Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nợ một lời ca dao

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9591)
Nợ một lời ca dao


  Kính dâng hương hồn mẹ Năm

Chiếc xe hơi đời mới, bóng loáng êm ái dừng lại trước đôi trụ cổng vôi màu vàng ố chen lẫn từng mảng rêu đen. Hồng bước ra khỏi xe, đưa tay lấy cặp kính mát khỏi mắt. Trông nàng còn trẻ, khoảng ba mươi, thật sang trọng trong chiếc áo bông vàng và chiếc váy đen. Vài người đàn bà và mấy đứa con nít trong cái xóm quê nghèo tò mò đứng từ xa nhìn lại.

Dường như chẳng để ý đến những gì chung quanh, Hồng đứng yên lặng hồi lâu nhìn sâu vào bên trong cổng rồi thong thả bước vào theo lối đi đất cứng chen sỏi, dọc hai bên là hai hàng cau cao vút đang mùa trổ hoa, và hai mảng vườn rau chạy dài đến hàng giậu giáp nhà hàng xóm. Nàng đi thật chậm như muốn thưởng thức cái không khí trong lành thoang thoảng hương cau của một vùng quê yên tĩnh trong cơn gió hạ chiều.

Cuối lối đi là một khoảng sân rộng. Hồng tần ngần đứng lại. Bên kia khoảng sân là ngôi nhà tranh, vách tường vôi cũ, im lìm nằm trong sự che chở trong bóng mát của tán cây vú sữa bên hiên. Nàng lẩm bẩm:

- Vẫn như xưa, chỉ có cây cối là lớn hơn trước.

Dinh huu 2.jpg

Một người phụ nữ từ trong cửa nhà bếp, quần xăn quá gối, tay bưng rổ rau bước ra, chợt thấy nàng, khựng lại dò xét. Hai người nhìn nhau. Sau một khoảng im lặng cần thiết, người phụ nữ rụt rè lên tiếng:

- Dạ xin lỗi, cô... muốn hỏi ai?

Hồng không trả lời. Nàng cố moi trong trí óc những hình ảnh thương yêu trong quá khứ để đoán người đứng trước mặt mình là ai.

- Dạ,... chị hỏi ai?

Tiếng người phụ nữ lặp lại câu hỏi như có ma lực đánh thức ký ức của nàng trỗi dậy dưới lớp bụi mù thời gian. Nàng hồi hộp:

- Mận? Có phải Mận không?

- Dạ phải, tôi là...

Không kịp để người phụ nữ trả lời hết câu, Hồng bước vội lên ôm chầm lấy. Rồi như không đè nén nổi bao cảm xúc từ lúc bước xuống xe đến giờ, Hồng oà lên khóc, nói trong tiếng thổn thức:

- Mận ơi, là em đây rồi. Chị không thể quên được cái nốt ruồi dưới cằm của em. Chị là Hồng đây, chị Hồng của em đây!

Người phụ nữ thảng thốt, đánh rơi rổ rau. Có lẽ quá bất ngờ không làm cô phản ứng kịp. Nhưng chỉ sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, từ lồng ngực của người phụ nữ tiếng khóc cũng oà vỡ theo:

- Là chị Hồng sao? Ơi, chị Hồng, chị Hai..

Họ như hai khối nam châm dán chặt vào nhau trong tiếng nấc kéo dài. Gió chiều như hòa cùng niềm vui, kéo cành vú sữa bên hiên nhà cúi sát xuống hai người để chứng kiến rõ hơn cái phút giây tái ngộ đầy cảm xúc của hai chị em...

- Ba đâu em? Tiếng Hồng hỏi mau qua nước mắt - Còn cu Bí, dì... dì Năm?

- Dạ, ba bệnh nằm trong nhà, chị vào mau, chị về ba mừng lắm chị Hai ơi!

*
Trong cái không gian tĩnh lặng, nhạt nhòa nắng chiều của ngôi nhà cũ đưa Hồng trở về lại những ngày tháng xa xưa...

Khi Hồng lên sáu, em Mận lên ba thì mẹ mất. Năm năm sau anh Tư tục huyền cùng chị Năm, một thôn nữ cùng làng. Anh bảo hai đứa gọi chị bằng mẹ. Hai năm sau đó chị Năm sinh cu Bí. Hồi ấy chiến tranh đã bắt đầu khốc liệt. Làng quê nhỏ bé của Hồng trở thành vùng xôi đậu, không mấy an ninh nên anh Tư phải lên phố làm ăn, vài ba tháng mới về thăm gia đình một lần.

Tháng ngày lặng lẽ trôi qua, chị Năm một mình quần quật ở quê, khi tiếng chuông chùa làng vừa điểm công phu sáng, chị đã một mình thức dậy, nấu cám cho heo ăn, cắt rau cải, bí bầu, ngày hai buổi gánh ra chợ huyện cách nhà hơn năm cây số để bán lấy tiền. Việc buôn bán của chị không nhất định.

