chư Tăng, sắm sanh lễ vật trai nghi dâng lên cúng dường. Vì sau ba tháng an tịnh tu trì, giới định tuệ tăng trưởng, lúc ấy, chư Tăng dùng định tâm vận lòng từ, cảm ứng được thế giới của người chết. Người quá vãng cảm nhận được cái năng lực đó, phát tâm lành, sanh thiện ý, mới mong thoát khỏi u đồ. Đó là cách đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi cảnh quỷ đói. Pháp Vu Lan Bồn từ đó được lưu truyền, đến ngày nay chúng ta có mùa Vu Lan tháng bảy (AL).

Dù đã có pháp Vu Lan Bồn, thế nhưng tốt hơn hết, chúng ta nên hướng cha mẹ hiện đời quy kính Tam bảo, giữ năm giới và hành thập thiện. Tức là: 1. không sát sanh; 2. không trộm cắp, hay nói “Không lấy đồ vật người không cho”; 3. không tà dâm; 4. không nói dối; 6. không nói thêu dệt; 7. không nói hai chiều; 8. không nói xấu người, không nói lời ác hại; 9. không tham lam; 10. không ôm ấp những ý niệm, kiến giải sai lầm. Vì đó là gieo cái nhân lành để sau khi trả báo thân này, lại được làm người hay sanh lên cõi trời. Thiết nghĩ đó mới là cách báo hiếu tốt nhất.

Vậy, người xuất gia học Phật, theo lời Phật dạy, y luật phụng hành làm tròn hiếu đạo. Phụng dưỡng, chăm sóc mẹ cha về mặt vật chất đủ đầy. Hơn nữa, còn đem công đức tu hành hồi hướng đến cha mẹ nhiều đời, dẫn dắt mẹ cha hiện thế xa đường ác, làm việc lành, sống an lành trong chánh pháp của Như lai, khi mãn phần có thể được sanh về cõi tịnh.

 

Vĩnh Nghiêm, tháng 6 năm 2011.

[1] Kiếp : gốc tiếng Phạm Kalpa (1 kiếp) có hai thuyết, một cho là 243.000.000 năm; thuyết khác nói là 4.320.000 năm.

[2] Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (ĐTK), q.3, p.297.

[3] ĐTK, q.22, p.140.

[4] ĐTK, q.24, p.428.

[5] ĐTK, q.12, p.1011. hoặc bản tiếng việt tại: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-phat-codam/pcodam-11.htm

[6] ĐTK, q.03, p.127

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37840)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14213)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10632)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23167)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10730)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20170)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10579)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9930)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14843)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17625)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17566)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31108)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25697)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13957)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10942)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12239)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9929)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12004)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11186)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14056)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9879)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15171)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13015)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23935)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12538)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15406)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15024)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16522)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16019)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17575)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10503)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12057)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9647)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10443)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12179)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14626)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15911)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15545)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14483)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12418)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18319)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18494)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18554)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18987)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11797)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47952)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11037)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13527)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13012)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11047)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant