THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 1
ĐỜI THỨ TƯ SAU LỤC TỔ
B.
Phái Hoài Nhượng
36.
THIỀN SƯ HY VẬN
Hoàng
Bá - (? - 850)
Sư
người tỉnh Mân (tỉnh Phước Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ
xuất gia trên núi Hoàng Bá tại bản châu. Trên trán Sư có
cục thịt nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý
chí đạm bạc.
Ði
dạo núi Thiên Thai, Sư gặp một vị Tăng nói chuyện với
nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người Mục quang
xạ. Hai người đồng hành, gặp một khe suối nước đầy
chảy mạnh, Sư lột mũ chống gậy đứng lại. Vị Tăng kia
thúc Sư đồng qua. Sư bảo:
- Huynh
cần qua thì tự qua.
Vị
Tăng kia liền vén y, bước trên sóng như đi trên đất bằng.
Qua đến bờ, vị Tăng kia xây lại hối:
- Qua
đây! qua đây!
Sư
bảo:
- Bậy!
Việc ấy tự biết. Nếu tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi
huynh.
Vị
Tăng kia khen:
- Thật
là pháp khí Ðại thừa, tôi không bì kịp.
Nói
xong, không thấy vị Tăng ấy nữa.
*
Sư
đến kinh đô nhờ người mách đến tham vấn Mã Tổ, đến
nơi Mã Tổ đã tịch. Sư đến Thạch Môn lễ tháp, rồi tìm
đến Bá Trượng.
Bá
Trượng hỏi:- Chững chạc to lớn từ đâu đến?
Sư
thưa:- Chững chạc to lớn từ Lãnh Nam đến.
- Chững
chạc to lớn sẽ vì việc gì?
- Chững
chạc to lớn chẳng vì việc khác.
Sư
liền lễ bái hỏi:- Từ trước tông thừa chỉ dạy thế nào?
Bá
Trượng lặng thinh.
Sư
thưa:- Không thể dạy người sau, dứt hẳn mất.
Bá
Trượng bảo:- Sẽ nói riêng với ngươi.
Bá
Trượng đứng dậy đi vào phương trượng. Sư đi theo sau,
thưa:
- Con
đến riêng một mình.
Bá
Trượng bảo:
- Nếu
vậy, ngươi sau sẽ không cô phụ ta.
*
Một
hôm, Bá Trượng hỏi:- Ở đâu đến?
Sư
thưa:- Nhổ nấm dưới núi Ðại Hùng đến.
- Lại
thấy đại trùng chăng?
Sư
làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa thủ thế. Sư vỗ
vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi.
Bá
Trượng thượng đường bảo chúng:
- Dưới
núi Ðại Hùng có con đại trùng, các ngươi nên xem. Lão Bá
Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và bị cắn một
cái.
*
Sư
ở chỗ Nam Tuyền. Một hôm, toàn chúng đi hái trà, Nam Tuyền
hỏi:
- Ði
đâu?
Sư
thưa:- Ði hái trà.
- Ðem
cái gì hái?
Sư
đưa con dao lên. Nam Tuyền bảo:- Tất cả đi hái trà đi.
*
Hôm
nọ, Nam Tuyền bảo Sư:
- Lão
Tăng ngẫu hứng làm bài ca "Chăn Trâu", mời Trưởng lão hòa.
Sư
thưa:- Tôi tự có thầy rồi.
*
Sư
từ giã đi nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng, cầm chiếc
mũ của Sư đưa lên hỏi:
- Trưởng
lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?
Sư
thưa:- Tuy nhiên như thế, đại thiên thế giới đều ở trong
ấy.
Nam
Tuyền bảo:- Vương lão sư vậy.
Sư
đội mũ ra đi.
*
Sau,
Sư về trụ trì tại Hồng Châu chùa Ðại An. Ðồ chúng tìm
đến rất đông.
Có
lần, Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu.
Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi
thầy trụ trì:
- Vẽ
cái gì đây?
Thầy
trụ trì đáp:- Vẽ hình Cao tăng.
Bùi
Hưu hỏi:- Hình có thể thấy, Cao tăng ở đâu?
Thầy
trụ trì không đáp được.
Bùi
Hưu hỏi:
- Trong
đây có Thiền nhân chăng?
Thầy
trụ trì đáp:
- Vừa
có một vị Tăng vào chùa đang làm việc in tuồng Thiền giả.
Bùi
Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói:
- Hưu
vừa có một câu hỏi, chư đức tiếc lời, giờ thỉnh thượng
nhân đáp thế một câu.
Sư
bảo:- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi
Hưu lặp lại câu hỏi trước.
Sư
dùng tiếng trong thanh gọi:- Bùi Hưu!
Bùi
Hưu:- Dạ!
Sư
bảo:- Ở chỗ nào?
Bùi
Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ như được hạt châu trên
búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ làm thầy.
*
Có
hôm Bùi Hưu hỏi:- Thế nào là Phật?
Sư
đáp:
- Tức
tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm khởi
tâm động niệm, có không, dài ngắn, ta người, năng sở...
Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm, tâm như hư không, sở
dĩ nói: "Chân Pháp thân của Phật ví như hư không." Không
nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua số kiếp
như cát sông Hằng tu hành lục độ vạn hạnh, được Phật
Bồ-đề, cũng không phải cứu kính. Vì cớ sao? Vì thuộc
về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô
thường. Sở dĩ nói: "Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng
không phải nói pháp." Cốt biết tâm mình không ngã không nhân
xưa nay là Phật.
Bùi
Hưu hỏi:
- Tâm
đã xưa nay là Phật, lại cầu tu lục độ vạn hạnh chăng?
Sư
đáp:
- Ngộ
tại tâm, không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ
vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật
độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thật tế, giải thoát,
pháp thân, thẳng đến thập địa, bốn quả vị thánh đều
là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật,
nên nói: "Tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc
nhất." Chỉ không tâm sanh tử phiền não v.v... tức không cần
đến pháp Bồ-đề v.v... nên nói "Phật nói tất cả pháp
để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất
cả pháp" (Tổ Huệ Năng). Từ Phật đến Tổ không luận việc
gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là "Nhất thừa", nên
nói "tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng
sanh này không còn nhánh lá, chỉ toàn hạt chắc (kinh Pháp
Hoa). Bởi vì ý này khó tìm, nên Tổ Ðạt-ma sang xứ này đến
hai nước Lương, Ngụy mà chỉ có một mình Huệ Khả đại
sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội "tức
tâm là Phật". Thân tâm đều không, ấy là đại đạo. Ðại
đạo xưa nay bình đẳng, nên nói "tin sâu chúng hàm sanh đồng
một chân tánh". Tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm
không khác tánh, gọi đó là Tổ. Lại có câu: "Khi nhận được
tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn."
Sau
này, Tướng quốc Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại
Thiền uyển thỉnh Sư làm hóa chủ ở đó. Vì mến núi cũ
nên Sư vẫn để hiệu là Hoàng Bá [Phần truyền dạy của
Sư cho Bùi Hưu đầy đủ, nên đọc phần sưu tập "Tối Thượng
Thừa Luận"].
*
Một
hôm, Sư thượng đường, đại chúng vân tập, Sư bảo:
- Các
ngươi! các ngươi muốn cầu cái gì?
Sư
cầm trượng đuổi chúng. Ðại chúng không tan. Sư lại ngồi
xuống bảo:
- Các
ngươi toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành khước để
cho người chê cười.
Thà
cam thấy tám trăm, một ngàn người giải tán, chớ không thể
chịu sự ồn náo. Ta khi đi hành khước hoặc gặp dưới rễ
cỏ có cái ấy, là đem hết tâm tư xem xét nó. Nếu biết
ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong
lúc đó, nếu dễ dàng như các ngươi hiện giờ thì làm gì
có việc ngày nay. Các ngươi đã xưng là hành khước, cần
phải có chút ít tinh thần như thế, mới có thể biết đạo.
Trong nước Ðại Ðường không có Thiền sư sao?
Có
vị Tăng ra hỏi:
- Bậc
tôn túc ở các nơi hợp chúng chỉ dạy, tại sao nói không
Thiền sư?
Sư
bảo:
- Chẳng
nói không thiền, chỉ nói không Sư. Xà-lê chẳng thấy sao,
dưới Mã Tổ Ðại sư có tám mươi bốn người ngồi đạo
tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người,
Hòa thượng Lô Sơn Qui Tông là một trong số ấy.
Phàm
người xuất gia phải biết sự phần từ trước lại mới
được. Vả như, dưới Tứ Tổ, Ðại sư Ngưu Ðầu Pháp Dung
nói dọc nói ngang vẫn chưa biết then chốt hướng thượng.
Có con mắt này mới biện được tông đảng tà chánh. Người
hiện giờ không hay thể hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ
nhầm trong đãy da tức chỗ đến an ổn, xưng là ta hội thiền,
lại thay việc sanh tử cho ngươi được chăng? Khinh thường
bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn. Ta vừa thấy
ngươi vào cửa liền biết được rồi. Lại biết chăng? Cần
kíp nỗ lực chớ dung dị. Thọ nhận chén cơm manh áo của
người mà để một đời qua suông, người sáng mắt chê cười.
Ngươi thời gian sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi. Phải
tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt? Nếu hội liền hội,
nếu không hội giải tán đi. Trân trọng!
*
Sư
Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:- Thế nào là đại ý Phật
pháp?
Sư
liền đập một gậy. Ðến ba phen hỏi, mỗi lần đều bị
một gậy. Sau cùng, Sư Lâm Tế phải từ giã Sư đi nơi khác.
Sư dạy qua tham vấn Ðại Ngu. Sau này, Lâm Tế đắc ngộ ý
chỉ của Sư.
*
Chỗ
chỉ dạy của Sư đều nhằm vào bậc thượng căn, người
trung và hạ khó thấy được yếu chỉ.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Ðại Trung (847-860 T.L.), Sư tịch
tại núi Hoàng Bá.
Nhà
vua sắc thụy là Ðoạn Tế Thiền sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.
Sư
có làm bài kệ khích lệ chúng:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Ðầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.