THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 2
ĐỜI THỨ
NĂM SAU LỤC TỔ
B.
Phái Hoài Nhượng
7.
TRẦN TÔN TÚC Hiệu
Đạo Minh - (?-?)
Sư
quê ở Giang Nam họ Trần. Thuở bé, Sư dung nhan kỳ đặc,
nhân đến chùa Khai Nguyên lễ Phật, thấy Tăng như đã quen
trước. Về, Sư xin phép cha mẹ xuất gia, cha mẹ đồng ý
cho.
Sau
khi làm Tăng, Sư giữ giới tinh nghiêm học thông ba tạng. Đi
du phương, Sư thâm ngộ nơi Tổ Hoàng Bá. Được mọi nơi
kính trọng gọi là Tôn Túc nên thành danh Trần Tôn Túc.
Về
sau, Sư về ở chùa Khai Nguyên thường dùng cỏ bồ đan giày
bán nuôi mẹ. Do đó, cũng có tên là Trần Bồ Hài. Tăng chúng
mến trọng Sư, lần lượt tìm đến tham vấn. Lời lẽ đối
đáp của Sư rất bí hiểm khó người nhận nổi. Thế nên,
những kẻ căn cơ thô thiển đều chẳng thích. Chỉ những
bậc tánh sáng am hiểu huyền học, mới khâm phục.
*
Tham
vấn buổi chiều, Sư bảo chúng:
- Các
ngươi lại được chỗ bước vào chưa? Nếu chưa được chỗ
bước vào, cần được chỗ bước vào, nếu đã được chỗ
bước vào, về sau chớ cô phụ Lão tăng.
Có
một vị Tăng bước ra lễ bái thưa:
- Con
trọn chẳng dám cô phụ Hòa thượng.
Sư
bảo:- Ngươi trước đã cô phụ ta rồi.
Sư
bảo:
- Ta
đã nói rõ với ngươi, ngươi còn chẳng hội, huống là che
đậy mai sau.
Sư
lại bảo:
- Lão
tăng trụ trì ở đây chẳng từng thấy một người vô sự
đi đến. Các ngươi sao chẳng lại gần?
Có
một vị Tăng mới bước lại gần.
Sư
bảo:
- Duy-na
chẳng có ở đây, ngươi tự lãnh hai mươi (20) gậy đi ra
ngoài ba cửa.
Tăng
thưa:- Con lỗi ở chỗ nào?
Sư
bảo:- Đã đeo còng lại mang gông.
*
Bình
thường, Sư thấy Tăng đến liền đóng cửa. Hoặc thấy Giảng
sư đến, Sư gọi: Tọa chủ! Tọa chủ: dạ! Sư bảo: Kẻ
vác bảng. Hoặc bảo: trong ấy có thùng cho tôi gánh nước.
Một
hôm, Sư đứng ngoài hành lang, có vị Tăng đến hỏi: ?Phòng
Trần Tôn Túc ở chỗ nào?? Sư liền cổi giày, đè đầu vị
Tăng ấy đập. Vị Tăng ấy chạy. Sư gọi: Đại đức! Tăng
xoay đầu nhìn lại. Sư chỉ bảo: Đi bên này.
*
Có
vị sứ thần đến viếng. Sứ thần hỏi: "Ba cửa đều mở,
từ cửa nào vào?" Sư gọi: "Thượng thơ" Sứ thần ứng thanh: "dạ!" Sư bảo: "từ cửa tín vào". Sứ thần nhìn lên vách
thấy tượng vẽ, hỏi: "Hai tôn giả đối mặt luận việc
gì?" Sư gõ cây cột nói: "Trong ba thân cái nào chẳng nói pháp?"
*
Tăng
hỏi: Thế nào là ý Tào Khê? Sư bảo: Lão tăng ưa sân chẳng
ưa hỉ. Tăng hỏi: vì sao như thế? Sư đáp: gặp tay kiếm
khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ nói thơ (lộ
phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc thuyết
thi.)
*
Tăng
hỏi: "Giáo ý Tổ ý là đồng là khác?" Sư bảo: "Núi
xanh tự núi xanh, mây trắng tự mây trắng." Tăng hỏi: "Thế
nào là núi xanh?" Sư bảo: "Trả một hạt mưa cho ta." Tăng
thưa: "Nói chẳng được, thỉnh Thầy nói." Sư bảo: "Pháp
Hoa xông trước trận, Niết-bàn câu chót thâu."
*
Sư
xem kinh, Thượng thơ Trần Tháo đến hỏi: Hòa thượng xem
kinh gì? Sư bảo: Kinh Kim Cang. Tháo bảo: Lục triều phiên dịch,
đây là thứ mấy dịch? Sư đưa quyển kinh lên bảo: Tất
cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh.
*
Sư
xem kinh Niết-bàn, có vị Tăng hỏi: Hòa thượng xem kinh gì?
Sư
đưa quyển kinh lên bảo: cái này là phẩm trà-tỳ rốt sau.
*
Vị
Tăng mới đến lễ bái Sư, Sư quở: Xà-lê tại sao trộm trái
cây của Thường trụ ăn? Tăng thưa: Con vừa mới đến, vì
sao Hòa thượng nói trộm trái cây? Sư bảo: tang vật vẫn
còn.
*
Có
vị Đại đức được vua ban tử y đến lễ bái. Sư cầm
cái mũ lên, hỏi: Cái này gọi là gì? Đại đức đáp: Mũ
triều thiên. Sư bảo: Thế ấy thì Lão tăng chẳng đội. Sư
lại hỏi: Nói thế nào? Đại đức đáp: Tam giới duy tâm,
vạn pháp duy thức.
Sư
chỉ cánh cửa hỏi: Cái ấy là gì? Đại đức đáp: Sắc
pháp. Sư bảo: Trước rèm ban tử y, đối vua thuyết pháp,
tại sao không giữ năm giới? Đại đức không đáp được.
*
Sư
thượng đường: Xé tan ra cũng là ta, gom nhóp lại cũng là
ta. Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là xé tan ra? Sư bảo: ba lần
chín là hai mươi bảy, Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát
tức tâm tức Phật. Ta đã nói thế ấy, ngươi lại nói thế
nào? Tăng thưa: con chẳng nói thế ấy. Sư bảo: cái chén đánh
rơi xuống đất, cái dĩa bể thành bảy miếng. Tăng hỏi thế
nào là gom nhóp lại? Sư bèn ngồi khoanh tay.
*
Sư
dạy chúng:
- Việc
lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa
ma mẹ.
Lại
dạy:
- Ta
thấy Tổ Bá Trượng không biết tốt xấu, đại chúng vừa
họp lấy gậy đồng thời đánh đuổi, lại gọi "đại chúng",
chúng xoay đầu lại, bèn bảo "ấy cái gì, có chỗ nào cùng
nói?" Lại Hòa thượng Hoàng Bá cũng vậy, đánh chúng chạy,
lại gọi "đại chúng", chúng xoay đầu lại, bèn bảo "trăng
tợ cung loan mưa ít gió nhiều".
*
Sư
sắp tịch gọi môn đồ lại nói: Nơi đây hết duyên, ta sẽ
đi vậy, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ chín mươi tám
tuổi được bảy mươi sáu tuổi hạ.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.