THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 1
ĐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ
A. Phái
Hành Tư
10.
THIỀN SƯ THIÊN NHIÊN
Ðơn
Hà - (738 - 824)
Không
biết Sư quê quán ở đâu, chỉ biết Sư trước học Nho đi
vào Trường An ứng cử, dừng nghỉ ở nhà trọ, chợt mộng
thấy hào quang trắng đầy nhà. Người chiếm mộng đoán:
"điềm hiểu Không". Gặp một Thiền khách hỏi:
- Nhân
giả đi đâu?
Sư
đáp:- Ði thi làm quan.
- Thi
làm quan đâu bằng thi làm Phật?
- Thi
làm Phật phải đến chỗ nào?
- Hiện
nay ở Giang Tây có Mã Ðại sư ra đời, là trường thi làm
Phật, nhân giả nên đến đó.
Sư
bỏ thi, tìm đến Giang Tây ra mắt Mã Ðại sư (Ðạo Nhất).
Vừa thấy Mã Ðại sư, Sư bèn lấy tay giở chiếc khăn trên
đầu.
Mã
Ðại sư nhìn giây lâu bảo:- Nam Nhạc Thạch Ðầu là thầy
của ngươi.
Sư
từ giã Mã Ðại sư đi sang Thạch Ðầu.
Ðến
Thạch Ðầu, Sư cũng làm giống như ở Mã Ðại sư.
Thạch
Ðầu bảo:- Ra nhà đi.
Sư
lễ tạ xong, vào phòng cư sĩ, luân phiên làm bếp ngót ba năm.
*
Một
hôm Thạch Ðầu bảo chúng:- Ngày mai cắt cỏ ở trước điện
Phật.
Sáng
hôm sau, đại chúng mỗi người cầm liềm cầm cuốc đến
trước chùa làm cỏ. Chỉ riêng Sư lấy thau múc nước gội
đầu, đến quì gối trước Hòa thượng. Thạch Ðầu thấy
thế cười, liền cạo tóc cho Sư. Cạo xong Thạch Ðầu lại
vì Sư nói giới. Sư bịt tai ra đi.
Sư
trở lại Giang Tây yết kiến Mã Ðại sư. Chưa lễ ra mắt,
Sư đi thẳng về tăng đường trèo lên cổ tượng Thánh tăng
ngồi. Ðại chúng kinh ngạc chạy báo cho Mã Ðại sư hay. Mã
Ðại sư đích thân vào tăng đường trông thấy bèn nói:
- Con
ta, Thiên Nhiên.
Sư
bèn bước xuống đất lễ bái, thưa:- Cảm tạ Thầy ban cho
pháp hiệu.
Mã
Ðại sư hỏi:- Từ đâu đến?
Sư
thưa:- Từ Thạch Ðầu đến.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn, ngươi có té chăng?
- Nếu
có trợt té thì chẳng đến đây.
*
Từ
biệt Mã Tổ, Sư đi dọc đường gặp một ông già dắt một
đứa bé.
Sư
hỏi:- Ông nhà ở đâu?
Ông
già đáp: - Trên là trời dưới là đất.
Sư
bảo:- Chợt gặp trời đổ đất sụp thì sao?
Ông
già đáp: - Trời xanh! Trời xanh!
Ðứa
bé: hư! một tiếng.
Sư
bảo:- Không phải cha này chẳng sanh được đứa con kia.
Ông
già dắt đứa bé vào núi mất.
*
Sư
đi du phương, đến núi Thiên Thai, chót Hoa Ðảnh dừng ở
ba năm, sau đó, Sư viếng những nơi như Cảnh Sơn yết kiến
Thiền sư Quốc Nhất. Ðời Ðường khoảng niên hiệu Nguyên
Hòa (806-821 T.L.) Sư đến Lạc Kinh Long Môn Hương Sơn làm bạn
với Hòa thượng Phục Ngưu. Sư lại đến chùa Huệ Lâm, gặp
lúc trời đại hàn, Sư bèn thỉnh tượng Phật gỗ đốt để
hơ, Viện chủ Hướng trông thấy quở:
- Sao
đốt tượng Phật của tôi?