Vào ngày hè nóng bức, chị nấu chè đá, chị cũng buôn cau, hay bòn bon theo mùa từ vùng núi xuôi theo dòng Thu Bồn về phố. Hồng, Mận đi học trường làng, khác buổi nên thay nhau ở nhà trông em Bí, nấu cơm chờ mẹ.

Buổi chiều tan chợ, chị Năm bao giờ cũng mua cho hai đứa một vài chiếc bánh vòng, bánh tai heo, kẹo ngọt hay vài món đồ chơi thủ công. Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.

Cho đến một ngày...

Năm ấy Hồng lên mười lăm tuổi, mải ham chơi, nó không những để nồi cơm cháy khét, mà còn quên trông em, để cu Bí té từ trên giường xuống đất, lăn vào hàng giậu tre. Chiều ấy ở chợ về thấy mặt mày cu Bí bầm tím, và tay chân bị gai tre cào xước nhiều nơi, chị Năm hoảng hốt. Trong lúc tức giận, chị rút vội chiếc nẹp tre quất vào mông Hồng mấy cái, la lớn:

- Tại sao con ham chơi mà bỏ em té thế này? Còn cái tội hai ngày vừa rồi trốn học đi chơi, cô giáo gặp mẹ ở chợ nói mới biết. Học hành gì kiểu đó, lớn lên chỉ đi ăn xin thôi.
Vất chiếc roi vào góc nhà, chị bồng dỗ cu Bí đang bị đau khóc. Hồng nín thinh chịu đựng. Chợt nhìn ra ngoài cổng, nó thấy bà Chín bán bánh bèo ở hàng xóm đang vẫy tay gọi. Nó len lén chạy ra cổng qua nhà bà.

Kéo quần Hồng xuống, bà Chín xuýt xoa:

- Trời ơi, ác chi lắm rứa. Đánh con người ta, lằn ngang lằn dọc thế này. Con không mẹ khổ ơi là khổ. Ông bà mình nói có sai đâu: Mấy đời bánh đúc có xương / Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng. Đã vậy còn mắng nhiếc lớn lên đi ăn mày, ác mồm, ác miệng quá! Mới tí tuổi đầu đã khổ thân rồi. Để bác thoa dầu cho, nhìn thế này mà ai chịu nổi. Tội nghiệp cho con không mẹ!

Giọng bà nghe ai oán, từng lời như từng mũi kim nhọn đâm vào trái tim non nớt của Hồng. Cái ý niệm mẹ ghẻ con chồng lâu nay chưa từng hiện hữu trong đầu óc thơ ngây của nó, hôm nay được bà Chín khơi lên như gieo hạt mầm đúng vào thời vụ. Hồng bặm môi, cái đau vì mấy lằn roi không nhiều, nhưng tình cảm của nó đã bị tổn thương. Hình ảnh mẹ Năm đã không còn như xưa trong cái tâm bắt đầu đầy sóng gió của nó mà bà Chín cố tình khơi động vì chút hiềm khích cá nhân gì đó. Đêm ấy nó nằm thao thức mãi, nhớ lại từng lời bà Chín nói. Nó thấy tủi thân. Nó là đứa con không mẹ.

Trưa hôm sau, khi chị Năm vừa ở chợ về bước vô nhà, Hồng đang ru thằng cu Bí ngủ, cố tình hát lớn:

 - Ầu ơ... mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời dì ghẻ... ầu... ơ... mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng... à...

Chị Năm như đứng khựng lại. Nó liếc lên nhìn và nghe hả dạ khi thấy mặt mẹ tái dần.

Tiếng chị lắp bắp, đứt quãng:

- Hồng, ai... ai dạy con... hát thế?

Quắc mắt nhìn lên, nhớ lời bà Chín, như lửa đổ thêm dầu, nó gằn giọng:

- Bà không phải là mẹ tôi, bà là dì ghẻ của tôi, dì ghẻ, dì ghẻ!

Nó thả tao nôi, đi thẳng ra ngoài, mặc cho tiếng chị Năm gọi theo:

- Hồng, con đi đâu? Vô nhà mẹ bảo...

Từ đó nó trở nên lầm lì, không nói dù chị Năm đã nhỏ nhẹ dỗ dành, khuyên giải cho nó hiểu tình cảm của chị đối với hai chị em nó.

Vài hôm sau, thừa lúc chị Năm còn ở ngoài chợ, lấy mấy bộ quần áo cũ, rồi cầm một ít tiền xe và mảnh giấy bà Chín đưa, có ghi địa chỉ con gái bà đang sống ở Sài Gòn, cần người giúp việc, Hồng đã đón xe bỏ nhà ra đi với quyết tâm “trả thù mẹ ghẻ”. Nó phải giàu, thật giàu chứ không thể là ăn mày được như lời bà Chín nhỏ to với nó mấy ngày qua...

 *

Tiếng Mận kéo Hồng về thực tại:

- Mới đó mà đã mười lăm năm. Mau thật. Cu Bí đã mười bảy rồi, nó đang học lớp mười một trên huyện. Đi học nó tên Lộc, để em nhắn nó về. Gặp chị chắc nó chẳng biết là ai.
Rồi giọng Mận bỗng nghe xa xăm:

- Nhớ lại hôm chị bỏ đi, mẹ về chờ đến tối, không thấy chị về ăn cơm, hốt hoảng đi tìm, hỏi ai cũng không biết, kể cả bà Chín. Mẹ thật tâm cũng có nghi ngờ bà Chín vì trước đó bà đã mấy lần nói mẹ cho chị lên Sài Gòn giúp việc cho con gái bà ấy, nhưng mẹ luôn từ chối. Đêm ấy mẹ không ngủ được. Sáng sớm mai, mẹ gởi em và thằng Bí cho cô Hai bên xóm, đi khắp nơi tìm chị. Tối mẹ về, hai mắt sưng híp. Suốt ngày và đêm đó mẹ khóc mãi.

Trời chưa sáng mẹ đã dặn em trông thằng Bí để lên thành phố tìm ba báo tin, nhưng chưa kịp đi thì súng nổ khắp nơi. Mọi người ùn ùn bỏ làng chạy hết. Mẹ hoảng hốt, gói vội ít đồ, tay bồng cu Bí, tay dắt em cùng chạy theo dòng người tránh bom đạn. May mắn vừa ra khỏi làng thì gặp ba chạy về. Lúc ấy chẳng còn hy vọng chi tìm được chị nữa. Chị ở đâu?

Hồng bồi hồi nhớ lại:

- Sáng hôm sau chị lên đến Sài Gòn thì thấy người ta chạy hỗn loạn. Chị chẳng biết làm sao, sợ quá, hối hận muốn về nhưng làm sao về được, nên vừa khóc vừa theo người ta mà chạy dù chẳng biết chạy đi đâu. Cuối cùng họ tranh nhau lên một chiếc tàu to, chị cũng bị dòng người đẩy lên. Tàu lênh đênh ngoài biển nhiều ngày rồi được đưa qua Úc ở trong một trại tị nạn. Vài tuần sau, chị được một gia đình nhận làm con, nuôi ăn học cho đến khi chị tốt nghiệp và ra làm ăn.

Tiếng Mận chậm rãi :

- Khi tình hình yên rồi, ba mẹ đã cố gắng suốt mấy năm liền đi tìm chị, nhưng bặt vô âm tín, không biết chị còn sống hay đã chết. Mẹ nhớ chị, mỗi lần nhắc đến là khóc. Mẹ hối hận vì lỡ nóng giận đánh chị mấy roi. Mẹ tự trách mình. Năm ngoái mẹ bệnh nặng, không qua khỏi. Đến khi sắp mất, mẹ cầm tay em, khóc dặn nếu sau này chị còn sống trở về thì nói dùm mẹ, chị hãy, chị hãy... tha... tha thứ... cho...

Mận mím chặt môi để khỏi bật lên tiếng khóc, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt.

Ông Tư nãy giờ im lặng, đưa tay quệt dòng nước mắt, từ từ lên tiếng:

- Hồi ấy con còn nhỏ dại nên chưa hiểu được lòng mẹ Năm. Nhớ lại năm con lên mười ba tuổi, bị xe tông trên đường đi học về, bất tỉnh. Ba và mẹ Năm phải cáng con chạy bộ hơn bảy cây số để đưa con xuống cấp cứu bệnh viện huyện. Con bị mất nhiều máu, phải truyền gấp, mà bệnh viện không còn máu cùng nhóm với con. May là sau khi thử, mẹ Năm có cùng nhóm máu. Dù mới sanh thằng Bí dậy, mẹ cũng đã yêu cầu lấy đủ máu để cứu con. Lo lắng, mệt mỏi vì chăm sóc con ở bệnh viện, sau khi con khỏe về nhà thì mẹ Năm đã ngả bệnh cả tháng trời... Chắc con còn nhớ!

Như có một sức mạnh vô hình nào, Hồng bàng hoàng bước vội đến bàn thờ và quỳ xuống. Nhìn bức ảnh mẹ Năm nhạt nhòa qua làn nước mắt, Hồng nức nở:

- Mẹ ơi, con có tội với mẹ. Ơn đức mẹ vô cùng. Mẹ tha thứ cho con. Con nợ mẹ một lời ca dao, một lời ca dao, mẹ ơi! Dù giàu có bao nhiêu, suốt đời này con cũng không làm sao trả nổi!

Truyện ngắn của Doãn Lê
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15550)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22986)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14023)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12948)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55076)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9128)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14408)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36270)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19854)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19175)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19098)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17614)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15903)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14964)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14657)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46146)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35892)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21573)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23364)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19461)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18920)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22908)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18323)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19818)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19512)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33382)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34443)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54474)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37674)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21111)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63607)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17353)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49621)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27382)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20248)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22998)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16311)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17892)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20926)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17336)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14450)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16357)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17453)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21952)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15088)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13479)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14349)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15363)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14961)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13328)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27370)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12486)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13169)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14458)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16197)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15379)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12850)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12178)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21613)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11267)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22683)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15040)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14541)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12603)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18884)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14711)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43835)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56930)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13640)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14551)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33273)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38336)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15384)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40363)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43386)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46621)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant