THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 1
ĐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ
B.
Phái Hoài Nhượng
28.
CƯ SĨ LONG UẨN
Ông
người huyện Hành Dương, Xung Châu, tự là Ðạo Huyền, gia
thế chuyên nghiệp Nho, đời sống rất thanh đạm, hiểu ngộ
ít phần trần lao, quyết chí cầu giải thoát.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785 T.L.), ông đến
yết kiến Hòa thượng Thạch Ðầu, hỏi:
- Chẳng
cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Thạch
Ðầu lấy tay bụm miệng ông. Ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một
hôm Thạch Ðầu hỏi:
- Từ
ngày ông thấy Lão tăng đến nay hằng ngày ông làm việc gì?
Ông
thưa:
- Nếu
hỏi việc làm hằng ngày tức không có chỗ mở miệng.
Ông
liền trình một bài kệ:
Nhật dụng sự vô biệt
Duy ngô tự ngẫu hài
Ðầu đầu phi thủ xả
Xứ xứ vật tương oai
Châu tử thùy vi hiệu
Khưu sơn tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy cập ban sài.
Dịch:
Hằng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước bửa củi tài.
Thạch
Ðầu hứa khả, bảo:- Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?
Ông
thưa:- Xin cho con theo sở nguyện không cạo tóc xuất gia.
Ông
đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:
- Chẳng
cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Mã
Tổ bảo:
- Ðợi
miệng ông hút hết nước Giang Tây, ta sẽ nói với ông.
Ngay
câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ
Mã Tổ hai năm.
*
Sau
khi đốn ngộ, ông về nhà lấy thuyền chở của cải đem
đổ xuống sông Tương. Ông chỉ cất một cái thất nhỏ ở
tu hành. Có người con gái tên Linh Chiếu thường theo hầu
hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán nuôi cha.
Ông
có làm bài kệ:
Hữu nam bất thú
Hữu nữ bất giá
Ðại gia đoàn biến đầu
Cọng thuyết vô sanh thoại.
Dịch:
Có trai không cưới
Có gái không gả
Cả nhà chung hội họp
Ðồng bàn lời vô sanh.
Ông
nói năng lanh lợi, các nơi đều nghe tiếng. Ông thường đến
các chỗ giảng kinh phát tâm tùy hỉ.
Có
vị Sư giảng kinh Kim Cang đến chỗ "vô ngã vô nhân". Ông
bèn hỏi:
- Tọa
chủ đã "vô ngã vô nhân" (không ta không người), vậy ai giảng
ai nghe?
Tọa
chủ không đáp được.
Ông
nói:- Tuy tôi là người tục cũng tin biết thô thiển.
Tọa
chủ hỏi:- Theo cư sĩ ý thế nào?
Ông
bèn giải bằng bài kệ:
Vô ngã phục vô nhân
Tác ma hữu sơ thân
Khuyến quân hưu lịch tọa
Bất tợ trực cầu chân
Kim Cang Bát-nhã tánh
Ngoại tuyệt nhất tim trần
Ngã văn tịnh tín thọ
Tổng thị giả danh trần.
Dịch:
Không ngã lại không nhân
Làm gì có thân sơ
Khuyên ông đừng ngồi mãi
Ðâu bằng thẳng cầu chân
Tánh Kim Cang Bát-nhã
Chẳng dính một mảy trần
Tôi nghe với tin nhận
Thảy đều giả danh trần.
Tọa
chủ nghe kệ rồi, vui vẻ khen ngợi:
- Chỗ
cư sĩ đến phần nhiều các bậc lão túc đã qua.
*
Ông
đến viếng Ðơn Hà. Ðơn Hà làm thế chạy.
Ông
nói:- Vẫn là thế phóng thân, thế nào là thế tần thân?
Ðơn
Hà liền ngồi.
Ông
lấy gậy vẽ dưới đất chữ Thất.
Ðơn
Hà vẽ đáp chữ Nhất.
Ông
nói:- Nhân bảy thấy một, thấy một quên bảy.
Ðơn
Hà đứng dậy đi.
Ông
gọi:- Hãy ngồi nán một chút, vẫn còn câu thứ hai.
Ðơn
Hà bảo: - Trong ấy nói được sao?
Ông
bèn khóc ra đi.
*
Một
hôm, ngồi trong am, ông chợt nói:
- Khó
khó mười tạ dầu mè trên cây vuốt. (Nan nan thập thạch
du ma thọ thượng than.)
Long
bà đáp:
- Dễ
dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư. (Dị dị bách thảo đầu
thượng Tổ sư ý.)
Linh
Chiếu tiếp:
- Cũng
chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò.
(Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy.)
*
Ông
ngồi hỏi Linh Chiếu:
- Cổ
nhân nói: "sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư" (minh
minh bách thảo đầu, minh minh Tổ sư ý) là sao?
Linh
Chiếu thưa:
- Lớn
lớn già già thốt ra lời nói ấy. (Lão lão đại đại tác
giá cá ngữ thoại.)
Ông
hỏi:- Con thế nào?
- Sáng
sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư.
Ông
bèn cười.
*
Ông
có làm bài kệ:
Tâm như cảnh diệc như
Vô thật diệc vô hư
Hữu diệc bất quản
Vô diệc bất cư
Bất thị Hiền Thánh
Liễu sự phàm phu
Dị phục dị
Tức thử ngũ uẩn hữu chân trí
Thập phương thế giới nhất thừa đồng
Vô tướng pháp thân khởi hữu nhị
Nhược xả phiền não nhập Bồ-đề
Bất tri hà phương hữu Phật địa.
Dịch:
Tâm như cảnh cũng như
Không thật cũng không hư
Có cũng chẳng quản
Không cũng chẳng cư
Chẳng phải hiền thánh
Xong việc phàm phu
Dễ lại dễ
Tức năm uẩn này có chân trí
Thế giới mười phương đồng một thừa
Pháp thân không tướng nào có nhị
Nếu bỏ phiền não vào Bồ-đề
Chẳng biết nơi nào có Phật địa?
Lại
có bài kệ:
Hộ sanh tu thị sát
Sát tận thủy an cư
Hội đắc cá trung ý
Thiết truyền thủy thượng phù.
Dịch:
Hộ sanh cần phải giết
Giết hết mới ở yên
Hiểu được ý trong đó
Thuyền sắt nổi phao phao.
*
Sắp
tịch, ông bảo Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho
ông hay. Linh Chiếu ra xem vào thưa:
- Mặt
trời đã đúng ngọ, mà có nguyệt thực.
Ông
ra cửa xem.
Linh
Chiếu lên tòa của ông ngồi kiết già chấp tay thị tịch.
Ông
vào xem thấy cười, nói:- Con gái ta lanh lợi quá!
Ông
bèn chậm lại bảy ngày sau.
*
Châu
mục Vu Công đến thăm bệnh ông.
Ông
bảo:
- Chỉ
mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật,
khéo ở thế gian đều như bóng vang.
Nói
xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch.
*
Tin
ông tịch đưa về nhà cho bà hay.
Bà
nói:
- Con
gái ngu si với ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành
vậy?
Bà
ra báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói:
- Long
công với Linh Chiếu đi rồi con!
Người
con trai đang bừa đáp:- Dạ!
Rồi
lặng thinh giây lâu bèn đứng mà tịch.
Bà
nói:- Thằng này sao ngu si lắm vậy!
Lo
thiêu con xong, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích.
*
Ông
Long Uẩn có làm thi kệ hơn ba trăm thiên còn lưu truyền ở
đời.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.