Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc

19 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8797)
Vu lan và Rằm tháng bảy trong tinh thần dân tộc
image

Trước khi đặt bút viết bài này, ngoài một số vốn liếng ít ỏi tri thức Phật học, người viết đã tham cứu nhiều tài liệu, kinh sách có liên quan đến ý nghĩa lễ Vu Lan - Rằm Tháng bảy.

Tựu trung và cộng lại, chúng tôi thấy toát lên một điểm sáng lung linh trong khái niệm sống thực tại của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà với những tài liệu phong phú kia, đã nêu bật được chất keo gắn bó giữa ảnh hưởng Phật giáo với xã hội, con người qua nhiều thời đại.

Vâng! Những điều đó các bậc thức giả, các bậc sư trưởng đều đã nói hết rồi, không còn khe trống để hàng hậu sinh chúng tôi góp phần tô điểm. Đã đẹp, đã trở thành điều hiển nhiên rồi; hiển nhiên tới mức đôi khi chúng ta quên rằng chính nó đã trở thành ca dao dân tộc:

Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân

Không phải là thứ ca dao biền ngẫu đệm vần cho qua câu để tạo mở, tôn tạo cho ý đồ chính. Không viết đủ hẳn trong chúng ta ai cũng biết đó là ca dao theo kiểu “liên khúc” nói về lịch sinh hoạt 12 tháng trong một năm, mà nền văn minh nông nghiệp của xã hội Việt Nam ta xưa nay không thể chối cãi được.

Đã vậy, ”Tháng Bảy Ngày Rằm…”, câu nổi bật nhất không chỉ vì nó đã nói lên được ý nghĩa về một ngày lễ của Phật giáo, mà còn đưa ra tính nghiêm túc, thể hiện cách sống cộng đồng, ngoài sinh hoạt, vui chơi, ăn uống, mùa màng và thời vụ so với 11 tháng còn lại kia.

Nó đã trở thành lịch sinh hoạt hằng năm của dân tộc, kể từ khi dấu chân tích trượng của các Thiền sư đã đến và lưu dấu trên xứ sở Giao Châu này hơn 20 thế kỷ trước. Điều đó cho chúng ta thấy được rằng Phật giáo đã và luôn biết thích ứng để “nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục” rất tuyệt vời khế lý khế cơ, không gây ra sự dị ứng, đối kháng.

Bởi vì, không phải dễ dàng “được” có mặt trong ca dao, tục ngữ, trong tâm khảm đời sống dân tộc, mà bất kỳ sự gượng ép, hoặc cố tình dùng thủ doạn để đạt được sẽ trở thành nạn nhân bị nghiền nát bởi bánh xe lịch sử khắc nghiệt.

Đặc biệt hơn, sự có mặt của Phật giáo trong ca dao 12 tháng kia, và ngay trong nếp sống cộng đồng dân tộc, còn mang một ý nghĩa to lớn khác, thể hiện được tính chân lý thực tiễn, vượt lên trên sự tôn kính thời nguyên sơ, khi con người tự cho mình còn nhỏ bé trước thiên nhiên.

Đó là thời kỳ dựng nước họ Hồng Bàng mà sách Lĩnh Nam Chích Quái đã kể lại; cái thời mà chính Lạc Long Quân phải dùng đến vạn phép thần thông biến hóa mới đuổi được kẻ xâm lăng phía Bắc đầu tiên là Đế-Lai ra khỏi bờ cõi.

Và cái thời mà mọi thứ yêu tinh thường xuất hiện quấy nhiễu dân lành, để đến nỗi phải tôn lên hàng thần thánh, kể cả tiếng sấm sét. Những Thần sông, thần nước, núi, gió, lửa .v…v.. đã có mặt chễm chệ trước sự quy phục con người thờ lạy.

Muốn sống còn, để dựng nước, cứu nước và làm ăn sinh sống, con người lúc ấy khi lên rừng xuống biển, tất phải xâm mình hình ảnh thủy quái, sơn tinh.v…v…

Như vậy, lịch sử PGVN có mặt và phát triển chỉ bằng phân nửa lịch sử dựng nước của con cháu Lạc Long Quânngẫu nhiên đánh bại được sơn tinh thủy quái trong truyền thuyết, đời sống lẫn trong tâm khảm con người, thay vào đó tôn tạo được ý sống, cách sống mới, phù hợp với lòng người, với sự khổ đau và với hiện trạng cuộc sống đương thời.

Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời, xứng đáng với phạm trù ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC; đó là sự thật được lịch sử chứng minh CÁI PHẬT GIÁO CÓ trong lòng dân tộc mình.

Lễ Vu Lan-Rằm Tháng Bảy được xác lập từ trong ý nghĩa đó. Tình cảm và đạo lý dân tộc ta vẫn luôn rộng mở; với thù, với bạn cũng chung cùng “Dòng nước mắt cùng mặn - Dòng máu đỏ” như nhau. Những “Thương người như thể thương thân”, “Mình với ta tuy hai mà một”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…” v..v… há chẳng phải đạo lý Phật giáo đó sao!

Tương tự, khi đứng trước một hoàn cảnh bi thương nào đó, từ trong cửa miệng của dân ta há đã chẵng thốt lên câu đầu tiên “Tội Nghiệp”, bao hàm ý nghĩa to lớn, biểu lộ lòng lân mẫn, tương thân tương ái đó sao?

Nói cách khác, Phật giáo đã đáp ứng được một phần rất lớn tình cảm và niềm tin trong cộng đồng dân tộc, trở nên nguồn hòa nhập mật thiết trong mọi lĩnh vực. Cho dù là không Phật giáo, đến rằm tháng bảy, ai ai cũng đều tỏ ra tha thiết với sự hiếu để, cũng như tỏ lòng ai hoài mong xá tội vong nhân đối với thế giới xa xăm nào đó, tùy theo trình độ nhận thức cảnh giới địa ngục.

Nếu hiểu theo quan niệm vượt hóa, chúng ta sẽ dễ dàng đồng cảm những dòng sau đây của cố HT Thích trí Thủ (đăng trong Nội San Bát Nhã số 5 của Tổng vụ Tài Chánh trước năm 1975):

“Những cơn mưa dầm tháng bảy, trời âm u, bão và lụt đã bắt đầu, ngày dài của mùa hè rút ngắn lại, trời đất đang xoay tới khoảng thăng bằng, làm nhịp cầu giao cảm thiên thu giữa cõi sống và cõi chết.

Người chết đã buông tay rũ sạch những tham vọng của một đời, cho lá vàng rụng xuống. Người sống vẫn tiếp tục lượm nhặt lá vàng, xây những tham vọng cuồng dại mới.

Kiếp luân hồi kéo dài bất tận, người sống và kẻ chết nối nhau thành một ”đoàn vô tư lạc loài nheo nhóc”, cùng lang thang vô định trên “con đường bạch dương bóng chiều man mác”.

“Rằm tháng bảy, một ngày hội âm thầm của những oan hồn mà sống đã không nói được khát vọng của mình, và chết cũng không có lời để ta thán.

Nếu dương gian còn phảng phất một chút tình người, còn tưởng nhớ đến ân tình một thuở, thì một hạt muối và một bát nước trong cũng đủ rửa sạch cái oan khí tương truyền ngàn năm treo ngược.

“Vu Lan Thắng Hội, ngày hội cứu đảo huyền, ngày giải tỏa oan khiên treo ngược tội nhân trên rừng đao, biển lửa. Trong ngày đó, mười phương chư Phật đều nở nụ cười hoan hỷ, vì là ngày tha thứ giữa những người còn sống, biết cởi bỏ hận thù ràng buộc để sống, còn có ngày hội nào vui hơn, trước cái hứa hẹn một thế giới thanh bình có thể có?

Oan khiên trở thành ân nghĩa. Ân của trời đất, ân của cỏ cây, ân của đồng loại; ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp, sao nhất thời lại có thể hờ hững trôi qua?

“Trong khoảng trời đất mịt mù, giữa những đêm dài lạnh lẽo, người chết còn biết trở lại dương gian xin một bát nước để rửa sạch oan khiên treo ngược, há người còn sống lại không biết âm thầm nở nụ cười hoan hỷ và tha thứ?”.

Đọc những dòng trên bằng cả một tấm lòng vị tha rộng mở, chúng ta đã thấy ra được phần nào ý nghĩa to lớn của ngày lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy. Như vậy, địa ngục thường mang ý nghĩa của một vai trò chủ đạo khi nhắc đến Vu Lan - Rằm Tháng Bảy, từ đó chúng ta khởi niệm và đồng cảm với tha nhân một cách dễ dàng, bởi địa ngục có là do sự cảm vời mà ra, như kinh Địa Tạng thường được Đức Phật lặp lại nhiều lần.

Hay nói như một danh nhân thế giớiĐịa ngục là do chân lý được nhìn ra quá trễ”. Do đó, Tagore-một nhà thơ lừng lẫy của Ấn Độ từng biểu cảm bằng ngôn ngữ triết lý qua câu thơ “Trong cái chết thì nhiều biến thành một, trong sự sống thì một biến thành nhiều“.

Thương yêu vượt qua biên giới của sự sống chết, mà địa ngục chỉ là phạm trù gạch nối, không phải là dấu chấm hết khẳng định.

Cúng rằm tháng bảy có nghĩa là chia sớt sự sống cho cảnh giới khác mà nhân gian thường gọi là “Cô Hồn Uổng Tử” còn vất vưởng chờ định và thọ nghiệp. Từ đó con người khi quay lại cuộc sống thực tại đời thường, chắc rằng không ai là không lân cảm với đồng loại.

Ý nghĩa đó là một chân lý tuyệt hảo của nhân loại đã sống và đã thực hành, dù không cùng chính kiến, giai cấp xã hội hay bất kỳ chủ thuyết tôn giáo nào.

Một ngày mà chúng ta không thắp lên ngọn lửa thương yêu,vì thế có biết bao nhiêu người chết vì giá lạnh“. Francois Mauriac cũng đã phải thốt lên như vậy .

Dân tộc chúng ta vốn có truyền thống đạo đức cao thượng, hiếu nghĩa vẹn tròn, khi tiếp nhận tư tưởng Phật giáo nói chung và Lễ Vu Lan nói riêng, đó là sự dung nạp lý tưởng đạo đức thuần nhất để hun đúc nên nếp sống chung cộng đồng.

Tuy nhiên sự hòa nhập đó trong qua trình phát triển vẫn không tránh khỏi sự đố kỵ, đôi lúc dẫn đến nguy vong bởi các khuynh hướng Nho - Khổng.

Mặc dù hệ tưởng này không mấy khác biệt với Phật giáo, phần lớn chung một nền tảng đạo lý phương Đông, nhưng ở tư tưởng Phật giáo thì cởi mở, phóng khoáng hơn, nên những đối kháng kia chỉ là trở ngại nhất thời trong một giai đoạn lịch sử.

Dù vậy khi có ưu thếquốc giáo - nói đúng hơn khi Phật giáo ở những thời kỳ cực thịnh bởi các hàng từ vua quan đến thứ dân đều tín hướng Phật đà, Phật giáo vẫn không ỷ thế cậy quyền đè bẹp các tư tưởng tôn giáo khác, ngược lại còn chủ trương “Tam Giáo Đồng nguyên”.

Những tư tưởng bài xích Phật giáo còn lưu lại điển hình như Trương Hán Siêu ghi trong Linh Tế Tháp Ký, Quang Nghiêm Tự Bi Văn; Hàn Dũ (Trung Hoa,768-823) với bài biểu Can Vua Đón Xương (Xá lợi) Phật; Lê Quát Mai Phong với bài Văn Bia chùa Thiệu Phúc, Thôn Bái, tỉnh Bắc Giang .v..v… đã không đủ sức đánh bạt làn gió đạo đức Phật giáo đang thổi mạnh khắp nơi, từ kinh thành đến những làng quê hẻo lánh.

Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi các bài trong Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi - bậc đại công thần nhà Lê ra đời với nội dung “Thương Người Như Thể Thương Thân phủ trùm tinh thần vị tha của Phật giáo. Chưa hết, trong kho tàng truyện cổ tích VN, không hiếm chuyện khắc họa hình tượng Ông Bụt (một dạng phương ngữ hóa từ chữ Phật) làm chủ thể ban thưởng cái thiện, Nhất là chuyện “Cây Nêu Ngày Tết”, chiếc y vàng của Phật với cái bóng ngả dài là dải đất yên bình cho người dân sinh sống.

Đó là những tiềm ấn sâu xa minh chứng cho sức sống trường tồn của Phật giáo. Cụ Tố Như Nguyễn Du, trong tuyệt tác truyện Kiều đều lấy triết lý Phật giáo làm nền tảng. Ngay đoạn mở đầu cũng phải dùng đến tư tưởng tài mệnh tương đố và kết thúc bằng sự khẳng định nhân - quả hẳn hoi.

Vì vậy nào phải ngẫu nhiên khi Cụ viết rằng:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều, câu 3249-3253)

Bên cạnh đó còn phải kể đến bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Đọc bài này, người ta càng ngạc nhiên hơn nếu cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì ảnh hưởng Phật giáo thì hoàn toàn lầm lẫn. Bởi vì ngôn ngữ, ngụ ý của bài Văn Tế Thập Loại chúng Sinh vô cùng chính xác, tứ cách diễn đạt các thế giới cho đến các từ Phật học, mà nếu không tường tận gốc tích tác giả, người ta dễ ngộ nhận cho đó là của một vị cao tăng nào đó viết. Thí Dụ :

Trời tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh ngắt xương khô
Nào người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dọc đường đê lác đác sương sa
Lòng não lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khí thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh 
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…

…Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ nại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có của cùng không
Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng
Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Trên là một vài dẫn dụ cho sức sống PGVN trong lòng dân tộc, đã tạo nên nét đẹp truyền thống văn hóa từ bao nhiêu thế kỷ nay. Vì thế Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy không còn là của riêng Phật giáo, mà đã trở thành “Lịch Sinh Hoạt” hằng năm của người VN.

Theo đánh giá của Giáo sư Hoàng Như Mai thì “Ngày Lễ Vu Lan, Ngày rằm Tháng Bảy, Ngày Xá tội Vong Nhân có thể được coi là NGÀY TÌNH THƯƠNG VIỆT NAMcon người. Vì cuộc sống hiền hòa, an lạc, tiến bộ của con người“ (nguồn: Lễ Vu LanTình Thương của nhân dân ta, Hoàng Như Mai - Tập Văn Vu Lan 2531-1987).

Hơn thế nữa, một sự khẳng định tất yếu của lịch sử,ngày 26/01/1995, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao nước CHXHCNVN dõng dạc tuyên bố “…Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI VN KHÔNG CHỈ LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CÒN LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG.” (Nguồn: Báo SGGP-TTXVN ngày 26/01/1995).

Với niềm tin son sắt đó, với lòng tín hướng Phật Đà, một lần nữa chúng ta đón mừng ngày Lễ Vu Lan - Rằm Tháng Bảy trên đất nước VN thân yêu với đủ đầy niềm tự hào song hành cùng dân tộc.

DƯƠNG KINH THÀNH

 (Ban Phật Giáo Việt Nam-Viện Nghiên Cứu Phật Học VN)

 ----------------------------------------------------

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37861)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14251)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20090)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14351)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35553)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19691)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23186)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10739)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20195)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9947)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14857)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17645)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13180)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31146)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25730)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17490)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12273)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12254)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11748)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12346)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9186)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8483)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9946)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9751)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12025)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14410)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9893)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11201)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8288)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10959)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14073)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9895)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15197)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13031)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23068)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23964)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12557)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17767)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15041)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16540)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16082)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17624)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11576)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11610)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17814)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10510)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11311)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11028)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36394)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9665)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34699)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10227)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12191)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13622)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14644)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9140)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24795)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11626)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10305)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15928)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15559)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14508)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12992)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12436)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14563)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18343)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9562)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18503)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18569)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18822)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11823)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47971)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11056)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11055)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12542)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31758)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11654)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant