THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 2
ĐỜI THỨ
NĂM SAU LỤC TỔ
A. Phái
Hành Tư
4.
THIỀN SƯ ĐẠI ĐỒNG
Núi
Đầu Tử - (819-914)
Sư
họ Lưu người Hoài Ninh, Châu Thơ. Thuở bé, Sư xuất gia với
Thiền sư Mãn ở Bảo Đường. Ban đầu, Sư tập quán hơi
thở, kế xem kinh Hoa Nghiêm phát minh Tánh hải, lại đến núi
Thúy Vi nơi hội của Thiền sư Vô Học tham vấn và được
thâm ngộ.
Một
hôm Sư hỏi:- Thế nào là Phật lý?
Thiền
sư Vô Học đáp:-Phật tức chẳng lý.
- Chẳng
rơi vào không chăng?
Thiền
sư Vô Học lại dùng bài kệ sấm ký rằng:
Phật
lý hà tằng lý Phật lý đâu từng lý
Chân
không hựu bất không. Chân không lại chẳng không.
Đại-Đồng
cư tịch trụ Đại-Đồng ở tịch trụ
Phu
diễn ngã sư tông. Bày diễn đạo cha ông.
Sau,
Sư về ở ẩn tại núi Đầu Tử cất am tranh tên Tịch Trụ.
*
Một
hôm, Triệu Châu Tùng Thẩm đến huyện Đồng Thành, Sư cũng
có việc xuống núi, giữa đường hai người gặp nhau mà không
biết nhau. Triệu Châu hỏi thăm những người cư sĩ biết
là Đầu Tử, liền nghịch rằng:
- Phải
chủ núi Đầu Tử chăng?
Sư
đáp:- Cho tôi xin tiền trà muối.
Triệu
Châu đi thẳng đến am trước, ngồi chờ. Sư mang một bình
dầu về am. Triệu Châu hỏi:
- Nghe
danh Đầu Tử đã lâu, đến đây chỉ thấy ông già bán dầu.
Sư
đáp:- Thầy chỉ thấy ông già bán dầu, là không biết Đầu
Tử.
- Thế
nào là Đầu Tử?
Sư
đưa bình dầu lên đáp:-Dầu! dầu!
*
Triệu
Châu hỏi:- Khi ở trong chết được sống là thế nào?
Sư
đáp:- Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.
Triệu
Châu nói:- Ta sớm là trắng, y lại là đen.
*
Từ
đó, đạo hạnh của Sư đồn khắp, khách tập đạo đua nhau
kéo đến.
Sư
bảo chúng rằng:
- Các
ngươi đến đây nghĩ tìm ngôn ngữ hay đẹp, góp lời văn
vẻ, trong miệng quí có nói ra, lão già này khí lực yếu kém,
môi lưỡi chậm lụt. Nếu các ngươi hỏi ta, ta tùy câu hỏi
mà đáp. Đối đáp không có gì huyền diệu có thể kịp được
ngươi, cũng không dính gì đến tai ngươi. Trọn không nói
hướng thượng hướng hạ, có Phật có Pháp, có phàm có thánh.
Trong chỗ các ngươi bị trói buộc, biến hiện ngàn thứ,
thảy đều khiến các ngươi sanh hiểu rồi tự mang gánh lấy,
sau này tự làm tự chịu. Trong ấy không có gì cho các ngươi,
chẳng dám lừa dối các ngươi, không ngoài không trong, có
thể nói được na ná. Các ngươi lại biết chăng?
*
Tuyết
Phong (Nghĩa Tồn) đứng hầu, Sư chỉ một phiến đá trước
am bảo:
- Chư
Phật ba đời thảy ở trong ấy.
Tuyết
Phong thưa:-Nên biết có cái chẳng ở trong ấy.
Sư
bảo:- Chẳng thích, thùng sơn.
*
Một
hôm, Tuyết Phong theo Sư đi thăm am chủ Long Miên. Tuyết Phong
hỏi: "Đường Long Miên đi về phía nào?" Sư lấy cây gậy
chỉ tới trước mặt. Tuyết Phong hỏi: "Đi bên đông hay đi
bên tây?" Sư bảo: "Chẳng thích! Thùng sơn."
*
Hôm
khác, Tuyết Phong hỏi:
- Khi
một chùy liền thành thì thế nào?
Sư
đáp:- Chẳng phải kẻ tánh thô tháo.
- Khi
chẳng nhờ một chùy thì sao?
- Chẳng
thích, thùng sơn.
*
Sư
ngồi trong am, Tuyết Phong hỏi: "Hòa thượng độ này có người
tham vấn chăng?" Sư với lấy cây cuốc dưới sàn ném trước
mặt Tuyết Phong. Tuyết Phong thưa: "Thế ấy, chính chỗ này
cuốc đi." Sư bảo: "Chẳng thích, thùng sơn."
*
Tuyết
Phong từ ra đi, Sư tiễn ra cửa, liền gọi: ?Đạo giả? Tuyết
Phong ngoái đầu lại: "dạ!" Sư bảo: "đi đường vui vẻ".
*
Có
vị Tăng hỏi Triệu Châu: "Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức
chăng?" Triệu Châu đáp: "Trên dòng nước chảy xiết, đá
cầu." Sau, vị Tăng ấy đến hỏi Sư: "Trên dòng nước chảy
xiết, đá cầu, ý nghĩa thế nào?" Sư đáp:
- Niệm
niệm chẳng tạm dừng.
*
Có
vị Tăng hỏi Sư:- Cũng đồng là nước, tại sao ở biển
mặn, ở sông lạt?
Sư
đáp:- Trên trời sao, dưới đất cây.
- Hòa
thượng lâu nay ở đây có cảnh giới gì?
- Bé
gái chừa hai chỏm, đầu bạc như tơ.
- Thế
nào là Tỳ-lô (pháp thân)?
- Đã
có danh tự.
Thế
nào là Tỳ-lô sư (thầy Pháp thân)?
- Khi
chưa có Tỳ-lô hội lấy.
- Khi
bốn núi (sanh, lão, bệnh, tử) ép ngặt làm thế nào?
- Năm
uẩn đều không.
- Khi
một niệm chưa sanh là thế nào?
- Thật
là lời nói dối.
- Trên
trời dưới trời chỉ ta là hơn hết, thế nào là ta?
- Xô
té ông già Hồ (Phật) có lỗi gì?
- Thế
nào là Hòa thượng Sư?
- Đón
đó chẳng thấy đầu kia, theo đó chẳng thấy hình kia.
- Khi
mặt trời mặt trăng chưa sáng, Phật cùng chúng sanh ở chỗ
nào?
- Thấy
Lão tăng giận liền nói giận, thấy Lão tăng mừng liền nói
mừng.
*
Sư
hỏi một vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?
Tăng
thưa:- Ở núi Đông núi Tây lễ Tổ sư mới đến.
Sư
bảo:- Tổ sư không ở núi Đông núi Tây.
Tăng
lặng câm
*
Trà
đầu (trưởng phòng trà) vào phương trượng thưa hỏi. Sư
bảo:
- Hãy
đi, đợi khi không người sẽ đến, ta vì xà-lê nói.
Hôm
sau, Trà đầu rình đợi lúc không người đến thưa: "Thỉnh
Hòa thượng nói" Sư bảo: "Lại gần đây" Trà đầu đến
gần. Sư bảo: "Liền chẳng đặng nói lại cho người."
*
Tăng
hỏi:- Sư tử là vua trong loài thú, tại sao bị sáu trần nuốt?
Sư
đáp:- Chẳng làm, tột không ngã nhân.
*
Sư
ở núi Đầu tử hơn ba mươi năm, những Thiền khách qua lại
tham vấn thường đầy cả thất. Sư dùng biện tài vô úy
tùy hỏi liền đáp, ứng cơ đối đáp lời lẽ tinh vi rất
nhiều, đây lược ghi ít phần mà thôi.
*
Đời
Đường niên hiệu Trung Hòa (881) giặc cướp nổi dậy, dân
chúng tán loạn, có bọn cuồng đồ cầm đao lên núi, hỏi
Sư: "Ở đây làm gì?" Sư tùy nghi thuyết pháp, bọn chúng nghe
đều bái phục, cởi y phục cúng dường, rồi giải tán.
*
Thời
Ngũ đại niên hiệu Càn Hóa năm thứ tư (914) ngày mùng sáu
tháng tư, Sư có chút ít bệnh. Đại chúng rước thầy thuốc.
Sư
bảo chúng:
- Động
tác của tứ đại họp tan là phép thường, các ngươi chớ
lo, ta tự giữ lấy.
Nói
xong, Sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Thọ chín
mươi sáu tuổi, vua ban hiệu là Từ Tế Đại sư, tháp hiệu "Chân Tịch".
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.