THIỀN
SƯ TRUNG HOA
HT
Thích Thanh Từ
TẬP 2
ĐỜI THỨ
NĂM SAU LỤC TỔ
B.
Phái Hoài Nhượng
9.
HƯƠNG NGHIÊM TRÍ NHÀN (724-814)
Sư
quê ở Thanh Châu, chán tục xuất gia, đi tham vấn các nơi.
Khi ở chỗ Tổ Bá Trượng, Sư tánh thức minh mẫn, tham thiền
chẳng ngộ. Đến Tổ Bá Trượng tịch, Sư theo tham học với
Qui Sơn Linh Hựu.
Một
hôm Qui Sơn bảo:
- Ta
nghe ngươi ở chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười,
hỏi mười đáp trăm, đó là ngươi thông minh lanh lợi, ý
hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói
một câu khi cha mẹ chưa sanh xem?
Sư
bị một câu hỏi này mờ mịt không đáp được. Trở về
liêu, Sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp
trọn không thể có. Sư than:
"Bánh
vẽ chẳng no bụng đói." Đến cầu xin Qui Sơn nói phá. Qui
Sơn bảo:
- Nếu
ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc
của ta đâu can hệ gì đến ngươi?
Sư
bèn đem những sách vở đã thu thập được đồng thời đốt
hết. Sư nói:
"Đời
này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm Tăng thường làm
việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần." Sư khóc từ giã Qui
Sơn ra đi.
*
Thẳng
đến Nam Dương chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư trụ tại
đây. Một hôm nhân cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném
trúng cây tre vang tiếng, Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười.
Sư trở về tắm gội thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh
lễ, ca tụng rằng: "Hòa thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi
trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay." Sư làm
bài tụng:
Nhất kích vong sở tri
Cách bất giả tu trì.
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu (tiểu) nhiên ki (cơ).
Xứ xứ vô tung tích
Thanh sắc ngoại oai nghi.
Chư nhân đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng ki (cơ).
(Một tiếng quên sở tri
Chẳng cần phải tu trì.
Đổi sắc bày đường xưa
Chẳng rơi cơ lặng yên.
Nơi nơi không dấu vết
Oai nghi ngoài sắc thanh.
Những người bậc đạt đạo
Đều gọi thượng thượng cơ.)
*
Qui
Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn: "Kẻ này đã triệt
ngộ." Ngưỡng Sơn thưa: "Đây là máy tâm ý thức trước thuật
được, đợi con đến nơi khám phá mới chắc."
Ngưỡng
Sơn đến thăm Sư, bảo:
- Hòa
thượng khen ngợi Sư đệ đã phát minh đại sự, thử nói
tôi nghe?
Sư
đọc bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:
- Đó
là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thật chánh
ngộ hãy làm bài tụng khác.
Sư
nói tụng:
Khứ niên bần vị thị bần
Kim niên bần thủy thị bần
Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa
Kim niên bần chùy dã vô.
(Năm xưa nghèo chưa thật nghèo
Năm nay nghèo mới thật nghèo
Năm xưa nghèo vẫn còn có đất cắm dùi
Năm nay nghèo dùi cũng không.)
Ngưỡng
Sơn bảo:- Sư đệ ngộ Như Lai thiền mà chưa ngộ Tổ sư
thiền.
Sư
lại nói bài tụng:
Ngã hữu nhất ki (cơ) Ta có một ki (cơ)
Thuấn mục thị y Chớp mắt chỉ y
Nhược nhân bất hội Nếu người chẳng hội
Biệt hoán Sa-di Riêng gọi Sa-di.
Ngưỡng
Sơn gật đầu và về thưa lại Qui Sơn:
- Đáng
mừng! Sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ sư thiền.
*
Sau,
Sư về trụ tại Hương Nghiêm, Tăng chúng nghe danh kéo nhau
đến tham vấn.
Sư
thượng đường:
- Đạo
do ngộ mà đạt, chẳng tại ngữ ngôn, huống là thấy miên
mật rỡ rỡ chưa từng cách rời, chẳng nhọc tâm ý. Tạm
nhờ hồi quang phản chiếu, hằng ngày công dụng trọn vẹn,
kẻ mê thì tự trái.
*
Tăng
hỏi:
- Khi
chẳng mộ chư thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?
Sư
đáp:- Muôn cơ thôi bỏ, ngàn thánh chẳng đeo.
Khi
ấy có Sơ Sơn ở trong chúng phát tiếng ụa, hỏi:
- Ấy
là tiếng gì?
Sư
hỏi:- Ai đó?
Chúng
thưa:- Sư thúc.
Sư
hỏi:- Chẳng bằng lòng Lão tăng sao?
Sơ
Sơn bước ra nói:- Phải.
Sư
hỏi:- Ngươi nói được chăng?
Sơ
Sơn nói:- Nói được.
- Ngươi
thử nói xem.
- Nếu
bảo tôi nói cần phải đáp lại lễ thầy trò mới được.
Sư
liền bước xuống tòa lễ bái, hỏi lại câu trước.
Sơ
Sơn nói:
- Sao
chẳng nói, khẳng (nhận) trọng chẳng được toàn.
Sư
bảo:
- Ngươi
nói thế ấy, ba mươi năm tiêu ngược, dù ở núi không có
củi đốt, ở gần nước không có nước uống. Rõ ràng nhớ
lấy!
(Sau
Sơ Sơn bị bệnh mửa hai mươi bảy năm mới bớt, còn ba năm
sau mỗi khi ăn xong cũng lấy tay móc cho mửa ra. Đúng như lời
Hương Nghiêm thọ ký.)
Tăng
hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Rồng ngâm trong cây khô."
- "Con chẳng hội." Sư bảo: "Tròng con mắt trong đầu lâu."
Hỏi: "Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Hòa thượng nói?" Sư
đáp: "Trước thợ săn chẳng được nói giới của Bổn sư."
*
Sư
bảo chúng:
Ví
như người leo lên cây cao, dưới là vực thẳm ngàn thước.
Người ấy miệng ngậm cành cây, chân không đạp chỗ nào,
tay không bám vào đâu. Chợt có người đến hỏi "ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang". Nếu mở miệng đáp thì mất mạng nát
thân, bằng chẳng đáp thì phụ lòng người hỏi. Chính khi
ấy phải làm sao?
Khi
ấy có Thượng tọa Chiêu bước ra thưa:
- Chẳng
hỏi khi đã leo lên cây, lúc chưa leo lên cây thì thế nào?
Sư
cười rồi thôi.
*
Có
vị Tăng từ Qui Sơn đến, Sư hỏi: "Những ngày gần đây
Hòa thượng có dạy những câu gì?" Tăng thưa: "Có người
hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, Hòa thượng liền
dựng đứng phất tử.? Sư hỏi tiếp: "Trong ấy huynh đệ
hiểu ý Hòa thượng thế nào?" Tăng thưa: "Trong ấy bàn với
nhau rằng "chính nơi sắc mà rõ được tâm, gá nơi vật mà
hiển được lý?" Sư bảo: "Hội thì liền hội, chẳng hội
mắc kẹt nơi ấy chết gấp." Tăng lại hỏi Sư: "Ý Thầy
thế nào?" Sư liền giở phất tử lên.
Sư
có làm bài kệ:
Tử thốt mẫu trác Con kêu mẹ mổ
Tử giác mẫu xác Con biết mẹ vỏ
Tử mẫu câu vong Con mẹ đều quên
Ứng duyên bất thát Hợp duyên chẳng lố.
Sư
tùy cơ dạy chúng những lời đơn giản, và có làm trên hai
trăm bài tụng đối cơ ứng dụng không theo qui luật, các
nơi truyền bá rất thạnh.
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì
người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi
là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư
họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư
dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài
khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa
La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau
Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời
Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập
thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền
sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham
học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm
ấn.
Sau
khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật
Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam
Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung
và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá
tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất
đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Các
ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng
thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh
Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên
đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh
Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."
(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư
đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con
nít nín rồi thì thế nào?
- Phi
tâm phi Phật.
- Người
trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói
với y là "phi vật".
- Khi
chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy
dạy y thể hội đại đạo.
*
Có
vị Tăng hỏi:
- Ly
tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang?
Sư
đáp:
- Hôm
nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi
Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
- Hôm
nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh
Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Cư
sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước
không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này
thế nào?
Sư
đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân
xương?
Uẩn
bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn
lên!
Sư
liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn
nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư
liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.
Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Hoài
Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư
đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư
lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài
Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư
bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài
Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng
hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư
đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng
hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư
liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ
cười ta.
*
Ðặng
Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn
Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường
Thạch Ðầu trơn.
- Có
cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn
Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một
vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy
là tông chỉ gì?
Thạch
Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi
nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi
"hư! hư!"
Ẩn
Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch
Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn
Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta
đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có
vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư
hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi
giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu
không phải là sư tử con?
- Không
dám.
Sư
thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng
sư nói:- Ðây là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ra khỏi hang.
Sư
bèn im lặng.
Giảng
sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là
pháp gì?
- Pháp
sư tử ở trong hang.
- Không
ra không vào là pháp gì?
Giảng
sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ
tọa!
Giảng
sư xoay đầu lại.
Sư
hỏi:- Là pháp gì?
Giảng
sư cũng không đáp được.
Sư
bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo
không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm
sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn
hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là
tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ
xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng
phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh
Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp
vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu
dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên
đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là
cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn
nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp
đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
Ðệ
tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là
đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm
chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời
Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng
tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành
trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị
giả:
- Thân
cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,
Sư trở về.
Ðến
ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi
kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi
tuổi hạ.
Sau
vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.