Sư
lấy gậy bới tro nói:- Tôi thiêu để lấy xá-lợi.
Viện
chủ bảo:- Phật gỗ làm gì có xá-lợi.
Sư
nói:- Ðã không có xá-lợi thì thỉnh thêm hai vị nữa thiêu.
Viện
chủ nghe câu nói này tất cả chấp đều tan vỡ.
*
Một
hôm, Sư đến yết kiến Quốc sư Huệ Trung, trước hỏi thị
giả:
- Quốc
sư có ở nhà chăng?
Thị
giả bảo:- Ở nhà thì ở mà không thấy khách.
Sư
bảo:- Rất sâu xa thay!
Thị
giả bảo:- Mắt Phật cũng nhìn chẳng thấy.
Sư
khen:- Rồng sanh rồng con, phụng sanh phụng con.
Quốc
sư ngủ dậy, thị giả thuật lại, Quốc sư đánh thị giả
hai chục gậy đuổi ra.
Sư
nghe việc ấy bèn nói:- Không lầm là Nam Dương Quốc sư.
*
Hôm
sau, Sư lại đến yết kiến Quốc sư, thấy Quốc sư, Sư bèn
trải tọa cụ. Quốc sư bảo:
- Chẳng
dùng, chẳng dùng.
Sư
bước lui.
Quốc
sư bảo:- Như thế, như thế.
Sư
tiến lại trước.
Quốc
sư bảo: - Chẳng phải, chẳng phải.
Sư
đi quanh Quốc sư một vòng rồi lui ra.
Quốc
sư bảo:- Cách Phật đã xa người nhiều lười biếng, ba mươi
năm sau tìm kẻ này lại khó được.
*
Sư
đến thăm cư sĩ Long Uẩn, thấy con gái Long Uẩn là Linh Chiếu
đang rửa rau, Sư hỏi:
- Cư
sĩ có nhà chăng?
Linh
Chiếu buông rổ rau xuống, đứng khoanh tay.
Sư
lại hỏi:- Cư sĩ có nhà chăng?
Linh
Chiếu bèn bưng rổ rau lên đi thẳng.
Sư
bèn trở về. Chốc lát sau, Long Uẩn về. Linh Chiếu đem việc
rồi thuật lại. Long Uẩn hỏi:
- Ðơn
Hà ở đâu?
Linh
Chiếu thưa:- Ðã về.
Long
Uẩn bảo:- Con lấy đất đỏ nặn trâu.
Lại
một hôm, Sư đến thăm Long Uẩn, vừa đến cửa gặp nhau.
Sư
hỏi:- Cư sĩ có nhà chăng?
Long
Uẩn đáp:- Ðói chẳng chọn thức ăn.
Sư
lại hỏi:- Ông Long có nhà chăng?
Long
Uẩn đáp:- Trời xanh! trời xanh!
Nói
xong Long Uẩn vào nhà.
Sư
nói:- Trời xanh! trời xanh!
Nói
xong Sư trở về.
Hôm
sau, Sư lại đến Long Uẩn, Sư bảo:
- Hôm
qua thấy nhau đâu giống ngày nay.
Long
Uẩn đáp:- Ðúng pháp nhắc lại việc hôm qua để làm con
mắt quí.
- Chỉ
như con mắt quí lại xem đến Long công chăng?
- Tôi
ở trong con mắt của Thầy.
- Con
mắt tôi chật hẹp chỗ nào an thân?
- Là
con mắt gì chật? là thân nào an?
Sư
thôi bỏ đi.
Long
Uẩn nói:- Lại nói lấy một câu là được tròn lời này.
Sư
vẫn không nói.
Long
Uẩn lại nói:- Tựu trung một câu cũng không người nói được.
*
Ðời
Ðường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808 T.L.) một hôm, Sư
nằm ngang trên cầu Thiên Tân. Hội lưu thú là Trịnh Công
ra đuổi mà Sư không dậy. Trịnh Công gạn hỏi duyên do. Sư
chậm rãi đáp:
- Tăng
vô sự.
Trịnh
Công lấy làm lạ, phát tâm dâng hai bó lụa và hai áo ngắn.
Từ đây mỗi ngày, Trịnh Công thường dâng cúng gạo bún.
Dân chúng ở kinh đô Lạc Dương đồng qui kính Sư.
*
Ðến
niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười lăm (820 T.L.) vào mùa Xuân,
Sư bảo đồ đệ:
- Ta
nhớ suối rừng chỗ gởi thân ngày già.
Môn
đệ sai Tề Tịnh Phương đến Nam Dương núi Ðơn Hà cất
am cúng dường. Sư về núi Ðơn Hà khoảng ba năm, những người
học đạo tìm đến tham học số thường đến ba trăm. Chúng
xây cất thành viện lớn.
Sư
thượng đường dạy chúng:
- Tất
cả các ngươi đều phải bảo hộ một vật linh, chẳng phải
các ngươi tạo tác danh mạo, lại nói gì là tiến cùng chẳng
tiến. Ta ngày xưa yết kiến Hòa thượng Thạch Ðầu cũng
chỉ dạy cần phải tự bảo hộ. Việc này không phải tự
các ngươi nói bàn mà được. Tất cả mỗi người các ngươi
đều tự có một chỗ đất ngồi, lại nghi cái gì? Thiền
đâu phải là vật để các ngươi hiểu, đâu có Phật khá
thành. Một chữ Phật hằng không thích nghe. Các ngươi tự
xem, thiện xảo phương tiện từ bi hỉ xả chẳng phải từ
ngoài được, chẳng dính một tấc vuông, thiện xảo là Văn-thù,
phương tiện là Phổ Hiền. Các ngươi lại nghĩ tìm đuổi
vật gì? Chẳng cần hằng cầu, chẳng rơi vào không. Học
giả thời nay lăng xăng lộn xộn cho là tham thiền hỏi đạo.
Ta dạo này không đạo có thể tu, không pháp có thể chứng,
miếng ăn thức uống mỗi cái tự có phần, đâu cần phải
nghi ngờ. Mỗi nơi mỗi chỗ có cái gì? Nếu biết Thích-ca
tức là ông già phàm phu, các ngươi phải tự xem xét lấy.
Chớ để một người mù dẫn đám mù kéo nhau rơi vào hầm
lửa, đêm tối hai đường, màu sắc mập mờ. Vô sự trân
trọng!
*
Có
vị Tăng đến tham học, vừa tới chân núi gặp Sư. Tăng hỏi:
- Núi
Ðơn Hà phải đi đường nào?
Sư
chỉ núi bảo:- Chỗ xanh sâm sẩm.
Tăng
thưa:- Chớ chỉ cái ấy là phải sao?
Sư
bảo:- Thật sư tử con, một phen khêu động liền nhảy.
*
Sư
hỏi vị Tăng:- Nghỉ ở đâu?
Tăng
thưa:- Nghỉ dưới núi.
- Ăn
cơm chỗ nào? Người đem cơm cho Xà-lê ăn có đủ mắt không?
Tăng
không đáp được.
*
Niên
hiệu Trường Khánh năm thứ tư (824 T.L.) ngày hai mươi ba tháng
sáu, Sư gọi đệ tử bảo:
- Lấy
nước nóng tắm, ta sắp đi đây.
Tắm
xong, Sư đội mũ mang giày cầm trượng, duỗi một chân chưa
đến đất liền tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Vua sắc phong
là Trí Thông Thiền sư, tháp hiệu Diệu Giác.
*
Sư
có làm hai bài "Ngoạn Châu Ngâm", hiện còn lưu hành.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.